Bình giảng bài thơ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu

Những bài văn mẫu hay lớp 11

Văn mẫu lớp 11: Bình giảng bài thơ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

Bình giảng bài thơ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu

Thơ Xuân Diệu là cả một bầu xuân, là cái bình chứa muôn hương của tuổi trẻ. Thi sĩ không ngớt chào mời giục giã mọi người hãy tận hưởng tuổi trẻ và tình yêu - “phần ngon nhất của cuộc đời”. Xuân Diệu đã từng bỏng môi, rát lưỡi, đau răng vì đã uống tham lam vào suối mặt trời, đã ăn hăm hở vào trái mùa xuân. Là con người yêu sống, ham sống, cho nên khi cảm nhận được sự trôi chảy không ngừng của thời gian, sự tàn lụi của cảnh vật (dù là mới chớm) nhà thơ hốt hoảng buồn sầu cũng là điều dễ hiểu. Đây mùa thu tới tiêu biểu cho tâm trạng ấy của ông.

Mùa thu là người bạn muôn đời của thi ca. Cái rét buốt tê tái của mùa đông qua đi để nàng xuân đến với bao nhiêu niềm vui và sự sống, có lẽ gây ấn tượng mạnh hơn trong lòng người, nhưng lại không gợi thi tử nhiều như mùa thu, phải chăng vì thu dịu dàng, thu buồn hơn. Với những tâm hồn thi sĩ đa cảm, đa tình, niềm vui phơi phới đã dễ rung động, những nỗi buồn thì càng gợi cảm xúc nhiều hơn. Xuân Diệu cũng vậy. Thi sĩ đã để cho lòng mình, hồn mình rung lên những nhịp đập xốn xang khi mùa thu đến. Đây mùa thu tới phảng phất một nỗi buồn nhưng lại đẹp đến nao lòng.

Nhà thơ cảm nhận mùa thu tới trong vẻ đẹp của nỗi buồn:

“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

Đây mùa thu tới - mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng”

Mở đầu bài thơ là hình ảnh liễu - một hình ảnh quen thuộc trong Đường thi. Trước đó, Nguyễn Du đã từng có câu thơ rất hay về liễu: “Lơ thơ tơ liễu buông mành”. Mặc dù học tập hình ảnh ước lệ trong văn chương cổ, nhưng “liễu” của Xuân Diệu không có vẻ gì là vay mượn. Cảnh mang hồn của Xuân Diệu, hồn Việt Nam tuy quen mà lạ, tuy ước lệ mà lại rất cụ thể bởi cách liên tưởng sáng tạo và độc đáo: “đìu hiu đứng chịu tang”. Với nét bút mềm mại và khoáng đạt, nhà thơ đã vờn vẻ vào không gian dáng hình yểu điệu, lả lướt của những rặng liễu thả dài sóng tóc gội đầm đìa trong những cơn mưa lệ. Từ láy “đìu hiu” cùng với nghệ thuật láy âm “buồn buông”, “ngàn hàng”… đầy sức gợi. Câu thơ gợi cảm giác nhiều hơn là tả. Liễu buồn nhưng đẹp ảo não, thướt tha. Càng buồn, càng đẹp. Càng đẹp lại càng buồn. Cảnh thấm đậm tâm trạng khiến cho người đọc không khỏi vấn vương chút tơ lòng. Cái tài của tác giả là cảnh buồn nhưng không chết lặng mà có hồn.

Câu thơ thứ ba cất lên tiếng lòng thi sĩ: “Đây mùa thu tới - mùa thu tới”. Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của thi sĩ đã bắt kịp bức thông điệp của đất trời. Dường như giữa im lìm của vạn vật, chỉ một mình nhà thơ lắng nghe được bước chuyển rất nhẹ của thời gian. Câu thơ có giá trị như một lời thông báo, xác nhận sự hiện diện của thời gian. Trong một câu mà có tới hai lần “mùa thu tới”, thi sĩ như vội vàng, cuốn quýt thốt lên khi mùa thu vừa bước đến. Như đã chờ đợi từ lâu, Xuân Diệu mở rộng lòng mình để đón thu. Ông cảm nhận thêm một dáng vẻ của mùa thu:

“Với áo mơ phai dệt lá vàng”

Xuân Diệu đã khoát lên mùa thu một chiếc áo vàng sáng rạng rỡ, kiều diễm và sang trọng. Không gian như òa sáng bởi màu vàng mơ đầy gợi cảm. Mùa thu đẹp, thơ mộng, cảnh sáng nhưng buồn thì cũng buồn vô tận.

Đây mùa thu tớiBức tranh chớm thu có đường nét mềm mại của liễu, có màu sắc, có tình người. Hình ảnh liễu cùng với màu áo mơ phai mở đầu đã gây một ấn tượng ban đầu cho người đọc để đến khổ thứ hai, mùa thu được cảm nhận tinh tế và đầy cảm giác:

“Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh,

Những luồng run rẩy rung rinh lá…

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.

Cảnh thu có hoa, có lá, có gió, trổ vào không gian những cành trơ trụi khẳng định trong rét mướt. Ân tượng lớn nhất trong khổ thơ là cách diễn đạt rất mới, rất tinh vi: “hơn một loài hoa”, “rũa màu xanh”… Tất cả đều ở độ mới chớm, mới bắt đầu. Hơn một loài hoa chứ không phải tất cả các loài hoa, trong vườn sắc đỏ mới “rũa” màu xanh, chứ không phải “rửa”, Ta có cảm giác màu đỏ đang lấn dần, lấn dần để cuối cùng tràn ngợp, khắc khoải một màu đỏ lụi tàn. Câu thơ gợi cảm giác, như có sự nhói buốt trong tâm hồn. Lẽ ra, vào thu ở ta, mùa vàng là màu hợp hơn nhưng ở đây, Xuân Diệu đã chọn màu đỏ để đối chọi với màu xanh đang bị lấn dần tạo ấn tượng trong lòng người.

Hai câu thơ sau mới thật là tuyệt bút, với sư quan sát tinh vi mang hồn Việt Nam. Sự thật chỉ có gió thổi làm cho lá rung rinh nhưng Xuân Diệu đã tưởng tượng làm cho gió cũng run rẩy vì rét. Bốn âm “r” đã phát huy tác dụng. Người đọc như run lên vì rét, sau lưng rung động vì hay. Như một nhà điêu khắc tài ba, Xuân Diệu đã trổ, đã khắc vào không gian những nhánh khô không còn sức sống, xương xẩu, gầy guộc, khắc khổ, mà không phải nhiều nhánh, chỉ có “đôi nhánh”, lại đặt trong cái rét đến buồn lòng, nên cành nhỏ nhoi, mỏng manh, càng buồn gấp bội. Câu thơ có bảy chữ thì có đến sáu chữ gây ấn tượng. Trong ca dao đã có không ít lần xuất hiện hình ảnh cành trúc, đến Nguyễn Khuyến đã tiến lên một bước: “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu:”, và đến đây, Xuân Diệu đã đẩy lên một mức. Có lẽ là cao nhất: “nhánh”, nghe đã thấy nhỏ nhoi chứ không nói gì đến một loạt các từ cùng nghĩa sau đó: “Khô gầy xương mỏng manh”. Câu thơ đầy chất tạo hình của Xuân Diệu đã mài nhọn các giác quan cho ta. Tất cả đều ở mức độ khởi sự, các thông tin đều mang tính vi lượng. Tác giả đã để lại trong lòng người đọc cảm giác tê buốt thấm thía đến từng thớ thịt, đã chạm vào chỗ da non của từng người. Đây là thời điểm giao mùa. Nếu như không có một tâm hồn tinh tế thì thi sĩ không thể cảm nhận được tinh vi đến vậy. Cảnh vật đang dần dần tàn lụi, thời gian không ngừng trôi chảy, nên một con người ham sống như Xuân Diệu làm sao không buồn. Có lẽ, do lòng yêu tuổi trẻ, do muốn ngăn sự già nua tàn tạ nên nhà thơ luôn luôn cảnh giác và báo động:

“Dưới gốc nào đâu có xác ve

Thế mà ve đã tắt theo hè”

Hay:

“Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”.

Chính vì vậy mà nhà thơ cảm thấy cô đơn, buồn sầu khi thu tới:

“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ

Non xa khởi sự nhạt sương mờ

Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò…”

Cảm giác cô đơn không khơi gợi từ mọi vật, vầng trăng được miêu tả trong câu thơ độc đáo và tinh nghịch: Trong một phút thả lòng, bâng khuâng, ngẩn ngơ khó nói thì bị thi nhân tinh quái bắt quả tang. Giữa thiên nhiên và con người như có sự hòa đồng, giao cảm nên con người mới có thể hiểu được giây phút tự “ngẩn ngơ” của thiên nhiên. Hình ảnh non xa sương mờ thấp thoáng, nhạt nhòa gợi không khí sương khói bảng lảng, mơ hồ thật đẹp nhưng vẫn thoáng buồn.

“Đã nghe rét mướt luồn trong gió…”

Có gió thì mới rét và rét thì mới gió, nhưng ở dây, Xuân Diệu đã tách gió và rét ra làm hai, cái rét luồn, ẩn trong gió, chưa thực sự hiện diện, chưa lộ mặt bởi đây mới chỉ là bắt đầu. Xuân Diệu đã phát huy cao độ khả năng cảm thụ với nhãn lực tinh tường. Thật ra là cảm thấy cái rét lẩn khuất trong gió nhưng thi nhân lại nói là “đã nghe”. Dường như giữa con người và thiên nhiên có một mối dây vô hình gắn bó và am hiểu. Đây là gió từ hồn thổi ra. Hình như, tác giả cố tìm bóng dáng cuộc sống của con người nhưng không có:

“Đã vắng người sang những chuyến đò…”

Con thuyền trong thơ Nguyễn Trãi đã buồn “Cô chu trấn nhật các sa miên” (Con thuyền gối đầu trên cát ngủ suốt ngày) nhưng ở đây, hình ảnh con thuyền còn buồn hơn vì nó lênh đênh trên sông nước, đợi chờ khắc khoải một bóng người nhưng “đã vắng”, không phải chỉ “vắng” trong hiện tại mà “đã”: từ trước đây.

Tất cả đều vắng vẻ. Đấy là sự cô đơn, chia lìa trên mặt đất, của người vì không đoàn tụ. Ở khổ cuối là sự chia lìa của thiên nhiên:

“Mây vẩn từng không chim bay đi

Khí trời u uất hận chia li”

Nhà thơ đã cảm thấy bước chuyển rất nhẹ của thiên nhiên: “mây vẩn”, có sự xuất hiện của sự sống: đàn chim nhưng là “chim bay đi”. Đò đã vắng, chim lại bay đi, để lại một khoảng trống không mênh mông, xa vắng. Nỗi buồn thương tràn sang cảnh vật và quay trở lại xoáy vào lòng người, da diết thấm thìa khôn cùng. Không chỉ riêng thiên nhiên nói lên cái u uất chia li mà chính lòng người cũng phải cất lên thành lời “Khí trời u uất hận chia li”. Nỗi đau xót, u uất dằn xuống.

Hai câu kết bài thơ đầy sức gợi

“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”

Con người đẹp nhất khi có niềm vui và nụ cười, còn ở dây, thiếu nữ “buồn không nói”, trầm ngâm suy tư. Câu thơ không xác định ở số lượng “ít nhiều”, ở hướng nhìn “nhìn xa”, “không nói”, “nghĩ ngợi gì”. Người thiếu nữ này cũng là một cảnh quan, nhưng là nét đẹp cao nhất của cảnh, biết cảm thụ, nghe được tất cả những cái vắng lặng từ những cảnh quan khác dồn tới mà buồn, chữ “hành khách” ở câu thơ của Nguyễn Trãi: “Dã kính quan lương hành khách thiểu” còn là người nói chung, nhắc đến nó để nói sự không có. Còn ở đây, hình ảnh thiếu nữ là cụ thể, là có thật, đang tồn tại. Trạng thái buồn không xác định lí do, tư thế nhìn cũng không xác định duyên cớ. Bài thơ khép lại ở một trạng thái, một tư thế.

Đây mùa thu tới có lúc sử dụng thi liệu ước lệ của thơ Đường nhưng kết thúc lại không giống thơ Đường, câu cuối của thơ Đường thường đóng lại, khép kín ý thơ từng bài. Nhưng ở đây, tác giả lại mở ra, khơi gợi ở người đọc một cảm hứng đồng sáng tạo. Nó để ngõ dành cho sự liên tưởng, cảm nhận của từng người đọc. Bài thơ kết thúc cũng là lúc ta bắt đầu cảm thấy được cái điều “ít nhiều thiếu nữ buồn không nói. Đó chính là tài năng của Xuân Diệu.

Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cách diễn đạt truyền thống và mới mẽ do học tập văn hóa Phương Tây, với tâm hồn thi sĩ giàu cảm xúc và tài năng, Xuân Diệu đã góp phần cho Thơ mới nói riêng và nền văn học nói chung một tác phẩm có giá trị: Đây mùa thu tới. Bài thơ mang hồn thơ Xuân Diệu, hồn Việt Nam.

Đây là “tiếng thở dài của những tâm hồn cô đơn tội nghiệp đi tìm nhau”.

Có lẽ, tác giả muốn gởi gắm một lời khuyên mang ý nghĩa nhân bản: Những con người lẻ loi cô đơn hãy xích lại gần nhau để giải tỏa nỗi cô đơn này.

Đây mùa thu tới như một bức tranh lụa cổ hòa sắc lạnh. Hình ảnh mùa thu nên thơ, nên họa trong tác phẩm không phải không liên quan đến những cảnh quan mĩ lệ của đất Việt. Phải chăng hồn dân tộc của bài thơ không hỏi mà hiện ra ở điều đó? Xuân Diệu đã đem đến cho chúng ta một bức tranh thiên nhiên u buồn mà rất đỗi xinh đẹp, một tâm hồn chân thành và tha thiết, nỗi buồn trong sáng, nỗi cô đơn tràn ngập trong thơ ấy là nỗi buồn chung của cả một thế hệ thanh niên mất nước ngày đêm khao khát sự hòa nhập với cuộc đời.

Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 11: Bình giảng bài thơ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 11 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 11.

Bài tiếp theo: Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Đánh giá bài viết
1 2.596
Sắp xếp theo

    Học tốt Ngữ Văn lớp 11

    Xem thêm