Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Bình giảng bài thơ Khe chim kêu

Các bạn học sinh thân mến! VnDoc luôn song hành cùng các bạn trong qua trình học tập, để giúp các bạn học sinh có kết quả cao hơn trong học tập, mời các bạn tham khảo tài liệu Bình giảng bài thơ Khe chim kêu, chắc chắn bộ tài liệu sẽ là bộ thông tin hay để các bạn nắm chắc nội dung bài thơ một cách đơn giản hơn.

1. Bình giảng bài thơ Khe chim kêu mẫu 1

Vương Duy (701-761) tự là Ma Cật quê ở Sơn Tây, Trung Quốc. Năm 21 tuổi đỗ tiến sĩ, làm quan thời Thịnh Đường. Ông là một nghệ sĩ nổi tiếng tài hoa: thơ hay, vẽ đẹp, thư pháp như rồng bay phượng múa. Ông để lại trên 400 bài thơ và hơn một nghìn bức hoạ, thư pháp. Tô Thức thời Tống đã ca ngợi: "Thưởng thức thơ Ma Cật thấy trong thơ có họa; xem họa Ma Cật, thấy trong họa có thơ".

"Điểu minh giản" (Khe chim kêu) là bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Vương Duy "trong thơ có hoạ":

"Nhân nhàn quế hoa lạc,

Dạ tĩnh xuân sơn không.

Nguyệt xuất kinh sơn điểu,

Thời minh tại giản trung".

Người đọc nghe thấy gì, nhìn thấy gì trong bút tranh thuỷ mặc "Điểu minh giản" này?

Hai câu thơ vừa có cánh, vừa có tình. Đêm yên tĩnh (dạ tĩnh) là thời gian nghệ thụật. Ngọn núi xuân xa mờ hiện lên trong vắng lặng. Một đóa hoa quế rụng. Hoa nguyệt quế trắng phau, thơm nồng nàn, mỗi tháng nở hoa một lần; thi sĩ không tả màu sắc, hương thơm hoa nguyệt quế, mà chỉ gợi tả "quế hoa lạc". Chữ "rụng" lạc là nhãn tự. Tác giả lấy động, tiếng hoa quế rụng để làm nổi bật cái vắng không của núi xuân, cái yên tĩnh của đêm xuân về khuya. Đó là không gian nghệ thuật. Chữ "nhàn" qua hình ảnh "nhân nhàn" là tâm trạng nghệ thuật: nhà thơ sống thư nhân, tâm hồn thư thái, mơ màng, lắng nghe tiếng rụng của hoa quế rơi. Mơ hồ và thì thầm. Đó là tiếng đâm xuân êm đềm. Phải chăng đó là tiếng thở nhẹ của giai nhân?

Đóa hoa quế chỉ bằng chiếc cúc bạch ngọc mỏng manh, rụng xuống se sẽ thế mà thi nhân nghe được, cảm được, không chỉ tâm nhàn mà còn hồn mộng. Người và Cảnh giao hoà. Ngô Tất Tố dùng thơ lục bát đế dịch thơ ngũ ngôn của Vương Duy đã tạo nên nhạc điệu êm đềm thơ mộng:

"Người nhàn hoa quế nhẹ rơi,

Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh".

Hai câu cuối là nét vẽ vừa có ánh sáng vừa có âm thanh. Trăng đột hiện, trăng xuân. Vì ở núi cao nên thấy trăng mọc rất rõ. Bóng tối của màn đêm nơi núi xuân như bị xua tan. Ánh trăng đã làm cho con chim núi giật mình (kinh sơn điểu) cất tiếng kêu nơi khe sâu bên vách núi. Nghệ thuật chấm phá của ngòi bút nghệ thuật của Vương Duy thật thần tình: lấy động (tiếng chim kêu trong khe) để đặc tả cái vắng lặng, êm đềm của núi xuân, đêm xuân; lấy sáng đế tả tối, lấy ánh trăng để tả màn đêm, tả cái sâu hút, thâm u của khe suối.

Thi nhân chỉ chấm phá, điểm nhấn bằng một vài đường nét mà rung động, ấn tượng. Tiếng chim kêu trong khe, ánh tráng vừa mọc như làm cho nhà thơ chợt tỉnh giấc mộng đêm xuân. Ngô Tất Tổ đã dịch khá hay và sáng lạo:

"Trăng lên, chim núi giật mình,

Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi".

"Điểu minh giản" là bài thơ tuyệt tác của Vương Duy. "Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu cầm". Một bông hoa quế rụng. Một ngọn núi xuân vắng không. Một đêm xuân tĩnh lặng, êm đềm. Trăng mọc. Chim núi giật mình kêu lên trong khe núi. Giữa khung cảnh êm đẹp ấy, nhà thơ chợt tỉnh giấc mộng đêm xuân. Tâm nhàn, mộng đẹp, cảnh hữu tình nên thơ. "Điểu minh giản" mang vẻ đẹp của một bức họa sơn thủy của Vương Duy lấp lánh trong sắc màu thời gian.

2. Bình giảng bài thơ Khe chim kêu mẫu 2

Thơ Đường là thành tựu tiêu biểu của nền văn học Trung Hoa cổ, đồng thời là nhân chứng văn hóa cho một nền thơ ca lỗi lạc. Trong suốt chiều dài gây dựng, phát triển và phục dựng, thơ Đường có nhiều thay đổi, mang đến ảnh hưởng không nhỏ tới phong cách thơ ca của các nước láng giềng. Trong số những tác giả nổi bật đương thời, cái tên Vương Duy nổi lên với một hồn thơ tinh giản, an nhàn, luôn hòa nhập với thiên nhiên, đất trời để bày tỏ lòng mình. Bài thơ "Điểu minh giản" - Khe chim kêu được coi là một sáng tác làm nên tên tuổi cho nhà thơ, trong đó, sự yên bình và thanh thản trong văn phong đã được nhà thơ bộc lộ chân thực, rõ nét.

Sớm đỗ đạt và làm quan trong triều đình, chàng thanh niên Vương Duy tuổi còn trẻ mà đã nắm chức trong triều đình. Có lẽ vì thế, trong một khoảng thời gian dài, ông chọn lối sống ẩn sĩ có phần khổ hạnh, thờ Phật, hướng đạo với niềm tin mãnh liệt, quyết không để bản thân lầm lỗi giữa chốn cung đình thị phi. Từ đây, lối viết thơ của Vương Duy mang màu sắc thanh đạm, yên bình, luôn cởi mở với thiên nhiên. "Điểu minh giản" là bài thơ nổi bật cho phong cách thơ này, thể hiện một bức họa sinh động, mối liên kết, hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.

Bức tranh thiên nhiên được gợi mở với cảnh thiên nhiên trong trẻo:

Nhân nhàn quế hoa lạc

Dạ tĩnh xuân sơn không

(Người nhàn, hoa quế rụng

Đêm yên tĩnh, non xuân vắng không)

Ngay từ đầu bài thơ, từ "nhàn" đã được nhắc đến với một sự nhẹ nhàng, như thể cái "nhàn" là điều hiển nhiên, một sự đối lập hoàn toàn với quyền cao chức trọng Vương Duy đang nắm giữ. Vì người nhà, tâm người không tính toán, nên người mới nghe được tiếng hoa quế, biết được hoa quế rụng. Một bông hoa quế nhỏ bé chạm đất, chỉ có người tinh tường, tâm hồn không vẩn đục mới cảm nhận được tiếng rơi khẽ khàng ấy. Cảnh và người không có một rào cản, một sự chia cắt nào. Trong không gian "tĩnh", "vắng", "không" vào buổi đêm, trên núi vắng với tiết xuân bình lặng, cảnh tưởng có phần cô tịch, quạnh hiu. Nhưng dường như, con người sống trong khung cảnh ấy lại không thấy buồn mà trái lại, rất tình, rất nghệ, được giao hòa với thiên nhiên, được thụ hưởng cái thanh cao và yêu bình hiếm có. Một kiếp người sớm trải đời nơi cung đình lại có thể có thời gian cảm được dòng chảy, hiểu được nhịp đập của thiên nhiên, ấy là cái thú, cái nhàn của tâm hồn.

Hai câu thơ sau, khung cảnh tĩnh lặng không còn mang trạng thái cô liêu mà thay vào đó là sự xuất hiện của những nhân tố thiên nhiên khác:

Nguyệt xuất kinh sơn Điểu

Thời minh Xuân giản trung

(Ánh trăng ló lên làm chim núi giật mình

Thỉnh thoảng hót trong khe núi)

Ánh sáng của vầng trăng đêm xuân thanh cảnh, xen lẫn tiếng chim "giản trung", tiếng chim giật mình trên núi. Không gian yên tĩnh bị phá vỡ bởi tiếng chim kêu, chim giật mình vì ánh trắng ló sáng trên đỉnh núi. Lấy cái động của âm thanh và ánh sáng để đặc tả cái tĩnh lặng của khung cảnh. Cái tĩnh lặng bao trùm lên vạn vật, nuốt trọn cả ánh sáng của vầng trăng và tiếng kêu va vào vách núi của chim, tất cả tạo nên một bức tranh vừa hùng vĩ, vừa thanh bình. Phải tĩnh đến thế nào mới cảm được những âm thanh ấy, và cũng phải giữa cảnh đất trời núi non cao cả thế nào, ánh sáng của trăng mới soi tỏ làm thức giấc loài chim. Cái hay của câu thơ nằm ở chỗ lấy động tả tĩnh, lấy ánh sáng để tả màn đêm, lấy tiếng chim kêu để làm nổi bật khung cảnh yên bình. Nhưng ở đây, sự yên bình đó không phải cái im lặng rợn người, cô tịch mà người ta thấy ở đó, con người được hòa nhập với thiên nhiên, một cuộc sống không vương bụi trần, giản dị, dân dã.

Lời thơ ngắn gọn, thể thơ ngũ ngôn quen thuộc trong thơ Đường, Vương Duy đã kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố người - cảnh - vật, tạo nên một bức sơn thủy hữu tình vừa mộng mơ, vừa hùng vĩ. Thể thơ điền viên sơn thủy, nêu cao tinh thần ung dung tự tại, không màng danh lại đã được tác giả sử dụng một cách khôn khéo, trong thơ có họa, một bức họa vẽ nên một bài thơ. Có thể nói, đây là bài thơ đã tạo nên Vương Duy, tạo nên tên tuổi và sức ảnh hưởng của thể thơ này trong suốt bề dày văn học thơ Đường.

---------------------------------------------

Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Bình giảng bài thơ Khe chim kêu. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu giải bài tập Toán lớp 12, Thi thpt Quốc gia môn Toán, Thi thpt Quốc gia môn Văn, đề thi học kì 2 lớp 12, Thi thpt Quốc gia môn Lịch sử mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

Đánh giá bài viết
1 343
Sắp xếp theo

    Ngữ văn 10

    Xem thêm