Cảm nhận 4 câu cuối bài Thương vợ của Tú Xương

Cảm nhận 4 câu cuối bài Thương vợ của Tú Xương vừa được VnDoc.com biên soạn và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo để bạn đọc có thêm tài liệu học tập nhé. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết và tải về tại đây.

Dàn ý cảm nhận 4 câu cuối bài Thương vợ

1. Mở bài

Giới thiệu về tác giả và tác phẩm Thương vợ của Trần Tế Xương

Bài thơ thể hiện tấm lòng trân quý và biết ơn người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh cho chồng con.

2. Thân bài

a. Nêu ra những đức tính cao đẹp của bà Tú

Bà Tú là một người đảm đang, tháo vát, chu đáo với chồng con, làm không quản ngày đêm khó khăn và cũng không than vãn lấy nửa lời:

Nuôi đủ năm con với một chồng

Hai câu thơ:

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Câu thơ một lần đã được Tú Xương nêu ra sự cảm phục sự quên mình của vợ

Duyên chỉ có một là nợ những hai nhưng bà Tú không một lời phàn nàn, lặng lẽ chấp nhận sự vất vả vì chồng con.

Nắng mưa chỉ sự vất vả, năm, mười là số lượng phiếm chỉ để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo, vừa nói lên sự vất vả gian truân, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.

b. Nêu ra sự thương xót của ông Tú với vợ

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.

Hai câu thơ cho thấy giọng thơ như nguyền rủa thói ăn ở bạc bẽo của chính nhà thơ.

Lời chửi trong hai câu kết là lời Tú Xương rủa mát mình nhưng lại mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Ông chửi "thói đời" bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân xâu xa khiến bà Tú phải khổ. Từ hoàn cảnh riêng, tác giả lên án thói đời bạc bẽo nói chung.

3. Kết bài

Xã hội xưa coi người phụ nữ là thân phận phụ thuộc. Một nhà nho như Tú Xương dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là "quan ăn lương vợ", không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khiếm khuyết. Một con người như thế là một nhân cách đẹp.

Liên hệ với thực trạng đời sống hiện nay: người phụ nữ hiện nay, sự trân trọng của người đàn ông dành cho phụ nữ được cải thiện.

Cảm nhận 4 câu cuối bài Thương vợ của Tú Xương mẫu 1

Tình nghĩa vợ chồng bao năm nay luôn được con người coi trọng và là một trong những tình cảm cao đẹp nhất của con người. Trong xã hội cũ, có nhà thơ Tú Xương đã có những cảm xúc, vần thơ ý nghĩa khi viết về người vợ qua bài thơ Thương vợ của mình. Qua bốn câu thơ cuối, nhà thơ đã khắc họa thành công hình ảnh lam lũ của vợ mình.

Trong bốn câu thơ đầu, Tú Xương đã nêu lên được hoàn cảnh, điều kiện làm việc của vợ mình, trong bốn câu thơ cuối, ông đã mang đến cho bạn đọc cái nhìn cụ thể nhất, chi tiết nhất về cuộc đời bà Tú và góc nhìn yêu thương của mình dành cho vợ:

Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.

Vợ chồng là duyên là nợ, trong bối cảnh xã hội ấy, người phụ nữ phải lấy chồng theo sự sắp đặt của cha mẹ, cam chịu số phận mà không được lựa chọn cho mình cuộc sống. Ông Tú đặt mình vào vị trí của bà Tú để thốt lên lời cam chịu đó, ông hoá thân vào bà để cảm thông sâu sắc hơn: lấy chồng như thế này thì cũng là duyên hoặc nợ thôi, số phận đã thế thì cũng đành thế. Cho nên có khổ cực bao nhiêu, năm nắng mười mưa cũng phải chịu, phải lo, nào dám quản công. Chẳng còn là chuyện thân nữa, dù là thân cò, mà đã là chuyện phận rồi, chuyện số phận. Âu đành là một sự bất đắc dĩ, xếp lại, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục. Dám quản là không dám kể gì đến công lao, là thái độ chấp nhận gánh chịu mọi sự nhọc nhằn. Thêm âm thanh nặng nề của từ phận ở cuối câu khép lại càng làm cho câu thơ phù hợp với cảm xúc bị dồn nén vào trong.

Khép lại bài thơ là tiếng chửi chua chát mà Tú Xương đã thốt lên thay cho vợ mình:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.

Câu kết là một tiếng chửi đổng cái thói đời ăn ở bạc. Để tự trách mình thì ông phải chửi. Đối với ông Tú thì tự trách đến mức phải bật ra tiếng chửi như thế là rất giận mình. Tiếng chửi đầu tiên là một sự cảm thông, thấu hiểu với những khó khăn, vất vả mà vợ mình đã phải trải qua. Bên cạnh đó, tiếng chửi còn là sự tự trách bản thân mình của ông Tú, rằng công danh sự nghiệp của ông vẫn còn dang dở, rằng mình chưa thể đem đến cuộc sống hạnh phúc cho vợ. Câu kết là sự phán xét vô cùng đau đớn nhưng cũng rất công minh, ông Tú xỉ vả mình là ăn ở bạc, nhưng xét ra cái bạc ấy cũng chỉ mới ở mức hờ hững. Hờ hững trước việc nhà, trước mọi lo toan, vất vả, trước thái độ cam phận của vợ. Sự hờ hững ấy được ông thốt lên trong cơn giận, thực lòng ông rất thương vợ, quan tâm và đồng cảm với vợ của mình thì mới có thể cảm nhận được nỗi vất vả đó.

Bài thơ khép lại để cho bạn đọc dâng trào những cảm xúc khác nhau trong lòng. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ nói chung và bốn câu thơ nói riêng vẫn giữ nguyên tình cảm, giá trị cao đẹp vốn có của mình; đồng thời đóng góp một phần quan trọng vào kho tàng văn học Việt Nam.

Cảm nhận 4 câu cuối bài Thương vợ mẫu 2

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Trần Tế Xương và bài thơ Thương vợ.

2. Thân bài

“Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên không than vãn, trách móc. Cho nên có khổ cực bao nhiêu, năm nắng mười mưa cũng phải chịu, phải lo, nào dám quản công. Chẳng còn là chuyện thân nữa, dù là thân cò, mà đã là chuyện phận rồi, chuyện số phận.

“Năm nắng mười mươi”: Đức hi sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại. “Âu đành” là một sự bất đắc dĩ, xếp lại, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục. “Dám quản “tức là không dám kể gì đến công lao, là thái độ chấp nhận gánh chịu mọi sự nhọc nhằn. Thêm âm thanh nặng nề của từ phận ở cuối câu khép lại càng làm cho câu thơ phù hợp với cảm xúc bị dồn nén vào trong.

Hai câu thơ cuối: Hai câu kết là một tiếng chửi đổng cái thói đời ăn ở bạc. Để tự trách mình thì ông phải chửi. Đối với ông Tú thì tự trách đến mức phải bật ra tiếng chửi như thế là rất giận mình. Bài thơ ông viết ra cốt để bày tỏ tình thương yêu, quý trọng người vợ đảm đang và tự trách mình là đồ tầm thường, vô tích sự.

→ Cuộc sống vất vả gian truân nhưng càng làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của bà Tú: đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú. Đó cũng là vẻ đẹp chung cho nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Cảm nhận 4 câu cuối bài Thương vợ mẫu 3

Trần Tế Xương (bút danh là Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà thơ trào phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhà. Thơ trào lộng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Và “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng thơ trữ tình của Tú Xương.

Trong đó, ở 4 câu thơ cuối, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ:

“Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công”

Nhân dân ta thường nói “vợ chồng là duyên nợ”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn: “duyên - nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông Tơ bà Nguyệt), còn “nợ” thì đã thành trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bà Tú. “Một duyên hai nợ âu đành phận” là bà Tú đã thuận theo lòng trời và thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bà!). Nói gọn lại là bà Tú đã chấp nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, bà chấp nhận một ông đồ nho ngông “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, bà chấp nhận vị quan “ăn lương vợ” nên bà đâu “dám quản công”:

“Năm nắng mười mưa dám quản công”

Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía với hai số năm - một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây là sự linh diệu của những con số một - hai và năm - mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu đựng hết.

Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì nhà thơ chỉ còn biết tự trách mình:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không!”

Vì quá thương vợ mà nhà thơ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ thói đời...” thì đã thành lời xỉ vả mình. Thật ra là một cách ông Tú nhún mình để cho công trạng của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải là người “ăn ở bạc”. Ăn chơi sa đà thì có, “hờ hững” nữa, thì nhà thơ đã thành thật nói rồi, chứ bạc tình, bạc nghĩa thì không. Gang thép với cường quyền mà nhũn với vợ như thế thì thật là con người đáng kính.

Bài thơ độc đáo, đầy tình cảm “Thương vợ” dường như cũng đã lại thể hiện rõ phong cách nghệ thuật thơ Tú Xương cho dù nghiêm sang trọng nhưng vẫn hài hước, tự trào. Thông qua bài thơ người đọc như nhận thấy được một sự chân thành thấm thía của Tú Xương về cuộc đời về thời cuộc mà ông sống.

Cảm nhận 4 câu cuối bài Thương vợ mẫu 4

Trần Tế Xương (1870-1907), thường hay gọi là Tú Xương, quê ở Nam Định, sinh thời là người học rộng tài cao, có chí nhưng lại không gặp may mắn trong con đường công danh. Vì bất đắc chí trong chuyện học hành thi cử nên ông Tú thường lấy việc sáng tác văn chương làm thú vui để đỡ đi nỗi chán chường, day dứt. Thơ văn của ông là sự kết hợp, lồng ghép giữa các yếu tố trữ tình, trào phúng và hiện thực sâu sắc, đôi lúc người ta thường ví đôi mắt nhìn của ông Tú và những tác phẩm của ông chính là cuốn nhật ký đặc sắc về một thời đại mà xã hội rối ren Tây, Tàu, Ta lẫn lộn. Với cuộc đời ngắn ngủi chỉ khoảng 37 năm trời thế nhưng Tú Xương đã để lại một sự nghiệp thơ ca khá đồ sộ với 100 tác phẩm, ấn tượng hơn cả là trong số những tác phẩm ấy ông đã dành hẳn một đề tài để viết người vợ tào khang - bà Tú. Trong số đó, bài thơ Thương vợ là một trong những tác phẩm đặc sắc và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú, tình cảm ấy được bộc lộ một cách chân thực và rõ nét nhất là ở hai câu kết tự như lời "chửi" của bài thơ "Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/Có chồng hờ hững cũng như không".

Thương vợ là một bài thơ tiêu biểu về đề tài trữ tình của Tú Xương, thơ xưa dưới quan niệm phong kiến cổ hủ, trọng nam khinh nữ thường hiếm có các tác phẩm viết về người vợ, người phụ nữ. Phái nam nhân thường thường giam mình trong một lối mòn suy nghĩ rằng người vợ phải tam tòng tứ đức, đã theo chồng thì việc chịu gian khó, cực nhọc hầu hạ, nâng túi sửa khăn cho người chồng đã là điều đương nhiên, có mệt có khổ âu cũng là thường tình, không việc gì phải trăn trở, thay vào đó cái họ trăn trở thường cao xa, vượt khỏi cuộc sống tầm thường. Nhưng đến Tú Xương thì lại khác, không phải vì ông vô công rỗi nghề, vì ăn lương vợ mà ông phải viết thơ, viết văn để ca ngợi vợ, mà chính xuất phát từ tình yêu thương và lòng trân trọng vô hạn của một người chồng dành cho người vợ tào khang của mình. Xuất phát từ ý thức về cuộc đời, ý thức về những nỗi vất vả gian lao của vợ, mà cái cuộc đời khốn nạn đã không cho ông có thể san sẻ với bà Tú, để cả gia đình với bảy miệng ăn đè nặng lên đôi vai một mình bà Tú. Phải công nhận rằng, Tú Xương có một gia tài thơ ca đồ sộ đến hơn trăm bài như thế, một phần lớn nhà nhờ công lao của vợ ông, ông có thể thiếu may mắn trong con đường công danh, thế nhưng trái lại ông trời đã cho ông một người vợ thảo hiền hết mực, bà tôn trọng, thương yêu, hy sinh vì chồng con hết mực. Dẫu áp lực cơm áo đang trĩu nặng trên vai nhưng bà Tú cũng không muốn chồng mình rời khỏi nghiệp bút nghiên để lao vào cuộc sống lao động vất vả, bà vẫn muốn ông là một tú tài được thỏa sức với nghiệp văn chương, không phải chịu nhiều gian khó. Tấm lòng ấy của vợ, Tú Xương nhìn thấy một cách rõ ràng, ông không vô tình gạt sang một bên hay giấu giếm ở trong lòng để giữ tự tôn của một người đàn ông phong kiến, mà trái lại ông đưa hết những tình cảm ấy vào thơ văn của mình, bằng ngôn từ giản dị, chân thực, đôi lúc có chỗ đanh đá, chua ngoa, nhưng đó lại mới đúng là đặc sắc thơ văn Tú Xương, trữ tình, hiện thực và trào phúng luôn đan xen với nhau.

Hai câu cuối trong bài Thương vợ của Tú Xương, đích xác nghe giống một câu "chửi".

"Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không"

"Cha mẹ" ở đây không phải có ý trách móc gì phụ mẫu, chẳng qua là Tú Xương thương vợ khổ cực quá, ông tức cho cái thói đời nhiễu nhương rối loạn, không cho nổi ông một con đường công danh sáng lạn, không để ông vung hết cái tài của mình, mà bấy nhiêu lâu thi thố cũng chẳng ăn ai, vẫn chỉ một kiếp tú tài bé con. Giá như thời buổi Nho học còn thịnh, cỡ tú tài cũng khấm khá, cũng có thể gõ đầu vài lớp trẻ, thế nhưng đời bạc, phận cũng bạc theo ông lại sinh ra đúng cái buổi Tây, Tàu trà trộn làm bát nháo đi cái nề nếp văn hóa lâu đời của đất nước. Xã hội phong kiến suy tàn, Nho học suy tàn, những bậc trí thức đương thời cũng chán chường lui về chốn thôn quê, không màng thế sự, bởi khi ấy đạo đức xã hội xuống cấp, đồi bại, nhân cách con người biến dạng, họ sẵn sàng vứt bỏ liêm sỉ, đạo đức chà đạp lên nhau mà chuộc lợi, ăn sung mặc sướng. Còn những người có tâm, có tài như Tú Xương lại phải chịu cái kiếp để bọn ô hợp đè đầu cưỡi cổ, phải chịu cảnh lực bất tòng tâm. Thử hỏi có thể không uất ức, không buông một tiếng chửi cái "thói đời ăn ở bạc" được hay không?

Tiếng chửi đời ấy, cũng là tiếng tự chửi mình của Tú Xương, ông tự trách mình bất tài, vô dụng không thể san sẻ bớt gánh nặng cho vợ, mà chỉ biết làm một người chồng ngày ngày ăn lương vợ, giương mắt nhìn vợ mình chịu biết bao khó nhọc. Như vậy bà Tú đúng như lời Tú Xương nói "Có chồng hờ hững cũng như không", dưới chế độ phong kiến, đạo lí vẫn là người chồng gồng gánh việc mưu sinh, là trụ cột của cả gia đình, còn người vợ có trách nhiệm tề gia nội trợ, nuôi dạy con cái, thượng đế sinh ra đàn ông và đàn bà thực tế cũng đã có ý như thế rồi. Thế nhưng trong gia đình của Tú Xương thì lại khác, một mình bà Tú gánh cả hai gánh nặng ấy trên vai, bà không nỡ để chồng đi làm thuê cho bè lũ tay sai, cho quân xâm lược mà ông vốn ghét cay ghét đắng, bà cũng chẳng yên tâm để ông bếp núc, con cái, thế là bà ôm tất. Ý thức được hoàn cảnh gia đình, Tú Xương lại càng thêm tự trách, càng thêm đau đớn và căm ghét cái xã hội đẩy đưa, đốn mạt lúc bấy giờ.

Nhưng phải chăng Tú Xương chỉ chửi đời, chửi mình? Tú Xương còn chửi cả những kẻ giống mình nữa, ông chửi những kẻ bạc bẽo, tinh ăn lười làm, thích hưởng thụ, coi vợ là người ăn kẻ ở, phải phục dịch cho những thói ăn chơi, hưởng thụ của mình. Chửi những ông chồng, những kẻ đốn mạt, nỡ vứt lên đôi vai người vợ kết tóc những gánh nặng chất chồng, nhưng lại chẳng có lấy một sự day dứt, thương cảm, không biết tôn trọng yêu quý vợ mình, để những người phụ nữ bất hạnh ấy phải chịu biết bao đắng cay, khổ cực của cuộc đời. Như vậy đúng với cái câu "Có chồng hờ hững cũng như không" thật, chẳng bằng họ không lấy chồng có khi cuộc đời lại đỡ vất vả.

Bài thơ Thương vợ đã thể hiện một cách sâu sắc và cảm động tình cảm chân thành của người chồng dành cho vợ mình, dẫu rằng ông không cho bà được một cuộc sống ấm no, êm đềm thế nhưng cách mà ông tôn trọng, yêu thương bà Tú khiến bà có một chỗ dựa tinh thần vững chắc, là động lực để bà Tú tiếp tục cố gắng vì gia đình, điều ấy khiến người ta thật ngưỡng mộ. Hai câu thơ cuối là những lời tâm huyết tận đáy lòng, cũng là tiếng phản kháng của Tú Xương trước cuộc đời đen bạc, là lời tự trách đầy chua xót, cay đắng của ông với chính bản thân, với cả những đức ông chồng tệ hại, vô dụng, để vợ phải vất vả cực nhọc cả cuộc đời.

----------------------------

Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới các bạn Cảm nhận 4 câu cuối bài Thương vợ của Tú Xương. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài viết rồi đúng không ạ? Bài viết đã gửi tới bạn đọc dàn ý và các bài văn mẫu cảm nhận về 4 câu cuối bài Thương vợ. Mong rằng qua đây các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn 11. Để giúp bạn đọc có thêm nhiều tài liệu học tập hơn nữa, VnDoc.com mời các bạn cùng tham khảo thêm các môn Toán 11, Ngữ văn 11, tiếng Anh 11, đề thi học kì 1 lớp 11, đề thi học kì 2 lớp 11...

Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 11 để có thêm tài liệu học tập nhé

Đánh giá bài viết
9 32.855
Sắp xếp theo

    Ngữ văn lớp 11

    Xem thêm