Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc... Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Văn mẫu: Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc... Sông Mã gầm lên khúc độc hành" được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 12 hay dành cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 12 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

1. Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng mẫu 1

Viết về Tây Tiến - Quang Dũng viết bằng dòng hồi ức. Và trong dòng hồi ức ấy nỗi nhớ đồng đội luôn xao động, gợi về những kỉ niệm, hình ảnh thân thương, tha thiết, sâu lắng. Ta bắt gặp dòng hoài niệm về đồng đội, về những tình cảm, nỗi lòng người lính Tây Tiến qua đoạn thơ:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,

Áo bào thay chiếu anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Từ bối cảnh rừng núi hoang vu, hiểm trở trong đoạn đầu bài thơ đến đây hiện lên rõ nét hình ảnh của đoàn chiến binh Tây Tiến:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Thoạt đầu, câu thơ tưởng như chỉ mang một chút ngang tàng, một chút đùa nghịch đầy chất lính, nhưng càng đọc mới càng thấy hiện thực khắc nghiệt, mới thấy hết những gieo neo, khổ ải của đoàn quân Tây Tiến. Không mọc tóc - đó là hậu quả của những cơn sốt rét rừng run người làm tiều tụy, làm rụng hết cả tóc của các chiến sĩ. Rồi nước độc, rừng thiêng, bệnh tật hành hạ... tất cả như vắt kiệt sức lực khiến cho quân xanh màu lá.... Hai câu thơ cho ta thấy được hình ảnh rất thực của các chiến sĩ Tây Tiến khi phải đối phó với bệnh tật: ốm, xanh, rụng tóc... Nhưng không phải vì thế mà họ mất đi vẻ oai phong dữ dội "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới..."

Đoàn quân mỏi, xanh tựa lá mà vẫn mang oai linh rừng thẳm. Mắt trừng lên dữ dội là để gửi mộng vượt biên cương và để "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Những người chiến sĩ Tây Tiến hầu hết là những chàng trai thị thành khoác áo lính dù ra đi chiến đấu, dấn thân vào gian khổ, họ vẫn luôn mang và giữ một tâm hồn hào hoa, thanh lịch, đa tình, một tâm hồn đầy thơ mộng. Mơ dáng kiều thơm là mơ dáng vẻ kiều diễm, quyến rũ, thanh lịch của những người bạn gái thủ đô ngàn năm văn hiến, có người cho rằng Quang Dũng viết câu thơ này là mộng rớt vì nó không phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến. Song thực chất đây là một tình cảm hết sức chân thật của người chiến sĩ, nó mang một ý nghĩa nhân văn chân chính bởi thể hiện ước mơ đẹp của con người về một cuộc sống hoà bình, hạnh phúc đẩy người lính ra đi chiến đấu.

Cả đoạn thơ bốn câu thì ba câu trên toàn nói về cái khác thường, oai dữ. Câu thơ thứ tư ngược lại đầy vẻ mềm mại, trữ tình, mơ mộng. Đoạn thơ khắc họa những hiện thực hết sức nghiệt ngã, nhưng lại không chỉ sử dụng phương pháp tả thực, mà thể hiện bằng bút pháp lãng mạn cho ta thấy hình ảnh của người lính không xanh xao, tiều tụy mà oai phong, dữ dội. Chữ nghĩa và bút pháp của Quang Dũng thật tài hoa. Các chữ không mọc tóc, dữ oai hùm, mắt trừng khắc họa rất sâu tư thế chủ động, vẻ kiêu hùng, ngang tàng của những chiến binh Tây Tiến. Hoàn cảnh gian khổ, những thử thách, gian nan của một miền Tây thâm u, hiểm trở không làm cho những người lính Tây Tiến chùn bước, họ vẫn giữ ý chí, quyết tâm. Bên cái bi của hoàn cảnh vẫn trỗi lên cái tráng của ngoại hình và tinh thần. Bằng thủ pháp dường như đối lập, Quang Dũng đã vừa khắc họa được vẻ đẹp hào hùng, kiêu dũng, vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và đa cảm của người chiến sĩ Tây Tiến. Núi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, đi trong sự hùng vĩ ấy, sự hoang sơ ấy, những người lính Tây Tiến như được truyền thêm sức mạnh, vững bước vượt qua những gian khổ, hy sinh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...

Những người lính Tây Tiến không tiếc đời ra đi chiến đấu cho quê hương, không tiếc đời sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Họ ra đi mà vẫn nhớ, vẫn mang theo những tình riêng mơ mộng, khi họ hi sinh thì "áo bào thay chiếu anh về đất". Bằng hai chữ "áo bào", nhà thơ đã nâng cao giá trị, đã tái tạo được vẻ đẹp cao quý. một vẻ đẹp như những người tráng sĩ xưa nơi những người Tây Tiến, vẻ đẹp ấy làm mờ đi thực trạng thiếu thốn ở chiến trường. Rồi "anh về đất', cái chết nhẹ như không, như về lại những gì thương yêu, thân thuộc ngày xưa. "Anh về đất là để sống mãi trong lòng quê hương, đất nước. Và sông Mã thay lời núi sông cất lên lời ai điếu bi hùng: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành".

Nỗi đau thật dữ dội, chỉ một tiếng "gầm than trầm uất", nỗi đau như dồn nén, quặn thắt từ bên trong. Không có nước mắt của đồng đội, chỉ có con sông Mã với nỗi đau cuộn chảy trong lòng, độc hành... chảy ngược vào tim.

Cả đoạn thơ nói đến cái chất thật bi mà cũng thật hùng. Những người lính Tây Tiến đã được nhà thơ khắc họa với nỗi nhớ thương tha thiết, với vẻ đẹp hoang sơ, dữ dội như vẻ đẹp của núi rừng.

Hình ảnh những người lính, tình cảm đồng đội, đồng chí vốn xuất hiện trong thơ ca kháng chiến. Ta vẫn thường bắt gặp những người lính chân chất, giản dị, gần gũi trong thơ Chính Hữu:

Áo anh rách vai,

Quần tôi có vài mảnh vá.

Miệng cười buốt giá,

Chân không giày...

Hay trong bài thơ Hồng Nguyên:

Lũ chúng tôi,

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ,

Quen nhau từ buổi "một, hai"...

Nhưng với Tây Tiến của Quang Dũng thì khác. Bài thơ đã khắc hoạ không phải là những người lính xuất thân từ những người nông dân cày sâu cuốc bẫm mà là những chàng trai, những học sinh, sinh viên thành thị khoác áo lính. Với Tây Tiến, Quang Dũng đã đưa người đọc ngược lên một miền Tây thăm thẳm, nơi núi rừng, thiên nhiên mang nét đẹp hoang dại, hiểm trở. Và nỗi bật lên trên nền núi rừng miền Tây ấy là hình ảnh những người lính Tây Tiến vượt lên trên mọi khổ ải, gian lao, toả sáng ý chí anh hùng. Với tám câu thơ chan chứa niềm thương nỗi nhớ da diết, Quang Dũng đã đưa người đọc trở lại một thời Tây Tiến với biết bao đồng đội mến thương của nhà thơ... Tất cả đã giúp Quang Dũng tái tạo và khắc họa hình ảnh oai hùng về người lính Tây Tiến. Với bút pháp tài hoa và giàu tình, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh những chiến binh Tây Tiến không chỉ mang vẻ dữ dội, mãnh liệt mà còn mang vẻ đẹp hào hoa, hào hùng thật bi tráng. Và Tây Tiến không chỉ phổ đúng hồn thơ Quang Dũng má còn sáng lên chất thẩm mĩ hiếm thấy.

Sau khi đã Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến: "Tây Tiến đoàn binh... lên khúc độc hành" các em có thể đi vào Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến hoặc tham khảo Bình giảng bài thơ Tây Tiến nhằm củng cố kiến thức của mình.

2. Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng mẫu 2

Nói đến thơ ca kháng chiến chống Pháp chúng ta không thể không nhắc đến Quang Dũng-Một nhà thơ tài hoa được mệnh danh là nhà thơ của "Xứ Đoài mây trắng". Trong thơ Quang Dũng người đọc ấn tượng nhất khi khắc họa bức chân dung người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó là bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến vừa lẫm liệt, kiêu hùng vừa hào hoa lãng mạn thể hiện qua đoạn thơ

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

...

Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Bài thơ "Tây Tiến" ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt -Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ "Nhớ Tây Tiến". Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là "Tây Tiến".

Trên cái nền hùng vĩ, dữ dội mà thơ mộng mĩ lệ của núi rừng Quang Dũng đã xây dựng bức tượng đài về người lính Tây Tiến hiện lên vừa oai phong lẫm liệt, vừa lãng mạn hào hoa bằng bút pháp lãng mạn mà vẫn rất chân thực:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm"

Hai câu thơ mở đầu đã tạo nên ấn tượng trong lòng người đọc về vẻ đẹp bi tráng. Cái bi thương ấy gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da xanh như màu lá. Không phải là một người mà là cả một đoàn quân kì dị. Đoàn quân kì dị ấy lại được khắc họa bằng cái nhìn gân guốc bắt nguồn từ hiện thực đến từng chi tiết "không mọc tóc", "xanh màu lá" là hiện thực mà người lính Tây Tiến phải trải qua.Theo lời kể của Quang Dũng thời kỳ đó bộ đội ta phải cạo trọc đầu để đánh giáp lá cà và dễ dàng trong sinh hoạt. Nhưng nguyên do quan trọng hơn cả chính là hậu quả của những ngày hành quân vất vả, đói rét, sốt rét rừng, những cơn sốt rét rừng ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn xuất hiện trong bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu:

"Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi"

Hay trong thơ ca kháng chiến chống Pháp chúng ta cũng không khó để bắt gặp những vần thơ:

"Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật

Đâu còn tươi nữa những ngày hoa"

Bên cạnh hình ảnh bi thương chính là vẻ đẹp hào hùng của những người lính Tây Tiến được thể hiện trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập giữa thân hình ốm yếu và tâm hồn bên trong làm nên khí chất, tư thế của người lính "dữ oai hùm" cho thấy người lính lạc quan, coi thường gian khổ, hiên ngang xung trận, oai phong, lẫm liệt, toát lên cốt cách, khí phách hào hùng. Ngay cả khi đánh giáp lá cà với kẻ thù hình ảnh người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp làm chủ núi rừng, chế ngự khó khăn, vượt qua gian khổ.

Ẩn đằng sau ngoại hình ấy là một vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Trong gian khổ nhưng những người lính Tây Tiến vẫn luôn "mắt trừng" đó là đôi mắt mở to nhìn thẳng kẻ thù, thề sống chết với kẻ thù. Đôi mắt ấy như miêu tả cả sự phẫn nộ đối với kẻ thù, là đôi mắt của nội tâm sục sôi chiến đấu. Đôi mắt ấy còn "mộng qua biên giới", đó là giấc mộng lập chiến công, giấc mộng của chiến thắng, của hòa bình. Không chỉ vậy mà đôi mắt ấy còn có tình, thao thức nhớ về Hà Nội nơi có hình ảnh "dáng kiều thơm" trong mộng và mơ. Những người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng theo tiếng gọi non sông mà còn vô cùng hào hoa, lãng mạn. Có một thời người ta hiểu rằng câu thơ này mang mộng tiểu tư sản quá nhiều, làm giảm tinh thần chiến đấu. Nhưng thời gian đã chứng minh giấc "mộng" và "mơ" như tiếp thêm sức mạnh cho người lính Tây Tiến. Đó cũng chính là vẻ đẹp của một tấm lòng luôn hướng về tổ quốc. Chính quê hương là động lực sức mạnh giúp người lính vượt qua khó khăn, là sợi dây thiêng liêng của niềm tin mang họ vượt bao khó khăn bom đạn trở về với quê hương. Chẳng thế mà bài thơ "Đợi anh về" của Xi-mô-nốp trở thành bài thơ được nhắc nhiều đến vậy trong thời kì khói lửa. Đâu chỉ thế trong bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ cũng từng viết:

"Từ thuở mang gươm đi mở cõi

Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long"

Điều đặc biệt hơn những chàng trai Hà Thành trong đoàn quân Tây Tiến ấy họ ra đi không chỉ bằng trách nhiệm công dân mà còn cả lí tưởng của những chàng trai gác bút nghiên cầm súng vì lý tưởng. Những chàng trai ấy là những học sinh, sinh viên, nghệ sĩ họ lên đường bằng khát vọng tuổi trẻ, khát vọng của hòa bình cho những "dáng kiều thơm". Tình yêu ấy đáng để mỗi chúng ta trân trọng và ngưỡng vọng trong mọi thời đại.

Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến còn là lí tưởng trong những chàng trai mười tám đôi mươi:

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"

Với việc sử dụng từ Hán Việt "biên cương", "viễn xứ" đã gợi không khí cổ kính,trang trọng về nơi xa xôi của tổ quốc. Khác với những nhà thơ cùng thời, Quang Dũng khi nói về chiến tranh đã dám nhìn thẳng vào sự khốc liệt của chiến tranh, miêu tả cái chết, không né tránh hiện thực. Trong chặng đường hành quân gian khổ đã có những người lính ngã xuống. Những nấm mồ hoang lạnh vô danh mọc lên trên đường hành quân. Khi miêu tả cái bi thương ấy nhà văn lại nâng đỡ lên bằng đôi cánh lí tưởng, lãng mạn "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". "Đời xanh" là tuổi trẻ, là bao ước vọng đang đón chờ mỗi người phía trước. Vậy nhưng với họ không có gì quý giá bằng độc lập, tự do của Tổ quốc. Vượt lên trên tất cả là khát vọng được ra đi và cống hiến. Đó là lý tưởng quên mình vì tổ quốc, dữ dội như lời thề sông núi. Đó là vẻ đẹp thời đại "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". Đúng như Trần Lê Văn đã nhận xét "Tây Tiến phảng phất nét buồn, nét đau, nhưng buồn đau mà không hề bi lụy". Và Quang Dũng là một trong những nhà thơ đầu tiên nói rất cảm động sự hi sinh của những con người vô danh ấy để rồi hơn hai mươi năm sau trong kháng chiến chống Mĩ Nguyễn Khoa Điềm đã viết

"Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước"

(Trích "Đất Nước")

"Chiến trường" khốc liệt mà câu thơ nghe sao bình tĩnh quá, có chút ngạo nghễ khinh đời để rồi hai từ "chẳng tiếc" mang vẻ bất cần cho "đời xanh". Tuổi trẻ ai chẳng cần cho mình khát vọng tình yêu, thanh xuân thơ mộng. Họ hiểu lắm, biết lắm vẻ đẹp của "đời xanh" nhưng chết cho tổ quốc chính là chết cho lý tưởng thiêng liêng.

Chính lý tưởng thiêng liêng cao quý ấy của những người lính mà hi sinh của họ cũng thật cao đẹp:

"Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông mã gầm lên khúc độc hành"

Hình ảnh "áo bào thay chiếu" là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Quang Dũng từng trải lòng về câu thơ trên "Sự thật khi người lính ngã xuống không có được mảnh vải liệm. Nói áo bào là nói theo cách của thơ xưa để an ủi những người đã nằm xuống". Sự khắc nghiệt của chiến trường, sự khó khăn gian khổ trong chiến đấu, vậy mà khi ngã xuống câu thơ sao mà nghe nhẹ nhàng đến vậy. Không phải là ngã xuống, không phải là chết mà đơn giản là "anh về đất". Mỗi chúng ta ai chẳng sinh ra từ đất mẹ Xi-ta, ai chẳng từ luống cày mà lớn lên. Vậy nên giờ đây các anh chỉ là đang ngủ một giấc thật dài, thật bình yên bên đất mẹ dịu dàng và ấm áp. Câu thơ với biện pháp nói giảm nói tránh đã tạo cho câu thơ bi mà không lụy ý ,thơ mang đến một cảm giác vĩnh hằng, là thế giới của:

"Những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về"

(Nguyễn Đình Thi)

Để rồi "Sông Mã gầm lên khúc độc hành", con sông Mã cũng chính là nhân chứng của lịch sử, người bạn đồng hành của những người lính Tây Tiến. Và giờ đây con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử. Tiếng gầm ấy là khúc nhạc bi tráng, khúc tráng ca tiễn biệt người lính Tây Tiến vào cõi vĩnh hằng hòa cùng muôn ngàn âm thanh của sống núi, trường tồn trong khúc bi tráng của sông Mã. Tác giả đã sử dụng hàng loạt từ Hán Việt đã gợi không khí tôn nghiêm, trang trọng khi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người tráng sĩ anh hùng xưa lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn.

Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện thành công nỗi nhớ về thiên nhiên và miền Tây hùng vĩ mà còn thành công với các biện pháp nghệ thuật như cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Sử dụng ngôn từ đặc sắc về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.

Khổ thơ trên trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng đã dựng nên một tượng đài bất tử về người lính. Người chiến sĩ Tây Tiến hào hoa, anh dũng, kiêu hùng một thời đã gây nên ấn tượng sâu sắc cũng như mối xúc động lớn lao cho bao thế hệ người đọc. Hình tượng ấy dù vẫn có những hi sinh mất mát nhưng vượt lên tất cả vẫn là một khí phách hiên ngang, một khát vọng, lí tưởng sống cao đẹp đáng trân trọng. Đây cũng chính là chất bi tráng của tác phẩm.

3. Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng mẫu 3

Nằm trong mảng đề tài viết về người lính Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp, 'Tây Tiến" là bài thơ thành công khi xây dựng được hình ảnh người lính không chỉ mang phẩm chất chung của tất cả những người lính Việt Nam mà còn mang những nét riêng độc đáo. Điểm nối bật trong bài thơ là hình tượng người lính với vẻ đẹp bi tráng, được khai thác thông qua bút pháp lãng mạn. Vẻ đẹp này của hình tượng người lính tập trung nhất trong khổ thơ:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Bài thơ ra đời vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, khi Quang Dũng nhớ đến những người đồng đội cũ của mình trong binh đoàn Tây Tiến xưa. Đây là bài thơ viết về một binh đoàn mà phần lớn là thanh niên trí thức Hà Nội. Họ ra đi chiến đấu, mang trong mình nhiệt huyết hừng hực của tuổi hai mươi nhưng tâm hồn cũng chất chứa đầy nét hào hoa lãng mạn của một chàng trai Hà thành. Ở những khổ trước, người ta bắt gặp hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân vất vả nhưng vẫn đầy lãng mạn, mở rộng hồn mình ra để cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời, sửng sốt trước sự xuất hiện của một "bông hoa về trong đêm hơi", say đắm trong bức tranh "nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Và cũng chính họ thật tinh nghịch, dí dỏm khi phát hiện ra hình ảnh đầy sức gợi "Heo hút cồn mây súng ngửi trời". Người lính không được miêu tả trực tiếp (trừ hình ảnh "anh bạn dãi dầu không bước nữa") mà chủ yếu hiện lên qua bức tranh thiên nhiên, trong nét vừa tương đồng vừa đối lập với thiên nhiên đó. Đến khố thơ này nhà thơ đã giành cả một đoạn thơ dài chỉ để nói về hình ảnh người chiến sĩ và sự hi sinh đầy bi tráng của họ. Người lính được miêu tả qua những hình ảnh thực, gợi cảm:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm"

Hình ảnh miêu tả xuất phát từ hiện thực những khó khăn gian khổ mà người lính gặp phải. Đó là thời tiết khắc nghiệt, đói ăn, bệnh tật, sốt rét hoành hành khiến cho hình hài trở nên tiều tụy: "không mọc tóc", "xanh màu lá". Nói đến những gian khổ, vất vả nhưng giọng thơ Quang Dũng thật hào hùng. Ông gọi binh đoàn Tây Tiến là đoàn binh không mọc tóc. Cả một "đoàn binh" lại mang "oai" của hùm tạo cho người ta cảm giác ở đó dường như đang toát lên sức mạnh lớn lao không thế nào khuất phục được. Sức mạnh đó được bổ sung thêm bằng hình ảnh:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Hai hình ảnh, một thực tế, một lãng mạn được đặt cạnh nhau thậm chí còn là cầu nối cho nhau. Anh mắt trừng "gửi mộng qua biên giới" thế hiện cái uy phong lẫm liệt của họ. Ta tự hỏi tại sao lại là "mắt trừng gửi mộng" mà không phải là ánh mắt nào khác? Phải chăng khoảng cách là quá xa mà người chiến sĩ thì chỉ muốn rút ngắn nó lại trong chốc lát đế nhanh được trở về với Hà Nội thân thương? Cũng có thế, nhưng điều quan trọng là thông qua hình tượng ấy, người lính Tây Tiến hiện lên không chỉ anh dũng, hào hùng mà còn đầy chất uy nghiêm và đầy sức mạnh. Ba câu thơ đang miêu tả theo cấp độ có thể nói là tăng tiến về hình ảnh đầy ấn tượng của người lính chợt chùng lại bởi một "dáng kiều thơm" ở mảnh đất quê hương. Chi tiết này thế hiện sự tinh tế của Quang Dũng, nhà thơ miêu tả người lính trong những nét phi thường nhưng vẫn không quên đồng cảm với một giấc mơ bình thường nhất và cũng là lãng mạn nhất: giấc mơ về một dáng kiều thơm. Họ là những chàng trai mười chín, hai mươi tràn đầy nhựa sống, khát khao yêu và khát khao hạnh phúc. Họ có quyền mơ về một bóng hình giai nhân nào đó chứ! Nhiều hơn thế, hình ảnh người con gái còn gắn với mảnh đất Hà thành, nơi người lính đã sinh ra nên có lẽ giấc mơ ấy còn là giấc mơ về gia đình, về quê hương, mảnh đất nơi họ đã sinh ra và gắn bó. Sự thay đổi đột ngột của hình tượng thơ làm cho bài thơ thêm hấp dẫn đồng thời khẳng định nét lãng mạn trong tâm hồn những người lính trẻ. Người lính trẻ hiện lên trong đoạn trích anh hùng bất khuất trước gian khổ nhưng cũng ngang tàng và đầy nghịch ngợm. Thêm một nét để họ trở nên gần gũi, đáng yêu và đáng quí.

Trước đó chỉ bằng hình ảnh "gục lên súng mũ bỏ quên đời", Quang Dũng đã khiến cho người đọc ngậm ngùi về sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Nhà thơ tránh không dùng đến từ hi sinh mà khắc họa người lính Tây Tiến ngã xuống nhưng vẫn trong tư thế bước tiếp khúc quân hành cùng đồng đội. Những câu thơ tiếp theo này lại một lần nữa nhắc đến hi sinh của những người lính trong binh đoàn Tây Tiến:

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Bốn câu thơ trước hết dựng lên một thực tế trong cuộc chiến đấu. Người chiến sĩ ra đi là đã xác định trước được những gì mình sẽ phải trải qua:

"Làm cách mạng từ khi tôi biết

Dấn thân vô là chịu tù đày

Là gươm kề cổ, súng kề taiLà thân sống chỉ coi còn một nửa"

Chiến trường khốc liệt không thể mang lại cho người nằm xuống một nơi an nghỉ vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu. Ngã xuống, họ sẽ là một trong những "nấm mồ viễn xứ" trên biên cương, tiếp tục làm công việc ngày đêm canh giữ từng tấc đất thân thương. Không ai không xác định được điều ấy. Vậy mà họ vẫn ra đi, vẫn cống hiến:

"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"

Bởi nói như nhà thơ Thanh Thảo:

"Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

Nhưng tuổi hai mươi làm sao không biết?

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi

Thì còn chi Tổ quốc"

Chính bởi xác định được lí tưởng sống cao đẹp ấy mà lớp thanh niên vẫn ngày đêm hát vang khúc quân hành, ra đi bảo vệ quê hương, đất nước. Rồi có những người ngã xuống "giản dị và bình tâm" nhưng cái chết của họ lại mang dáng dấp của một vị anh hùng sử thi. Hoàn cảnh chiến tranh thiếu thốn, người hi sinh không có lấy một mảnh chiếu trước khi đưa về với đất. Tấm áo ngày thường vương bụi trường chinh trở thành áo bào đưa các anh về với đất mẹ. Cuộc ra đi có sự chứng kiến và tiễn đưa của đất trời. Dòng sông Mã "gầm lên" khúc bi ca độc hành đầy đau đớn xót xa nhưng cũng thật hào hùng.

Khổ thơ sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ có ý nghĩa trong việc khắc họa hình tượng người lính. Hình ảnh thơ cụ thể, gần gũi như "không mọc tóc", "quân xanh màu lá", "mắt trừng"... kết hợp với sự đối lập, so sánh (quân xanh màu lá), sự chuyển đổi linh hoạt của cảm xúc:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Cùng biện pháp nhân hóa:

Sông Mã gầm lên khúc độc hành...

Làm cho người lính hiện lên chân thực, gần gũi: dữ dội, can trường nhưng cũng rất đa tình, hào hoa.

Có thể nói, hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong đoạn thơ mang vẻ đẹp bi tráng mà không hề bi lụy. Cái bi tráng được thế hiện ở những khó khăn, gian khố cũng như mất mát, hi sinh mà người lính phải trải qua nhưng tâm hồn và ý chí của con người thì luôn bất khuất, vượt qua và chiến thắng hoàn cảnh. Giữa cái khổ con người vẫn hiện lên thật đẹp. Trong cái chết nhưng vẫn thấm đẫm chất hùng. Nhắc đến đau thương, mất mát nhưng không làm nhụt chí mà chỉ góp phần thể hiện hình tượng người lính, tăng thêm vẻ đẹp hào hùng cho hình tượng đó. Chất bi tráng được kết hợp với cảm hứng lãng mạn và ngợi ca tạo nên hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến mang vẻ đẹp sử thi nhưng vẫn vô cùng gần gũi và thân thuộc.

Đoạn thơ đã thể hiện trọn vẹn hình tượng người lính trong bài thơ, góp phần vào sự thể hiện chủ đề chung của tác phẩm. Hình tượng người lính hiện lên mang vẻ đẹp bi tráng trong cảm hứng lãng mạn và ngợi ca hào sảng. Thành công của đoạn thơ và cả bài thơ đã diễn tả cảm động tình cảm của Quang Dũng dành cho những người đồng đội của mình ở binh đoàn cũ: Binh đoàn Tây Tiến.

4. Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng mẫu 4

Quang Dũng là nhà thơ chiến sĩ vừa cầm súng đánh giặc vừa làm thơ. Thơ ông vừa hồn nhiên vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa đầy chất lãng mạn. “Tây Tiến in đậm nét phong cách thơ Quang Dũng. Bài thơ được viết năm 1948 khi Quang Dũng đã rời xa đơn vị Tây Tiến. Cảm xúc chủ đạo trong bài thơ là nỗi nhớ cháy bỏng, “nhớ chơi vơi”. Sống dậy trong nỗi nhớ ấy đâu chỉ có thiên nhiên Tây Bắc mà còn có hình ảnh đoàn quân Tây Tiến. Trong cảm hứng ngợi ca, chiến sĩ Tây Tiến hiện lên trong trang thơ của của Quang Dũng nổi bật với vẻ đẹp hào hùng và hào hoa. Vẻ đẹp ấy được nhà thơ gợi tả sắc nét trong đoạn thơ ba của tác phẩm:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Như đã nói ở trên, bài thơ “ Tây Tiến” ra đời trong nỗi nhớ “chơi vơi” của Quang Dũng. Ở phần đầu bài thơ, độc giả nhận thấy, dần dần hiện lên trong nỗi nhớ ấy là phong cảnh Tây Bắc hiểm trở và nên thơ:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Nhưng nếu để ý, độc giả sẽ thấy: đằng sau những câu thơ tả cảnh, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến lờ mờ hiện ra:

“Anh bạn giãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.

Đối mặt với hoàn cảnh khó khăn của núi rừng Tây Bắc , người lính “giãi dầu”, mệt mỏi, thậm chí đã hi sinh. Thế nhưng, với lòng yêu nước, chiến sĩ Tây Tiến vẫn hiện lên thật quả cảm trong trang thơ của Quang Dũng. Tiếp nối cảm xúc ấy, ở đoạn ba của thi phẩm, Quang Dũng khắc họa sắc nét hình ảnh đoàn quân Tây Tiến.

Vẻ đẹp của người lính “Tây Tiến” hiện lên thật hào hùng. Hào hùng ngay trong chính vẻ bề ngoài của những người chiến sĩ.

“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”.

Mở đầu đoạn thơ, Quang Dũng khắc họa khá chân thực hình ảnh đoàn quân Tây Tiến ở ngoại hình. Vì phải hành quân, chiến đấu nơi rừng sâu nước độc “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” (Tố Hữu), do điều kiện sinh hoạt vô cùng thiếu thốn, lại bị bệnh sốt rét rừng hoành hành nên cả đoàn binh Tây Tiến “không mọc tóc”, da dẻ xanh xao, vàng vọt “quân xanh màu lá”. Với chi tiết tả thực này, Quang Dũng gợi độc giả nhớ đến câu thơ của Tố Hữu và Chính Hữu cùng viết về căn bệnh sốt rét rừng mà người lính phải đối mặt trong cuộc kháng chiến chống Pháp:

“Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ”

(Ca nước – Tố Hữu)

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

(Đồng Chí – Chính Hữu)

Trở lại với cách viết của Quang Dũng, chúng ta thấy, nói đúng hiện thực nhưng ngòi bút của Quang Dũng không đi sâu vào những gian khổ mà nghiêng về vẻ đẹp lãng mạn. Cảm hứng lãng mạn đã bắt bắt lấy cái thực để tô đậm nét dũng mãnh, hào hùng của chiến sĩ Tây Tiến. Vì thế, trong cái nhìn của Quang Dũng, cả đoàn quân Tây Tiến “ không mọc tóc”, da dẻ xanh xao, vàng vọt nhưng không gợi lên vẻ tiều tụy, ốm yếu, thiểu não, đáng thương. Trái lại, họ vẫn hiện lên với ánh mắt trừng trừng, “mắt trừng” như đã phản chiếu lòng căm thù giặc sục sôi, như đã gợi tả được sức mạnh nội lực vô song của đoàn quân Tây Tiến.

Chưa hết, cả đoàn quân Tây Tiến “ không mọc tóc” da dẻ vàng vọt vậy mà vẫn ngời lên vẻ “dữ oai hùm”. “Dữ oai hùm” là hình ảnh ẩn dụ diễn tả vẻ oai phong lẫm liệt sức mạnh hào hùng của chiến sĩ Tya Tiến. Cụm tù này gợi ta nhớ đến hình ảnh đội quân Thát Sát đời Trần:

“Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”.

(Thuật Hoài – Phạm Ngũ Lão)

Phải chăng, sức mạnh dũng mãnh, vô song của quân dân đời Trần ngày nào dường như sống dậy trong sức mạnh hào hùng của đoàn quân Tây Tiến.

Ở đoàn quân Tây Tiến vẻ đẹp hào hùng còn thể hiện ở ý chí chiến đấu, ở tinh thần xả thân vì nước.

“Rải rác biên cương mồ viễn sứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Trên chặng đường hành quân chiến đấu gian nguy, bao người lính đã ngã xuống “ Gục bên súng mũ bỏ quên đời”. Họ nằm lại trên những miền biên cương xa xôi của Tổ quốc. Đây là chi tiết nghệ thuật giàu tính hiện thực. Đối mặt với thực cảnh đau lòng ấy, chiến sĩ Tây Tiến vẫn không hề nhụt chí, sờn lòng. Họ Không hề nao núng tinh thần, không hề sợ sệt. Ngược lại, chiến sĩ Tây Tiến vẫn sẵn sàng:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Câu thơ diễn tả ý chí chiến đấu hào hùng, gợi tả tinh thần xả thân rất lẫm liệt của đoàn binh Tây Tiến. Vì tổ quốc, chiến sĩ Tây Tiến không hề so đo, tính toán thiệt hơn. Vì nhân dân, họ sẵn sàng dâng hiến cả tuổi thanh xuân của mình. Khi xã đinh được lí tưởng sống cao đẹp, chiến sĩ Tây Tiến sẵn sàng từ biệt mảnh đất Hà Nội ngàn năm văn hiến để có mặt nơi biê cương xa xôi. Thật đúng với lời thơ của Bùi Minh Quốc.

“Lứa tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy

Thì xa xôi biết mấy cũng lên đường”.

(Lên miền Tây)

Có lẽ đoàn quân Tây Tiến năm xưa hiểu rõ “ai cũng tiếc nuối tuổi hai mươi thì còn chi tổ quốc” cho nên họ sẵn sàng dâng hiến tất cả. Ý chí chiến đấy của người lính Tây Tiến thật cao đẹp, yêng hùng phảng phất vẻ đẹp của người chinh phu, tráng sĩ thủa xưa.

Và họ hào hùng ở cả sự hi sinh:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Người lính ra đi trong khi không có một mảnh chiếu để bó thây nhưng trong cái nhìn của Quang Dũng, họ vân như được bao bọc trong những tấm áo chiến bào sang trọng. Về điều này, nhà thơ Quang Dũng có nói: “Áo bào thay chiếu là cách nói của người lính chúng tôi, mượn cách nói ước lệ của nhà thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống”. “Anh về đất”, là cách nói giảm, nói tránh của Quang Dũng. Sử dụng biệ pháp tu từ này, Quang Dũng đã diễn tả sự hi sinh của người lính thật nhẹ nhàng, thanh thản mà cao cả.

Trước sự hi sinh cao cả của những người lính, dòng sông Mã cũng như thay mặt cho thiên nhiên Tây Bắc gầm lên, tấu lên khúc nhạc hào hùng để tiễn biệt những người lính. Như vậy nói về cái chết của người lính Tây Tiến, Quang Dũng không gợi sự bi lụy, bi thương mà vẫn bi tráng, bi hùng. Với cách viết này, Quang Dũng đã bất tử hóa người lính Tây Tiến khi xưa. Người lính Tây Tiến xứng đáng được lí tưởng hóa vì họ là những người như chân lí sinh ra:

“Có cái chết hóa thành bất tử

Có những người như chân lý sinh ra”

Tóm lại, với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng cũng đã viết về đoàn quân Tây Tiến, về đồng đội của mình thật dũng cảm, hào hùng. Nhà thơ đã viết về vẻ đẹp của chiến binh Tây Tiến năm xưa trong cảm hứng ngợi ca, tự hào.

Không chỉ hiện lên với vẻ đẹp hào hùng, người chiến sĩ Tây Tiến còn hiện lên với vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn.

“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là học sinh, sinh viên từ thủ đô Hà Nội nghìn năm văn hiến. Họ là những chàng trai Hà Thành, tâm hồn của họ sẵn chất lãng mạn, hào hoa. Bởi thế, những phút nghỉ ngơi ít ỏi trên đường hành quân, họ lại tranh thủ mơ về Hà Nội rực rỡ ánh sáng để nhớ về bóng hồng kiều diễm, thanh lịch.

Nếu người lính trong bài thơ “Đồng Chí” của Chính Hữu mơ về những miền quê

“Nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, nhớ về những giếng nước, gốc đa thì chiến sĩ Tây Tiến lại mơ về Hà Nội nghìn năm văn hiến, mơ về những bóng hồn kiều diễm chốn Hà Thành. Giấc mơ của người chiến sĩ giàu chất mộng mơ. Giấc mơ của họ thật kiêu sa và lãng mạn. Đó là giấc mơ của những người tri thức mặc áo lính. Thế mới biết, chiến tranh gian khổ, tàn khốc nhưng không thể vùi dập được nét đẹp hào hoa,lãng mạn trong tâm hồn người lính Tây Tiến.

Với bút pháp lạng mạn, Quang Dũng khắc họa thành công hình ảnh đoàn binh Tây Tiến năm xưa. Đó là những chiến sĩ dũng cảm kiên cường, sẵn sàng dâng hiến cả tuổi thanh xuân của mình cho đất nước. Đó là các chàng trai trẻ có tâm hồn hào hoa, lãng mạn. Viết về vẻ đẹp của người lính Tây Tiến năm xưa, Quang Dũng bày tỏ tình cảm trân trọng, ngưỡng mộ, ngợi ca.

Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc... Sông Mã gầm lên khúc độc hành". Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 12 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 12 và biết cách soạn bài lớp 12 và các Tác giả - Tác phẩm Ngữ Văn 12 trong sách Văn tập 1 và tập 2, mời các bạn tham khảo thêm một số bài tiêu biểu:

Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 12 của VnDoc.com để có thêm tài liệu học tập nhé

Đánh giá bài viết
1 7.868
Sắp xếp theo

Văn mẫu lớp 12

Xem thêm