Chứng minh rằng Nước Đại Việt ta là một áng văn đầy niềm tự hào dân tộc

Chứng minh rằng “Nước Đại Việt ta là một áng văn đầy niềm tự hào dân tộc” được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 8 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình. Mời các bạn tải và tham khảo.

Dàn ý Chứng minh rằng Nước Đại Việt ta là một áng văn đầy niềm tự hào dân tộc

Mở bài

- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.

- Nêu vấn đề nhận định: Nước Đại Việt ta là một áng văn đầy niềm tự hào dân tộc

2. Thân bài

a. Niềm tự hào về truyền thống nhân nghĩa của dân tộc:

- Tư tưởng nhân nghĩa là tư tưởng lớn của nhân dân, đất nước từ bao đời, tiếp nối truyền thống tốt đẹp đó, tác giả cũng tỏ bày mục đích lớn nhất của quốc gia là "cốt ở yên dân".

- Mục đích: Tư tưởng "lấy dân làm gốc"- yên dân.

- Hành động: "trước lo trừ bạo" - Kẻ tàn ác- quân Minh bạo ngược, gây hấn lầm than, khổ cực cho nhân dân phải bị diệt trừ, nước an thì dân mới ấm.

=> Khẳng định việc tiên quyết là diệt trừ quân thù, bảo vệ đất nước. Đó cũng là mong cầu của bao thế hệ cha anh, của muôn triệu người dân Việt.

b. Niềm tự hào dân tộc thể hiện qua lời khẳng định chủ quyền, văn hiến, anh tài nhân kiệt của quốc gia Đại Việt:

- Bằng thủ pháp liệt kê, so sánh, đối chiếu giữa các triều đại cùng giọng thơ hào hùng, tác giả đã khẳng định vị trí của nước Đại Việt ta trong tương quan với các triều đại lớn.

- Đặt Đại Việt ngang hàng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc.

- Đó là một Đại Việt mạnh mẽ, kiên cường, có văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, chủ quyền riêng với phong tập tập quán, những nét văn hoá riêng với đầy đủ những anh tài, nhân kiệt.

c. Niềm tự hào dân tộc thể hiện qua việc ngợi ca những chiến thắng hào hùng của nước Đại Việt.

- Những chiến công hào hùng đã lưu danh sử sách, thất bại của Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã là minh chứng tiêu biểu cho điều ấy.

- Lưu dấu cho những chiến công đó là các địa danh lịch sử như sông Bạch Đằng, cửa Hàm Tử.

3. Kết bài

- Khẳng định lại vẻ đẹp của đoạn thơ.

- Liên hệ bản thân.

Chứng minh rằng Nước Đại Việt ta là một áng văn đầy niềm tự hào dân tộc mẫu 1

Trong văn học trung đại Việt Nam, tình yêu nước là một nguồn cảm hứng lớn, nó như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài của văn hóa, lịch sử. Đã có rất nhiều những bài thơ hay, những tác phẩm hào hùng thể hiện tình yêu đất nước, quyết tâm bảo vệ triều đại. Một trong những áng văn đầy niềm tự hào dân tộc đó là Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi.

Tác phẩm được sáng tác vào năm 1428, khi Nguyễn Trãi thừa lệnh thay lời Lê Lợi viết Đại cáo Bình Ngô để tuyên bố với nhân dân về chiến thắng của đất nước trước quân Minh, giặc ngoại xâm tan rã, nước nhà được độc lập. Bài cáo như một bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ 2 của dân tộc sau Nam quốc sơn hà. Đoạn trích "Nước đại việt ta" trong tác phẩm là một áng văn chứa chan niềm tự hào dân tộc.

Trước hết, tác giả thể hiện niềm tự hào về truyền thống nhân nghĩa của dân tộc:

"Từng nghe
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo".

Tư tưởng nhân nghĩa là tư tưởng lớn của nhân dân, đất nước từ bao đời, tiếp nối truyền thống tốt đẹp đó, tác giả cũng tỏ bày mục đích lớn nhất của quốc gia là "cốt ở yên dân". Lấy dân làm gốc, mọi hành động cần bắt nguồn từ dân nhằm mang đến bình yên, hạnh phúc cho nhân dân. Việc nhân nghĩa nhất là việc làm vì cuộc sống ấm no, thái bình, thịnh trị của nhân dân. Ý chí dân tộc là phải trừ gian, diệt ác, mang lại cuộc sống an ổn cho người người, nhà nhà. Dân muốn yên thì giặc phải đánh, "trước lo trừ bạo" là thế. Kẻ tàn ác- quân Minh bạo ngược, gây hấn lầm than, khổ cực cho nhân dân phải bị diệt trừ, nước an thì dân mới ấm. Phép đối trong hai câu thơ kết hợp hài hoà cùng giọng văn đầy hùng hồn, tác giả đã nhấn mạnh, khẳng định việc tiên quyết là diệt trừ quân thù, bảo vệ đất nước. Đó cũng là mong cầu của bao thế hệ cha anh, của muôn triệu người dân Việt.

Lòng tự hào dân tộc còn được thể hiện qua lời khẳng định chủ quyền, văn hiến, anh tài nhân kiệt của quốc gia, dân tộc.

"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Dường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhauSong hào kiệt đời nào cũng có"

Bằng thủ pháp liệt kê, so sánh, đối chiếu giữa các triều đại cùng giọng thơ hào hùng, tác giả đã khẳng định vị trí của nước Đại Việt ta trên trường quốc ta, ngang hàng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc. Đó là một quốc gia mạnh mẽ, kiên cường, có văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, chủ quyền riêng với phong tập tập quán, những nét văn hoá riêng. Các quốc gia khác phải tôn trọng lãnh thổ đất Việt, không có quyền xâm phạm, giày xéo. Không chỉ là một Đại Việt có lịch sử lâu đời, có nền độc lập riêng, Đại Việt ta còn tự hào với bao thế hệ anh tài, những nhân kiệt nơi nơi, từ vùng núi đến đồng bằng, từ biển cả đến non cao, đâu đâu cũng có những người hùng dũng cảm, tài trí và yêu quê hương:

"Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có"

Hơn thế nữa, niềm tự hào dân tộc còn được Nguyễn Trãi thể hiện qua việc ngợi ca những chiến thắng hào hùng của nước Đại Việt, qua sức mạnh của chính nghĩa trên những trận chiến không khoan nhượng giữa ta và địch:

"Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi"

Những chiến công hào hùng đã lưu danh sử sách, thất bại của Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã là minh chứng tiêu biểu cho điều ấy. Lưu dấu cho những chiến công đó là các địa danh lịch sử như sông Bạch Đằng, cửa Hàm Tử, không chỉ con người tham gia vào cuộc chiến chính nghĩa mà cả đất nước, non sông cùng chiến đấu, lưu danh sử sách với chiến công hùng hồn.

Niềm tự hào dân tộc toát ra trong từng lời thơ, tứ thơ. Qua đoạn trích, chúng ta thêm tự hào về thế hệ cha anh đi trước, tự hào về lịch sử hào hùng của dân tộc. Tin rằng, những học sinh như chúng ta và thế hệ mai sau sẽ noi gương người đi trước, học tập, trở thành

những người công dân có ích để dựng xây đất nước, đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới.

Chứng minh Nước Đại Việt ta là một áng văn đầy niềm tự hào dân tộc mẫu 2

Năm 1406 quân Minh xâm lược nước ta. Ách đô hộ của giặc Minh đè nặng lên các tầng lớp nhân dân ta. Năm 1416, ở đất Lam Sơn - Thanh Hoá, Lê Lợi và 18 người cùng chí hướng đã làm lễ ăn thề ở Lũng Nhai, nguyện sống chết cùng nhau đuổi giặc cứu nước. Nguyễn Trãi - một tài năng xuất chúng, nổi bật lên trong hàng ngũ tướng lĩnh nghĩa quân Lam Sơn. Ông đã góp công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Trong niềm hân hoan của cả dân tộc, tháng 2 năm 1428 Bình Định Vương Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi viết “ Bình Ngô đại cáo” tuyên bố cuộc đấu tranh chính nghĩa đã thắng lợi.

“Bình Ngô đại cáo” thắm đậm tư tưởng nhân nghĩa, là cội nguồn sức mạnh của cuộc kháng chiến.

Nhân nghĩa là tư tưởng của dân tộc được hình thành và phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử. Mục đích của nhân nghĩa đã được khẳng định là “cốt để yên dân”, là bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là được sống trong môi trường hoà bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết chóc ,đau thương.

“Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Nhân nghĩa là tinh thần vì dân, là chính nghĩa của nhân dân, mang bản sắc dân tộc. Nhân nghĩa ở đây không phải là lòng thương người một cách chung chung, mà nhân nghĩa là để an dân, trừ bạo ngược để cứu nước, cứu dân. Muốn yên dân thì khi có giặc ngoại xâm trước tiên phải đứng lên chống giặc “trước lo trừ bạo”.

Nhân nghĩa gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:

“Nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã riêng

Phong tục Bắc Nam cũng khác”

là niềm tự hào dân tộc "…hào kiệt đời nào cũng có”, là truyền thống yêu chính trực, ghét gian tà, căm thù sâu sắc bọn giặc cướp nước, bán nước:

“Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây vạ

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”

Nhân nghĩa còn là sự chia sẻ, cảm thông với nổi khổ của người dân mất nước:

“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc

….
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”

Nhân nghĩa là cội nguồn của cuộc sống. Có nhân nghĩa thì thành công, không nhân nghĩa thì thất bại. Bọn giặc Minh xâm lược đã:

“Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế

Gây binh, kết oán trải hai mươi năm

Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời”

Họ không có nhân nghĩa vì vậy cho nên phải chịu cảnh “ thây chết đầy đường” “máu trôi đỏ nước” “ nhơ để ngàn năm”

Nhân nghĩa làm nên sức mạnh, vì nhân nghĩa quân ta đã:

“Đánh một trận, sạch không kình ngạc,

Đánh hai trận, tan tác chim muông”

Quân ta chiến thắng vì đã:

“Đem đại nghĩa thắng hung tàn

Lấy chí nhân thay cường bạo”

Nhân nghĩa còn là tinh thần yêu chuộng hoà bình, công lý, tình nhân loại, là sự hiếu sinh, hiếu hoà, sự độ lượng bao dung thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc ta, đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù khi chúng đã bị bại vong:

“Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng

Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh

Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,

ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc.

Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cổ ngựa,

về đến nước mà vẫn tim đập chân run.”

Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”

Cuộc kháng chiến chống quân Minh diễn ra lâu dài với muôn vàn khó khăn gian khổ nhưng thể hiện tinh thần quật khởi của một dân tộc anh hùng. Tư tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô đại cáo” thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc, là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng đó đã giúp cho Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa, hiệu triệu quần chúng tham gia đánh đuổi giặc Minh. Nó biến thành sức mạnh to lớn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

Chứng minh Nước Đại Việt ta là một áng văn đầy niềm tự hào dân tộc mẫu 3

Yêu nước và tự hào dân tộc là một trong những nội dung lớn của văn học trung đại. Bởi lịch sử của dân tộc ta là lịch sử dựng nước và giữ nước đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Trong văn học không thể không kể đến áng thiên cổ hùng văn "Nam quốc Sơn Hà". Mở đầu bài cáo là đoạn trích "Nước đại việt ta". Có ý kiến cho rằng: "Nước Đại Việt ta là áng văn tràn đầy niềm tự hào dân tộc".

Đầu năm 1428, Nguyễn Trãi thay lời Lê Lợi viết "Bình ngô đại cáo" công bố cho nhân dân được biết việc đánh đuổi giặc Minh đã giành thắng lợi hoàn toàn. Vị anh hùng Nguyễn Trãi đã gửi trọn tình yêu quê hương dân tộc vào bài cáo nói chung và đoạn đầu nói riêng.

Trước hết tác giả tự hào về truyền thống nhân nghĩa của dân tộc:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo".

Trong hai câu văn trên, Nguyễn Trãi đã sử dụng phép đối của cặp câu biền ngẫu tạo nên sự hài hòa cân xứng, giọng văn hùng hồn đanh thép vận dụng điển tích "Điều dân phạt tội"… Tác giả nhấn mạnh tư tưởng lấy dân làm gốc" Yên dân". Vì muốn "yên dân" nên những vị lãnh tụ khởi nghĩa Tây Sơn đã giấy binh diệt trừ giặc Minh hung tàn bạo ngược đó là tư tưởng tiến bộ lấy dân làm gốc. Trong Nam Quốc Sơn Hà có mặt "đế" đến Hịch Tướng Sĩ có mặt "Tướng" thì nước đại việt ta có mặt dân quan tâm đến tầng lớp cùng khổ đông đảo nhất trong xã hội và "nhân nghĩa" vốn là quan niệm của nho giáo đã được Nguyễn Trãi kế thừa và phát huy nâng lên thành quan hệ giữa quốc gia và giữa ta và Phương Bắc.

Tinh thần tự hào dân tộc của tác giả còn được thể hiện về chân lí một quốc gia độc lập có chủ quyền:

“Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nên độc lập

Cùng Hán, Dường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có”

Tác giả tiếp tục sử dụng câu văn biền ngẫu tạo sự cân xứng hài hòa, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục, giọng văn hùng hồn nhiều từ ngữ mang tính chất hiển nhiên như: Vốn xưng, đôi chìa, cũng khác. Phép liệt kê, so sánh, đối chiếu giữa các triều đại của ta với các triều đại của Trung Quốc nhằm hành động vị thế ngang hàng của đại việt với phong kiến phương bắc, tác giả đã định nghĩa về một quốc gia nhiều phương diện.

Đó là đất nước có nền văn hiến lâu đời, lãnh thổ chủ quyền riêng, phong tục tập quán riêng, các triều đại lịch sử riêng và các anh hùng hào kiệt. Nguyễn Trãi đã kế thừa và phát huy quan niệm này từ "Nam Quốc Sơn Hà". Định nghĩa của ông cụ thể, tiêu biểu toàn diện hơn.

Cuối cùng niềm tự hào dân tộc còn được tác giả hành động qua sức mạnh nhân nghĩa:

Vậy nên:

"Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét Chứng cớ còn ghi”

Đây là những chứng cớ chiến công đã từng được ghi trong sử sách có sức thuyết phục cao mang tính hiển nhiên. Kẻ nào đến xâm phạm nước ta chắc chắn sẽ bị trừng trị chuốc lấy bại vong.

Đoạn trích đúng là bản tuyên ngôn độc lập được thể hiện thông qua nhiều biện pháp nghệ thuật… Niềm tự hào dân tộc ấy được lưu truyền đến muôn đời sau có sức ảnh hưởng rộng rãi. Đó là bài ca yêu nước của thế hệ cha ông.

Tóm lại "Nước Đại Việt ta" là áng văn tràn đầy niềm tự hào dân tộc, tiếp nỗi truyền thống ấy thế hệ trẻ chúng ta phải ra sức học tập, bảo vệ xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp. Sự kiện Bạch Đằng 1-5-2014 khiến chúng ta càng cần nêu cao tinh thần tự giá, xây dựng đất nước phát triển để kẻ thù không nhòm ngó lãnh thổ, lãnh hải.

Trên đây VnDoc đã gửi tới các bạn dàn ý và các bài văn mẫu Chứng minh rằng Nước Đại Việt ta là một áng văn đầy niềm tự hào dân tộc. Hy vọng tài liệu giúp các em có thêm nhiều ý twogr hoàn thành bài văn của mình. Để học tốt môn Ngữ Văn lớp 8, mời các bạn tham khảo thêm các chuyên mục: Văn mẫu lớp 8Soạn bài lớp 8 được cập nhật liên tục trên VnDoc.

Đánh giá bài viết
60 44.464
Sắp xếp theo

Học tốt Ngữ Văn lớp 8

Xem thêm