Đề thi tuyển sinh lớp 10 môn Văn (Đề 3)

Đề luyện thi vào lớp 10 môn Văn do VnDoc biên soạn, bám sát chương trình học sẽ giúp các em học sinh lớp 9 trong quá trình ôn thi vào lớp 10 luyện thêm đề thi thử vào lớp 10 môn Ngữ văn có đáp án.

Đề thi học kì 2 lớp 9 môn Ngữ văn bao gồm đầy đủ các phần thiết yếu sau:

  • Phần Đọc hiểu văn bản được chọn lọc bám sát chương trình học.
  • Phần Làm văn bao gồm nghị luận xã hội và nghị luận văn học giúp các em học sinh hình thành kĩ năng làm văn của mình cũng như phục vụ quá trình ôn thi học kì 2 môn Ngữ văn lớp 9.

Mời thầy cô và các em tham khảo: Đề thi tuyển sinh lớp 10 môn Văn (Đề 2) do VnDoc biên soạn.

Bản quyền tài liệu thuộc về VnDoc.
Nghiêm cấm mọi hình thức sao chép nhằm mục đích thương mại.

Đề luyện thi vào lớp 10 môn Ngữ văn

I. Đọc hiểu văn bản (3đ):

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

Sư tử và sóc

Một con sóc muốn quyết đấu với sư tử nhân một ngày đẹp trời nọ. Sư tử liền từ chối thẳng thừng. Sóc khiêu khích: “Sư tử hùng mạnh như ngươi mà lại sợ ta?”.

Sư tử thủng thẳng trả lời: “Dẫu kết quả trận đấu có ra sao đi nữa, sau này muôn thú sẽ biết đến ngươi như kẻ đã dám thách thức với Chúa tể sơn lâm. Còn ta suốt đời sẽ mang danh tên Chúa tể sơn lâm lại đi luận võ với hạng sóc chồn tiểu tử!”.

Câu 1 (0,5đ): Nêu phương thức biểu đạt chính của câu chuyện?

Câu 2 (0,5đ): Theo em, vì sao sư tử lại từ chối lời thách thức của sóc?

Câu 3 (1đ): Câu chuyện mang ý nghĩa gì?

Câu 4 (1đ): Qua câu chuyện, em rút ra được bài học gì?

II. Làm văn (7đ):

Câu 1 (2đ): Viết bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của câu chuyện trên.

Câu 2 (5đ): Phân tích nhân vật bé Thu trong tác phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng

Hướng dẫn giải đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn

Đáp án phần Đọc hiểu văn bản

Câu 1 (0,5đ): Phương thức biểu đạt chính của câu chuyện là tự sự

Câu 2 (0,5đ):

Sư tử lại từ chối lời thách thức của sóc vì sư tử biết dù có thi đấu sóc cũng không thể thắng được mình.

Câu 3 (1đ):

Câu chuyện mang ý nghĩa: Đừng vì những lời nói khiêu khích của thiên hạ mà tự hạ thấp danh dự bản thân mình.

Câu 4 (1đ):

Câu chuyện giúp em rút ra được bài học: Trong mọi hoàn cảnh hãy thật tỉnh táo, bình tĩnh để xử lí vấn đề, không nên nóng vội nhất là đối với những lời nói khiêu khích của người khác.

II. Làm văn (7đ)

Câu 1 (2đ):

Dàn ý bài văn nghị luận xã hội về ý nghĩa của câu chuyện

1. Mở bài

Đừng vì những lời nói khiêu khích của thiên hạ mà tự hạ thấp danh dự bản thân mình.

2. Thân bài

a. Giải thích

Lời nói khiêu khích: những lời nói thách thức, không mang ý nghĩa tốt đẹp của những con người sốc nổi, muốn thể hiện bản thân mình.

→ Khuyên nhủ chúng ta hãy luôn giữ quan điểm, sự bình tĩnh và giữ vững những giá trị của bản thân mình vì không phải ai cũng có thể trở thành đối thủ của chúng ta.

b. Phân tích

  • Mỗi con người có những giá trị cốt lõ riêng, không nên lấy giá trị của người khác để so sánh với mình.
  • Việc thách thức người khác hay nhận lời thách thức không giúp chúng ta nâng cao giá trị bản thân, nó chỉ thể hiện sự sốc nổi của cá nhân.

c. Chứng minh

Học sinh tự lấy dẫn chứng phù hợp với bài làm của mình.

Lưu ý: lựa chọn những dẫn chứng tiêu biểu.

d. Phản biện

Trong cuộc sống, vẫn còn nhiều người chưa đủ chín chắn, luôn muốn thể hiện cái tôi của mình, chưa biết trân trọng những giá trị riêng của bản thân mình.

3. Kết bài

Câu chuyện trên mang đến cho chúng ta nhiều suy ngẫm và giúp ta có nhận thức đúng đắn từ đó có hành động thiết thực xây dựng cuộc sống của mình.

Câu 2 (5đ):

Dàn ý bài văn phân tích nhân vật bé Thu trong tác phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng

1. Mở bài

Cuộc chiến tranh chống Mỹ của dân tộc ta với biết bao câu chuyện đã trở thành huyền thoại được các nhà văn ghi lại trong số ấy phải kể đến "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng. Nhân vật bé Thu trong truyện đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc về tình thương cha mãnh liệt và có cá tính mạnh mẽ.

2. Thân bài

a. Khái quát nhân vật bé Thu

  • Bé Thu ngay từ khi xuất hiện đã để lại ấn tượng khó quên: "một đứa bé độ tám tuổi tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà" → cô bé đáng yêu, hồn nhiên, nhí nhảnh.
  • Bé Thu phải chịu cảnh thiếu thốn tình cảm của cha: cha đi kháng chiến khi bé chưa đầy 1 tuổi, không thể nhớ được mặt của cha.

b. Hành động của bé Thu khi ông Sáu trở về

  • Khi nghe tiếng người ba gọi mình với hai cánh tay dang ra đầy đón đợi, Thu chỉ biết "trợn mắt nhìn ngơ ngác, lạ lùng" ròi bỗng nhiên "mặt nó tái đi rồi vụt chạy" chỉ vì người đàn ông ấy không giống trong bức ảnh mà nó có.
  • Ông Sáu càng muốn gần con thì Thu lại càng xa cách với một thái độ ương ngạnh, bướng bỉnh. Nó phớt lờ ngay cả lời nói của mẹ: "Thì má cứ kêu đi", khi phải gọi thì nói trống không với ba: "Vô ăn cơm", "Cơm chín rồi!".
  • Trong hình dung của cô bé, cha không có vết sẹo dài trên mặt.
  • Cho đến lúc bị dồn vào thế bí, nó thà tự giải quyết còn hơn nhận sự giúp đỡ của ông Sáu. Nó khước từ mọi sự quan tâm chăm sóc nhỏ bé nhất của ông Sáu.

→ Những hành động của bé Thu không hề đáng trách bởi lẽ đối với một đứa trẻ chỉ nhìn ba mình qua tấm ảnh và sự khác biệt của người cha khi đi chiến đấu về khiến bé không nhận ra ba. Chính hành động bướng bỉnh này của bé Thu thể hiện em là người rất thương ba, trong lòng luôn tôn thờ người ba trong ảnh, khi một người khác nhận làm ba mình tất thảy em sẽ có những hành động phản kháng như vậy.

c. Sau khi sang nhà bà ngoại về

  • Sau đêm bé Thu bỏ sang nhà bà, nó đã được bà giải thích về vết sẹo trên mặt ba và Thu đã hiểu rằng người mà nó khước từ bấy lâu nay chính là ba nó. Cô bé quay trở về nhận ba.
  • Vẻ mặt của nó hơi khác, không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có. Vẻ mặt buồn rầu ủ dột ấy là do ân hận, day vò hay một mối linh cảm chẳng lành sắp có thể xảy đến.
  • Ánh mắt của bé Thu bắt gặp "đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu" của ba nó, đôi mắt mênh mông của cô bé bỗng xôn xao.
  • Chỉ với một cái nhìn mà cô bé như đọc thấu cả những tình cảm yêu thương, những nuối tiếc và đau xót trong lòng ba nó.
  • Niềm khát khao mà tám năm nay Thu kìm nén đã bật lên từ sâu thẳm con tim. Con bé đã thét lên một tiếng gọi với một chuỗi âm thanh vừa đứt đoạn vừa nức nở: "ba....a...a...a".
  • Ngay sau tiếng gọi ba, con bé "nhanh như một con sóc, chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba", "nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó". Đó như là cách để cô bé bù đắp những nỗi đau, những tổn thương đã gây ra cho ba. Và khi cuộc chia tay sắp kết thúc "nó dang cả hai chân câu chặt lấy ba nó".

→ Đến đây, mọi cảm xúc của bé như vỡ òa, bé nhận ra người ba mà mình hết lòng yêu thương và nhớ nhung bao lâu nay, tiếng gọi ba tuy có hơi muộn màng nhưng lại vô cùng xúc động.

d. Sau khi ba đi

  • Tình yêu thương cha vô bờ của bé Thu còn được thể hiện trong ước mơ mà con bé gửi cho ba "ba mua cho con một cây lược nghe ba".
  • Bất chấp sự khốc liệt của chiến tranh, theo thời gian, bé Thu đang dần trưởng thành, nét nữ tính của một người con gái vẫn lặng lẽ lớn dần lên.

3. Kết bài

Với cái nhìn của người từng trải, Nguyễn Quang Sáng đã làm sống dậy hình ảnh một bé Thu hồn nhiên, bướng bỉnh mà giàu tình cảm. Câu chuyện đã khép lại mà vẫn còn văng vẳng đâu đây tiếng gọi ba đến xé lòng của bé Thu. Đó thực sự là một vang âm ám ảnh trong lòng người đọc hôm nay và mai sau...

Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:

Để tham khảo thêm nhiều đề thi và tài liệu học tập hay khác, trao đổi với thầy cô và giáo viên, mời các bạn tham gia nhóm: Luyện thi lớp 9 lên lớp 10.

Trên đây VnDoc đã giới thiệu tới các em Đề thi tuyển sinh lớp 10 môn Văn (Đề 3). Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Đề thi vào lớp 10 môn Toán, Đề thi vào lớp 10 môn Tiếng Anh, Đề thi vào lớp 10 môn Vật lý, Thông tin Tuyển sinh vào lớp 10 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

Chúc các em đạt kết quả cao trong kỳ thi của mình.

Đánh giá bài viết
1 1.598
Sắp xếp theo

Đề thi tuyển sinh lớp 10 môn Văn

Xem thêm