Giải bài tập Ngữ văn lớp 11: Chiếu cầu hiền

Giải bài tập Ngữ văn lớp 11

Tài liệu: Giải bài tập Ngữ văn lớp 11: Chiếu cầu hiền đã được VnDoc.com cập nhật với nội dung chi tiết chắc chắn sẽ là nguồn thông tin hữu ích để giúp các bạn học sinh học tốt Ngữ văn 11. Mời thầy cô cùng các bạn học sinh tham khảo.

Lời giải hay bài tập Ngữ văn lớp 11: Chiếu cầu hiền

1. Anh (chị) hãy cho biết bài chiếu gồm có mấy phần và nội dung của mỗi phần. Từ đó, hãy khái quát nội đung chính của một văn bản "cầu hiền".

Gợi ý trả lời

Bài chiếu được chia làm 3 phần

a). Phần 1: Mở đầu

Bài chiếu mở đầu bằng việc nêu vai trò của người hiền và khẳng định vị trí của người hiền trong xã hội (ở đây là trong chế độ phong kiến thuộc triều đại vua Quang Trung). Đó là luận điểm đối với người hiền. Luận điểm đó đã được diễn đạt theo các ý sau:

- Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời: người hiền là của quý của đất nước, của xã hội, của nhân dân (“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” - Thân Nhân Trung), giống như “sao sáng trên trời”. Vai trò cửa người hiền đối với đất nước là rất quan trọng.

- Chính vì thế, “người hiền tất phải do thiên tử sử dụng” cũng như “sao tất phải chầu về Bắc thần”, ý nói người hiền phải được sử dụng, và trong chế độ phong kiến thì phải do thiên tử sử dụng để người hiền được đem tài đức của mình mà phò giúp nước.

Cách trình bày bài chiếu như thế nên các em cần lưu ý:

- Tác giả đã mở đầu bài Chiếu cầu hiền bằng lời Khổng Tử để tăng thêm sức nặng và độ tin cậy cho luận điểm của mình. Người hiền trong chế độ phong kiến thường xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, coi đức Khổng Tử như vị thánh của mình. Vì vậy, dẫn lời Khổng Tử ở đây là rất đúng, có tác dụng lớn đối với các nho sĩ lúc bấy giờ: lời Khổng Tử là chân lí của họ, đem đến cho họ niềm tin vững chắc vào vai trò người hiền của mình và vị trí mà mình cần phải có mặt trong xã hội. Câu nói của Khổng Tử vừa bao hàm được cả hai ý đó, lại là một câu nói so sánh, có hình ảnh (“sao sáng phải chầu về Bắc thần”), hàm chứa ý nghĩa sâu sắc.

- Nêu phản đề (ý trái ngược) để phủ định nhằm củng cố luận điểm. Đó là: “Nhược bằng giấu mình ẩn tiếng, có tài mà không để cho đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền tài” (khóa lại vấn đề, khẳng định mạnh mẽ luận điểm đã nêu). Như vậy, lôgic của luận điểm được tóm tắt như sau: Người hiền là của quý của đất nước - phải do thiên tử sử dụng, nếu giấu mình ẩn tiếng - không phải là ý trời sinh ra người hiền tài. Hai ý quan trọng nhất của bài Chiếu cầu hiền đã được tác giả đặt ra một cách gọn, rõ trong phần mở bài, báo trước hướng đi và nội dung sẽ nói của bài chiếu.

b) Phần 2: Mong mỏi có người hiền ra giúp triều đại mới

- Trước việc Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc diệt chúa Trịnh, các nho sĩ Bắc Hà có nhiều cách ứng xử khác nhau. Đây là lúc “thời gấp vận cùng, trung châu lắm việc”, tâm trạng của họ chưa ổn định trước một sự đổi thay lớn. Tác giả không kể trực tiếp các cách ứng xử ấy mà dùng những hình ảnh ẩn dụ quen thuộc với giới nho sĩ để nói lên thái độ của họ trước thời cuộc lúc đó:

+ Người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền (chỉ người cố chấp)

+ Người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã; (chỉ người lặng im)

+ Người đánh mõ giữ cửa (chỉ người làm cầm chừng)

+ Người ra bể vào sông (chỉ tình trạng phiêu tán)

+ Người chết đuối trên cạn (ám chỉ người đi ở ẩn, phí hoài tài năng) Cách nói như vậy (tránh nói thẳng sẽ không tế nhị với tầng lớp nho sĩ có học thức) vừa dễ cảm nhận, lại thấm thía, nên dễ thuyết phục người nghe. Không những thế, đây còn là một cách nói có tình của một ông vua đối với bề tôi của mình, đồng thời cũng là một cách nói khiêm tốn của một vị hoàng đế để thu phục nhân tâm. Và Ngô Thì Nhậm, hiểu lòng Nguyễn Huệ, đã thay lời vua viết nên những câu thật chí tình và xúc động trong bài chiếu:

“Trẫm đương để ý lắng nghe, sớm hôm mong mỏi. Thế mà những người tài cao học rộng, chưa có ai đến. Hay trẫm là người ít đức, không xứng để người ấy phò tá chăng? Hay là đương thời loạn lạc, họ chưa thể phụng sự vương hầu?”

Một ông vua mà viết được những câu như thế phải là người muốn cầu hiền biết bao! Đó cũng là một ông vua vì dân, vì nước, nên mới “sớm hôm mong mỏi” người hiền đến để giúp dân, giúp nước.

- Lòng mong mỏi đó của vua Quang Trung lại được nhấn mạnh và khắc sâu hơn trong ý 2b. Bài chiếu nêu rõ triều đại mới, trong “buổi đầu nền đại định” còn nhiều khó khăn (“Công việc vừa mới mở ra. Kỉ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết,...”). Đáng chú ý là câu “Dân còn nhọc mệt chưa lại sức, (...), trẫm nơm nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh.” Mới biết nhà vua lo cho dân, cho nước đến thế nào. Nhưng chính “khi trời còn thảo muội” mới “là lúc quân tử thi thố kinh luân” để vạch ra đường lối xây dựng đất nước. Bởi thế, nhà vua càng nóng lòng mong mỏi người hiền đến với mình - cũng là ra giúp triều đại mới - trong một niềm tin son sắt vào nhân tài của đất nước thời nào cũng có và có nhiều. Câu văn của Ngô Thì Nhậm đã bộc lộ chân thành tha thiết tấm lòng ưu ái đó của vua Quang Trung:

“Trong vòm trời này, cứ cái ấp mười nhà đắt phải có người trung thành tín nghĩa. Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?”

c) Phần 3: Đường lối cầu hiền của Nguyễn Huệ Chính từ lòng mong mỏi thiết tha đó mà đường lối cầu hiền của Nguyễn Huệ hết sức rộng mở. Diện cầu hiền thật rộng rãi mà biện pháp cũng cụ thể, dễ làm, không hề có điều gì gây trở ngại, ảnh hưởng đến người hiền trong việc đem tài đức ra giúp dân, giúp nước, xây dựng triều đại mới. Nhà vua đã mở lòng ra để đón người hiền đến với mình một cách chân thành, thoải mái trên một mục tiêu chung là xây dựng đất nước.

Trước hết là diện cầu hiền hết sức rộng mở, đến mọi người dân trong nước, từ “quan liêu lớn nhỏ và dân chúng trăm họ; ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư tỏ bày công việc”. Sau nữa là những biện pháp cầu hiền cụ thể, dễ làm, tạo cho mọi người sự an tâm, thoải mái, không có gì phải bận tâm, lo lắng:

- Lời có thể dùng được thì đặc cách bổ dụng, lời không dùng được thì để đấy chứ không bắt tội vu khoát.

- Các quan văn võ đều được tiến cử những người có tài nghệ, lại cho dẫn đến yết kiến, tùy tài bổ dụng.

- Những người giấu tài ẩn tiếng, không ai biết đến cũng được dâng thư tự cử, chớ ngại thế là “đem ngọc bán rao”. Và những người hiền trong sự nghiệp xây dựng triều đại mới sẽ được mọi người biết đến và có một tiền đồ tốt đẹp: “Còn nay trời đất thanh bình, chính lúc người hiền gặp gỡ gió mây.” Bài chiếu kết thúc bằng một lời kêu gọi, động viên người hiền hãy đem tài đức ra giúp nước: “Những ai tài đức, nên đều gắng lên, để được rỡ ràng chốn vương đình; một lòng cung kính cùng hưởng phúc tôn vinh”. Lời kêu gọi trang trọng nhưng có sự gắn bó tha thiết giữa ông vua vì dân vì nước và những người hiền trong đất nước lúc bấy giờ. Tóm lại, Chiếu cầu hiền không chỉ nói lên chủ trương cầu hiền đúng đắn của vua Quang Trung mà còn cho ta thấy được tầm nhìn xa trông rộng và tấm lòng vì dân vì nước của nhà vua để xây dựng triều đại mới lúc bấy giờ.

2. Hãy cho biết: Bài chiếu được viết nhằm đối tượng nào? Các luận điểm đưa ra để thuyết phục là gì? Có phù hợp với đối tượng không? Nhận xét về nghệ thuật lập luận của bài chiếu.

Gợi ý trả lời

- Để trả lời câu 2 các em nên xem lại câu 1 và trích những ý phù hợp để trả lời. Bên cạnh đó các em có thể đặt câu hỏi về học vấn của các trí thức thời phong kiến (mười năm đèn sách, học và đọc kinh sử Trung Quốc), với một đối tượng như vậy, người viết đã có lí khi dùng nhiều điển cố văn học Trung Quốc để làm rõ hơn về đối tượng trong bài chiếu.

- Nghệ thuật lập luận của bài chiếu được viết theo thể nghị luận. Lập luận của tác giả có thể tóm tắt như sau:

Người hiền là của quý của đất nước, phải do thiên tử sử dụng để xây dựng đất nước. Nhưng khi Tây Sơn diệt họ Trịnh, tâm trạng của nho sĩ Bắc Hà chưa ổn định trước việc ra giúp triều đại mới. Triều đại mới lên nhiều khó khăn, rất cần người hiền ra giúp nước. Vua Quang Trung mở rộng con đường cầu hiền đến mọi người dân trong nước, mong mỏi người hiền sẽ đến với mình và kêu gọi những người tài đức hãy ra giúp dân, giúp nước. Bên cạnh lí, bài chiếu còn được viết có tình: đó là cái tình của một ông vua gắn bó với người hiền trong nhiệm vụ chung xây dựng đất nước. Giọng điệu, cách viết, cách dùng các lời nói của Khổng Tử rất phù hợp và có sức thuyết phục các nho sĩ.

3. Qua bài chiếu, anh (chị) hãy nhận xét về tư tưởng và tình cảm của vua Quang Trung.

Gợi ý trả lời

Để trả lời câu hỏi này các em nên đặt câu hỏi: Vì sao vua Quang Trung lại “cầu hiền” như vậy? Ông nghĩ gì về đất nước, về nhân dân trong bài chiếu này? Những hứa hẹn của vua Quang Trung thể hiện tầm tư tưởng và nhân cách của ông như thế nào?

Các em trả lời những câu hỏi bằng lập luận của mình qua bài học trên sẽ hiểu rõ tư tưởng và tình cảm của vua Quang Trung.

-------------------------

VnDoc.com đã giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu: Giải bài tập Ngữ văn lớp 11: Chiếu cầu hiền, để giúp các bạn học tốt hơn môn Ngữ văn 11. Cùng chủ đề này, VnDoc.com mời các bạn tham khảo bài soạn văn mẫu bài Chiếu cầu hiền mà VnDoc.com đã sưu tầm, tổng hợp.

Đánh giá bài viết
1 124
Sắp xếp theo

    Giải bài tập Ngữ văn 11

    Xem thêm