Giải bài tập Ngữ văn lớp 11: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Giải bài tập Ngữ văn lớp 11

VnDoc.com xin giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Giải bài tập Ngữ văn lớp 11: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, với nội dung chi tiết đã được VnDoc.com cập nhật để phục vụ công việc học tập của các bạn học sinh được tốt hơn. Mời các bạn học sinh tham khảo để học tốt hơn Ngữ văn 11.

Lời giải hay bài tập Ngữ văn lớp 11: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Gợi ý trả lời câu hỏi

1. Đây là câu hỏi khó, mang tính chất khái quát về kịch Vũ Như Tô nói chung và đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài nói riêng. GV cần hướng dẫn, gợi mở cho HS trả lời câu hỏi này.

- Mâu thuẫn thứ nhất: Mâu thuẫn giữa nhân dân lao động khốn khổ lầm than với bọn hôn quân bạo chúa và phe cánh của chúng sống xa hoa, truỵ lạc. Mâu thuẫn này vốn có từ trước, đến khi Lê Tương Dực bắt Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài, thì mâu thuẫn này càng ngày càng căng thẳng. Để xây dựng Cửu Trùng Đài triều đình ra lệnh tăng thêm sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc mã, hành hạ những người chống đối. Thợ phải làm việc cật lực mà vẫn đói khát vì bị ăn chặn. Dân căm phẫn vua làm cho dân cùng, nước kiệt: thợ oán Vũ Như Tô vì nhiều người chết bởi tai nạn, vì ông cho chém những kẻ chạy trốn.

Trịnh Duy Sản can ngăn Lê Tương Dục, báo sẽ có loạn và đòi đuổi bọn cung nữ, giết Vũ Như Tô. Nhưng Lê Tương Dực chẳng những không nghe mà còn sai đánh đòn Trịnh Duy Sản (hồi III). Thế rồi, tin lụt lội, mất mùa, tin “dân gian đói kém nổi lên tứ tung” truyền đến Thăng Long. Vũ Như Tô bị đá đè bị thương vẫn hăng hái đốc thợ xây Cửu Trùng Đài. Thợ đinh nổi loạn. Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Trinh Duy Sản - kẻ cầm đầu phe cánh đối nghịch trong triều đình - đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ thuyền làm phản, giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và thiêu huỷ Cửu Trùng Đài (hồi IV và hồi V).

Như vậy, mâu thuẫn này đến hồi V đã trở thành cao trào, lên tới đỉnh điểm ở hồi cuối cùng và được giải quyết: Hôn quân Lê Tương Dực bị Trịnh Duy Sản giết, Nguyễn Vũ tự sát, Kim Phượng và đám cung nữ bị những kẻ nổi loạn nhục mạ, bắt bớ.

- Mâu thuẫn thứ hai: Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần tuý của muôn đời và lợi ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân. Mâu thuẫn này có nguồn gốc từ nguyên nhân sâu xa: Người nghệ sĩ thiên tài đầy hoài bão và tâm huyết cũng không thể thi thố tài nàng của mình để đem lại cái đẹp cho đời, niềm tự hào cho dân tộc trong một chế độ xã hội thối nát, trong một đất nước mà nhân dân còn phải sống triền miên trong đói khổ, lầm than. Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài có khả năng “tranh tinh xảo với hoá công” để xây dựng cho đất nước một toà lâu đài vĩ dại, để cho “dân ta nghìn thu còn hãnh diện”.

Nhưng hoàn cảnh của đất nước không tạo điều kiện cho Vũ Như Tô thực hiện khát vọng sáng tạo vĩ đại, chân chính đó. Không có cách lựa chọn nào khác, Vũ Như Tô đã nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm - một cung nữ “đồng bệnh” với ông - đành phải mượn uy quyền và tiền bạc của tên hôn quân Lê Dương Dực, để thực hiện hoài bão lớn lao của mình xây dựng cho đất nước một công trình nguy nga, vĩ đại. Trớ trêu thay, chính niềm khao khát được cống hiến, được sáng tạo chân thành ấy đã đẩy Vũ Như Tô vào tình trạng đối nghịch với lợi ích trực tiếp và thiết thực của nhân dân. Mặc dù vốn yêu nhân dân, muốn cống hiến tài năng của mình để đem lại niềm tự hào và vinh quang cho đất nước, nhưng Vũ Như Tô lại bị nhân dân, nhất là những người thợ, coi ông như kẻ thù của họ. Muốn thực hiện lí tưởng nghệ thuật thì lại rơi vào tình trạng đi ngược lại quyền lợi trực tiếp của nhân dân, nếu xuất phát từ lợi ích thiết thực của nhân dân thì không thể thực hiện mơ ước nghệ thuật muôn đời của mình, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tấn bi kịch không lối thoát của thiên tài Vũ Như Tô. Hai mâu thuẫn nói trên của vở kịch có quan hệ mật thiết và tác động lẫn nhau.

2. Đây là câu hỏi trọng tâm của bài học, trong đó cần tập trung vào nhân vật Vũ Như Tô

- Tính cách và diễn biến tâm trang của Vũ Như Tô

+ Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài, là hiện thân cho niềm khát khao, say mê sáng tạo “cái đẹp”. Thiên tài của Vũ Như Tô chủ yếu được thể hiện ở những hồi trước của vở kịch, chủ yếu là qua lời của các nhân vật khác nói về ông. Vũ Như Tô là một thiên tài “ngàn năm chưa dễ có một”, “chỉ vẩy bút là chim, hoa đã hiện lên trên mảnh lụa thân tình biến hoá như cảnh hoá công”, có thể “sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể xây dựng lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ”.

+ Vũ Như Tô là một nghệ sĩ có nhân cách lớn, có hoài bão lớn, có lí tưởng nghệ thuật cao cả. Là một nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, cho nên mặc dù bị Lê Tương Đực doạ giết, Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân và kiên quyết từ chối xây Cửu Trùng Đài (hồi I). Ông cũng không phải là người hám lợi (khi được vua ban thưởng vàng bạc, lụa là, ông đã đem chia hết cho thợ). Lí tưởng nghệ thuật của Vũ Như Tô chân chính, nhưng là lí tưởng nghệ thuật cao siêu, thuần tuý của muôn đời, thoát li khỏi hoàn cảnh lịch sử - xã hội của đất nước, xa rời đời sống hiện thời của nhân dân lao động. Vì quá say sưa với mơ ước xây dựng cho đất nước một toà lâu đài vĩ lại “bền như tràng sao” để cho “dán ta nghìn thu còn hãnh diện” mà Vũ Như Tô đã không nhận ra một thực tế tàn nhẫn: Cửu Trùng Đài xây bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu của nhân dân ! Hồi V của vở kịch không nói nhiều đến tài năng của Vũ Như Tô mà tập trung làm nổi bật tâm trạng bi kịch đầy căng thẳng của ông khi phải tìm kiếm câu trả lời. Xây Cửu Trùng Đài là đúng hay sai? Là có công hay có tội? Nhưng Vũ Như Tô đã không trả lời thoả đáng câu hỏi đó. Khát vọng nghệ thuật, niềm đam mê sáng tạo của ông có phần chính đáng vì xuất phát từ thiên chức của người nghệ sĩ, từ động cơ chân chính muốn khẳng định tài năng của mình, muốn tô điểm cho đất nước và làm đẹp cho đời, nhưng đã đặt lầm chỗ, lầm thời, xa rời thực tế nên dân phải trả giá bằng sinh mệnh của bản thân và của cả công trình nghệ thuật.

+ Vũ Như Tô đúng là một nhân vật bi kịch bởi đã mang trong mình không chỉ những say mê khát vọng lớn lao mà còn cả những lầm lạc trong suy nghĩ và hành động. Ông không nghĩ việc mình xây Cửu Trùng Đài cho đất nước lại bi xem là tội ác. Đến khi cuộc nổi loạn đã nổ ra, Đan Thiềm hốt hoảng báo cho Vũ Như Tô nguy cơ nếu không trốn thì ông sẽ bị giết, nhưng ông vẫn không chịu đi vì vẫn tin vào động cơ và việc làm “chính đại quang minh” của mình, vẫn hi vọng sẽ thuyết phục được An Hoà Hầu, một trong những kẻ cầm đầu phe nổi loạn. Song sự thực thật tàn nhẫn, mọi việc không diễn ra như ảo tưởng của Vũ Như Tô. Khi ông và Đan Thiềm bị bắt, Cửu Trùng Đài bị đập phá, thiêu huỷ thì ông mới bừng tỉnh, xiết bao đau đớn, kinh hoàng ngửa mặt lên trời mà kêu lên: “Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!”. Trong tiếng kêu ấy, mộng lớn, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài dồn dập vang lên, hoà nhập vào nhau thành nổi đau bi tráng. Đó chính là âm hưởng chủ đạo của đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.

- Tính cách và diễn biến tâm trạng của Đan Thiềm

Nếu Vũ Như Tô là người nghệ sĩ đam mê sáng tạo cái đẹp thì Đan Thiềm là người đam mê cái tài, ở đây là tài sáng tạo ra cái đẹp. “Bệnh Đan Thiềm”, theo quan niệm của Nguyễn Huy Tưởng, chính là “bệnh” mê đắm tài hoa siêu việt của người sáng tạo nghệ thuật, sáng tạo ra cái đẹp. Vì có tấm lòng liên tài nên lúc Vũ Như Tô mới bị bắt, ông nhờ Đan Thiềm “mách đường chạy trốn”, nàng đã khuyên ông ở lại, thuyết phục ông nhân cơ hội này, mượn uy quyền và tiền bạc của Lê Tương Dực để thực hiện dược hoài bão xây dựng cho đất nước một công trình nghệ thuật đồ sộ, Vĩnh cửu. Vì đam mê tài năng mà nàng luôn khích lệ Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài, sẵn sàng quên mình để bảo vệ cái tài ấy. Với nét tính cách ấy, Đan Thiềm xứng đáng là tri âm, tri kỉ của Vũ Như Tô.

Nhưng nếu Vũ Như Tô đam mê sáng tạo đến mức không hề chú ý, không hề biết đến hoàn cảnh vây quanh mình, thì Đan Thiềm lại luôn tỉnh táo, sáng suốt trong mọi trường hợp. Biết chắc ước vọng xây đài lớn không thành, tâm trí nàng giờ đây chỉ còn tập trung vào việc bảo vệ an toàn tính mệnh cho Vũ Như Tô. Đan Thiềm khẩn khoản khuyên Vũ Như Tô đi trốn, năm lần bảy lượt thúc giục ông “trốn đi”, “lánh đi”, “chạy đi”, chắp tay lạy, van xin: “ông nghe tôi! Ông phải trốn đi mới được !” Nhưng không sao làm cho ông tỉnh ngộ; Vũ Như Tô vẫn bướng bỉnh chống lại số phận. Đến khi quân nổi loạn kéo vào, gươm giáo sáng loè, biết Vũ Như Tô “có trốn cũng không được nữa” thì nàng đã khóc. Nàng nói với Ngô Hạch, sẵn sàng đổi mạng sống của mình để cứu Vũ Như Tô: “Tướng quân nghe tôi. Bao nhiêu tội tôi xin chịu hết. Nhưng xin tướng quân tha cho ông Cả. Ông ấy là một người tài.” Biết không sao cứu nổi Vũ Như Tô, Đan Thiềm đau đớn buông lời vĩnh biệt:

“Ông Cả! Đài lớn tan tành! Ông Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt !”.

Như vậy, diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô và Đan Thiềm trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài đã làm sâu sắc hơn tính cách bi kịch của mỗi nhân vật, đồng thời cũng góp phần làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.

3. Mâu thuẫn thứ nhất:

- Mâu thuẫn giữa nhân dân khốn khổ lầm than và bọn hôn quân bạo chúa cùng với phe cánh của chúng sống xa hoa trụy lạc đã được tác giả giải quyết dứt khoát theo quan điểm của nhân dân. Bạo chúa Lê Tương Dực bị giết, Nguyễn Vũ - đại thần của y - tự sát, đám cung nữ bị những kẻ nổi loạn nhục mạ, bắt bớ.

- Mâu thuẫn thứ hai: Mâu thuẫn giữa quan điểm nghệ thuật cao siêu, thuần tuý của muôn đời và lợi ích thiết thực của quần chúng nhân dân chưa được tác giả giải quyết dứt khoát. Điều đó được thể hiện ở chỗ Vũ Như Tô cho đến lúc chết vẫn không nhận ra sai lầm của mình, vẫn đinh ninh là mình vô tội. Vũ Như Tô không đứng về phía hôn quân Lê Tương Dực nhưng lại muốn mượn uy quyền, tiền bạc của hắn để thực hiện hoài bão nghệ thuật của mình, trong thực tế, đã vô tình gây thêm nỗi khốn khổ cho nhân dân. Vũ Như Tô có tội hay là có công? “Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải?” Đó là những câu hỏi đầy day dứt mà chính tác giả cũng không thể giải quyết một cách rạch ròi, dứt khoát. Tác giả đã trực tiếp bày tỏ nỗi băn khoăn của mình qua lời đề từ: “Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc?”, “Than ôi! Như Tô phải hay những kế giết Như Tô phải? Ta không biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”. Cách nêu vấn đề của tác giả như vậy là hợp lí. Bởi lẽ, chân lí chỉ thuộc về Vũ Như Tô một nửa, còn nửa kia lại thuộc về quần chúng nhân dân.

4. Sau đây là gợi ý những nét đặc sắc về nghệ thuật của vở kịch được thể hiện qua đoạn trích còn dẫn chứng các em tự trích.

- Mâu thuẫn kịch tập trung dẫn đến cao trào, phát triển thành đỉnh điểm với nhiều hành động kịch dồn dập đầy kịch tính. - Ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao.

- Xây dựng nhân vật kịch sắc nét, khắc họa rõ tính cách, miêu tả đúng tâm trạng qua ngôn ngữ và hành động đặc biệt là hai nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm.

- Chín lớp kịch trong hồi V được chuyển một cách linh hoạt, tự nhiên, lôgíc, liên mạch tạo nên sự hấp dẫn và lôi cuốn người đọc.

LUYỆN TẬP

Đây là phần cuối của lời đề tựa vở kịch Vũ Như Tô do chính Nguyễn Huy Tưởng viết ngày 6 tháng 2 năm 1942, sau khoảng một năm viết xong tác phẩm.

Tựa là thành phần nằm ngoài văn bản của một tác phẩm, được viết ở đầu sách hoặc sau tiêu đề của mỗi chương trong cuốn sách nhằm hướng người đọc vào ý đồ nghệ thuật của tác giả hoặc tư tưởng của tác phẩm. Qua lời đề tựa trên, Nguyễn Huy Tưởng đã chân thành bộc lộ nỗi băn khoăn của mình: Lẽ phải thuộc về Vũ Như Tô hay những kẻ giết Vũ Như Tô ? Và ông thú nhận “ta chẳng biết” tức là không thể đưa ra một lời giải đáp thoả đáng. Qua vở kịch, có thể thấy chân lí không hoàn toàn thuộc về phía nào: việc mất Cửu Trùng Đài vừa nên mừng, vừa nên tiếc. Đồng thời, nhà văn khẳng định: “Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”, tức là vì cảm phục “tài trời”, nhạy cảm với bi kịch của những tài năng siêu việt.

Đánh giá bài viết
1 523
Sắp xếp theo

    Giải bài tập Ngữ văn 11

    Xem thêm