Giải bài tập Ngữ văn lớp 8 bài 28: Kiểm tra văn

Giải bài tập Ngữ văn bài 28: Kiểm tra văn

Giải bài tập Ngữ văn lớp 8 bài 28: Kiểm tra văn được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 8 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình. Mời các bạn cùng tham khảo

Kiểm tra văn - một số bài ôn tập

Nhớ rừng

Thế Lữ

... Thế Lữ đã kí thác vào hình tượng con hổ bị cầm tù trong cũi sắt giữa vườn bách thú vẫn ôm trong lòng “niềm uất hận ngàn thâu” vẫn “đương theo giấc mộng ngàn to lớn” – cái nỗi niềm của cả thế hệ mình, thời đại mình: Mối bất hoà với thực tại. Họ sống trên quê hương mà luôn cảm thấy thiếu quê hương, sống trong hiện tại mà chỉ muốn thoát li khỏi hiện tại. “Gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” mà đau đáu một nỗi nhớ rừng, tâm trạng của con hổ cũng chính là tâm trạng của họ, thực tại là cũi sắt, quá khứ là rừng già, mơ ước là rừng già. Mà con hổ ấy đã gọi thật trang trọng “nước non hùng vĩ!” Đối với Chúa Sơn Lâm rừng là tất cả, nhớ rừng là tiếc tự do. Nhớ rừng là nhớ tiếc thời oanh liệt... Tất cả xuất phát từ phản ứng dữ dội với thực tại cầm tù, trói buộc: Thực tại tầm thường giả dối, thực tại vô vị, vô tích sự... Toàn bộ cuộc đời của mình là ở nơi rừng...

... Ai chẳng có một thời oanh liệt của riêng mình! Nó là đoạn đời huy hoàng chói lọi, là quãng đời ý nghĩa nhất của cuộc đời mình! Vì thế bất cứ người nào trong cuộc đời này, nếu là người luôn khao khát sống thì rồi cũng sẽ có lúc ngấm nỗi sầu hận, sầu thất thế để rồi cất lên cái tiếng sầu than u uất kia của Chúa Sơn Lâm.

... Thi sĩ đã tạo ra sự tương phản nhất quán nhuần nhuyễn giữa cái phi thường và cái tầm thường. Chúa Sơn Lâm được đặt ở trung tâm bức tranh và tất cả đều được nhìn qua mắt của loài mãnh thú này, vì thế mà tất cả đều trở nên tầm thường. Đối diện với hổ, con người cũng chỉ là lũ người ngạo mạn, ngẩn ngơ với mắt lé, dám giễu oai linh rừng thẳm, bọn gấu thì dở hơi, cặp báo chỉ loại ươn hèn nô lệ, hời hợt vô tư lự.

Nào đâu những đêm màng bên bờ suối

Ta say mồi đứng ngắm ánh trăng tan?

Đâu những chiều mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội.

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt.

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

- Đây là đoạn tuyệt bút nhất của “Nhớ rừng”... Bốn bức tranh là nỗi hoài niệm tiếc nuối, uất hận, bốn câu hỏi mà giọng điệu ngày một tăng tiến dữ dội. Mà đáng kể nhất là bức tranh thứ nhất và bức thứ tư. Chữ “nào đâu...” là một lời than tiếc nuối ngậm ngùi, hợp với không khí thi vị của “những đêm màng bên bờ suối” và hợp với dáng điệu say mồi và vẫn rất hào hoa nghệ sĩ: “Ta say mồi đứng ngắm ánh trăng tan”. Đến chữ “đâu” giọng điệu khác hẳn. Không còn là than thở mà đã là lời chất vấn quá khứ, lời chất vấn dữ dội, oai linh.

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

Đây là hình ảnh oai hùng, lẫm liệt tạo nên dáng điệu hào hùng của bạo chúa. Mấy chữ “lênh láng máu” thật dễ sợ. Nó gợi ra cảnh chiến trường sau cuộc vật lộn tàn bạo đó là máu của mặt trời, ánh tà dương lúc hấp hối, qua cảm nhận của con mãnh thú... Trong vũ trụ này, chỉ có một kẻ duy nhất được Chúa Sơn lâm xem là kì phùng địch thủ: Vầng thái dương…

Sự phù hợp tuyệt vời giữa đối tượng mô tả và nghệ thuật mô tả đã chấp cánh cho thơ Thế Lữ bay lên dõng dạc, đường hoàng như một khúc tráng ca dữ dội.

(Giảng văn văn học Việt Nam – Chu Văn Sơn)

Về mặt hình thức cái mới trong bài thơ trước hết thể hiện qua thể thơ tự do, mỗi câu tám chữ, gieo vần liền, vần bằng, còn sử dụng cách ngắt nhịp linh hoạt khi ngắn, khi dài, khi nhanh, khi chậm, khi dàn trải, có hiện tượng vắt dòng giữa các dòng thơ. Ngôn ngữ thơ nhiều sáng tạo, phong phú, sinh động, giàu chất biểu cảm và trữ tình. Trong bài sử dụng rất nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc như so sánh, ẩn dụ, nhân hoá, hoán dụ, điệp ngữ, câu hỏi tu từ... Tất cả góp phần làm cho bài thơ vừa giàu tính nhạc vừa giàu tính hoạ. Bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn, mạch thơ cuồn cuộn, cảm xúc ào ạt tuôn trào dưới ngòi bút của nhà thơ.

(Theo Nguyễn Thị Mai Hoa, Đinh Chi Sáng - Sđd)

Ông đồ

Vũ Đình Liên

Có nhiều người không làm nhiều thơ nhưng lại có bài thơ để đời như Vũ Đình Liên với bài thơ Ông đồ.

... Bài thơ mở đầu bằng màu hoa đào. Câu thơ nở ra từ câu thơ của Thôi Hộ: “Đào hoa y cựu tiểu đồng phong”. Chính Vũ Đình Liên công nhận: “Trong máu mỗi nhà thơ Việt Nam, đặc biệt giai đoạn đó, đều có một chút thơ Đường”. Chính trong màu hoa đào mênh mông hoài cảm ấy, ông đồ già xuất hiện. Ta có thể tưởng tượng sự có mặt của cây cổ thụ ngàn năm bật gốc sau bão lớn. Cây đổ, ngọn gục từ trên chót vót thứ bậc xã hội, ông đồ, hình bóng tượng trưng cho giai cấp kẻ sĩ rơi xuống lề đường trở thành người vất vưởng hoài nhớ giá trị cũ suy tàn, bỡ ngỡ với phong vận mới. Chế độ khoa cử Hán học cáo chung sau 8 thế kỉ rưỡi ngự trị, học thuật thanh chương với thành trì nghiêng ngả. Chữ Hán phải nhường vị trí quốc tự cho một thứ chữ mới: Quốc ngữ. Những nhà Nho như ông đồ phải rời án thư ra tận hè phố kiếm sống. Ông kiếm sống còn khó khăn hơn những người khác, bởi họ làm ăn quanh năm còn ông chỉ những ngày giáp Tết. Chỉ những ngày đó nhớ bánh chưng xanh người ta nhớ luôn câu đối đỏ và nhờ ông viết chữ. May mà còn:

Bao nhiêu người thuê thiết

Tấm tắc ngợi khen tài

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay.

Họ nay đâu? Bánh chưng xanh còn đó, câu đối đỏ đi rồi! Nếp cũ đổi thay. Chữ Nho cũng trở thành món hàng ế không ai chuộng nữa. Trong xu thế chung không ai cưỡng lại ấy, tình cảnh ông đồ trở nên ngao ngán đáng thương. Nỗi sầu lo ủ dột lan thấm trên cả đồ vật “Giấy đỏ buồn không thắm - Mực đọng trong nghiên sầu” chính là hình ảnh của chủ nhân hết thời của chúng. Tàn tạ, lạc lõng, tiêu điều. Thiên hạ náo nức đón xuân, đón cả luồng gió mới Tây học mang lại... bỏ lại những người như ông đồ bên lề cuộc sống:

Ông đồ vẫn ngồi đây

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài giời mưa bụi bay.

Tôi cho đây là khổ thơ hay nhất trong bài thơ, ở đó cái lực của ngòi bút, cái tâm của con người hợp lại đủ sức lay động những trái tim thờ ơ, vô tình với một sự chung cục, một sự chung cục thầm lặng và thương tâm. Người trong cuộc bên phố đông lắng nghe mình lụi tàn. Người ngược xuôi như nước chẳng ai để ý đến cái bóng mờ nhạt, tàn tạ ấy. Ông đồ bị lãng quên ngay khi đang còn hiện hữu. Ông chẳng qua chỉ còn là “di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn”. Lá rơi không nghe tiếng, mưa bụi chẳng ướt ai. Thế mà nửa thế kỉ rồi đọc lại, tôi vẫn tái tê thấm thía nỗi đau lặng lẽ của chiếc lá vàng trên giấy thắm tàn phai. Thế mới biết sức sống của một bài thơ không phải chỉ ở ngôn từ, chính tấm lòng thương cảm tinh tế của tác giả đã làm ấm những dòng chữ lạnh với thời gian.

Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ.

Bài thơ mở ra màu hoa đào và khép lại cũng với màu hoa đào ấy... Nén hương đã thắp – Hoài niệm mênh mang. Ông đồ cụ thể lung linh thành những người muôn năm cũ. Đông, tây, kim, cổ đều gặp nhau ở một chữ HOÀI, thấm thía sầu nhân thế... Âm hưởng nốt nhạc cuối miên man day dứt, khiến người nghe cứ thẫn thờ. Thời của một đời rồi sẽ qua, ai cũng vậy. Nhưng quả không hẳn là mất tiêu vô nghĩa. Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và ngày mai cũng sẽ từ ngày hôm nay. Ông đồ đã trở về thế giới yên nghỉ của ông, về với thời xa vắng. Người xưa thành ông cha, cái cũ thành di tích. Nét đẹp và sức mạnh của phương Đông ở bên trong và từ thăm thẳm. Nói đến văn hoá không thể không nói đến cội nguồn, nói đến hôm nay không thể phủ nhận hôm qua. Ẩn khuất, biến thái, lan toả, ngàn xưa với người xưa vẫn là một mảng đậm đà trong hồn dân tộc.

(Hoàng Thị Thương - Tiếng nói tri âm)

Quê hương

Tế Hanh.

Nhà thơ Tế Hanh viết bài Quê hương khi ông mới 18 tuổi, cái tuổi đang độ hoa niên. Lúc này Tế Hanh đang theo học ở Huế. Lòng trai 18 tuổi xa nhà, nhớ nhà, nhớ quê, nhớ cái làng chài ven biển nơi chôn nhau cắt rốn của mình, thế là các câu thơ tưởng nhớ được viết ra một cách tự nhiên, dung dị, không cần phải có một cố gắng nào.

Mời các bạn tham khảo tài liệu liên quan

Giải bài tập Ngữ văn lớp 8 bài 27: Luyện tập đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận

Giải bài tập Ngữ văn lớp 8 bài 28: Lựa chọn từ ngữ trong câu

Giải bài tập Ngữ văn lớp 8 bài 28: Tìm hiểu các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn bản

Đánh giá bài viết
8 374
Sắp xếp theo

    Học tốt Ngữ Văn lớp 8

    Xem thêm