Trong truyện Lặng lẽ Sa Pa của nhà văn Nguyễn Thành Long, ngoài nhân vật chính – anh thanh niên, các nhân vật khác như ông già họa sĩ, cô kĩ sư, bác lái xe, không chỉ tham gia vào câu chuyện, làm rõ nét hơn cho nhân vật chính mà còn làm phong phú, sâu sắc hơn chủ đề của truyện. Trong số nhân vật phụ đó, đáng chú ý nhất là nhân vật ông họa sĩ già. Người kể chuyện trong tác phẩm hầu như nhập vai vào cái nhìn, suy nghĩ của ông họa sĩ để quan sát, miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính trong truyện.
Ngay từ phút giây đầu gặp anh thanh niên, cùng trước đó với những lời giới thiệu của bác lái xe làm nhà họa sĩ già xúc động mạnh về hình dáng một người con trai có tầm vóc nhỏ bé, nhưng nét mặt rạng rỡ. Những phút đầu gặp gỡ, bằng sự từng trải nghề nghiệp, niềm khao khát của người nghệ sĩ đi tìm đối tượng của nghệ thuật, khiến họa sĩ già xúc động và bối rối “bắt gặp một điều thực ra ông vẫn ao ước được biết. Một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới đủ là giá trị của một chuyến đi dài”
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa ca ngợi những người vô danh, với cuộc sống khiêm nhường, lặng lẽ cống hiến tuổi trẻ, năng lực cho đất nước. Nổi bật lên hình ảnh anh thanh niên làm công tác khí tượng, tự giác vượt khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ, sống đẹp, sống một cuộc đời có ý nghĩa
Chi tiết tạo ra chất trữ tình trong truyện
- Anh thanh niên có suy nghĩ, lối sống, hành động đẹp như thơ.
- Tâm hồn cô kỹ sư trẻ bừng dậy một tình cảm lớn lao đẹp đẽ khi gặp ánh sáng đẹp đẽ từ cuộc sống, tâm hồn anh thanh niên chiếu rọi
- Ông họa sĩ bừng lên khát khao sáng tác, trân trọng xúc động trước anh thanh niên.
- Tác dụng: Chất trữ tình tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt của tác phẩm làm cho truyện như một bài thơ. Tạo không khí thân tình cho tác phẩm nâng cao ý nghĩa và vẻ đẹp của sự vật, con người rất bình dị được miêu tả trong truyện, làm chủ đề tư tưởng của truyện được bộc lộ rõ nét và sâu sắc.
Nhân vật người họa sĩ
- Vừa là nhân vật trong truyện với là điểm nhìn trần thuật của tác giả để thể hiện những suy nghĩ, tình cảm của tác giả với anh thanh niên
- Là người luôn đi tìm đối tượng nghệ thuật ông đã xúc động, bối rối khi bắt gặp anh thanh niên. Ông muốn ghi lại đôi nét tinh thần về anh thanh niên
- Anh thanh niên đã khơi gợi cho người họa sĩ già những suy tư sâu sắc về nghề nghiệp, về sức mạnh và sự bất lực của nghệ thuật trước cuộc sống, về những khó khăn nhọc nhằn của người nghệ sĩ.
- Sapa không lặng lẽ bởi có biết bao nhiêu con người đang âm thầm say mê làm việc cống hiến cho đất nước.
Anh thanh niên trong truyện:
- Hoàn cảnh nhân vật xuất hiện: Tình huống cơ bản của truyện là cuộc gặp gỡ rồi lên thăm chốc lát nơi ở và làm việc của anh thanh niên với bác lái xe và hai hành khách trên xe. Anh thanh niên trong truyện được giới thiệu như là người cô độc nhất thế gian. Do mới lên nhận công tác, “thèm người quá” nên anh kiếm cớ để xe dừng lại. Anh xuất hiện khi thấy có xe chở khách đến.
- Quan hệ với các nhân vật khác:
◾ Anh là người mến khách (vui mừng, cảm động khi có khách đến thăm).
◾ Là người sống chu đáo, biết quan tâm đến mọi người (hái hoa tặng khách, chuẩn bị trứng luộc cho khách ăn trưa trên xe,...), ân cần, chu đáo với bác lái xe (gửi tam thất cho vợ bác).
◾ Là người say mê công việc, có tinh thần trách nhiệm cao: Công việc của anh hết sức vất vả “đo mưa, đo nắng, đo chấn động mặt đất”, phải lấy ốp vào lúc một giờ, bốn giờ sáng xung quanh tối mịt nhưng anh vẫn rất nghiêm túc, đúng giờ. Hiệu quả làm việc rất cao, anh đã góp phần phát hiện ra đám mây khô giúp không quân ta bắn rơi máy bay Mĩ.
◾ Là người có nếp sống khoa học, ngăn nắp: căn phòng làm việc của anh sắp đặt rất gọn gàng đâu vào đấy, đặc biệt là một giá sách và một quyển sách đang đọc dở ở trên bàn chứng tỏ tinh thần học hỏi không ngừng.
◾ Là người có tâm hồn cao đẹp: ở một mình song anh vẫn trồng hoa thược dược, lay ơn đủ màu, vườn hoa ấy tươi đẹp như tâm hồn anh vậy.
◾ Là người khiêm tốn, giản dị: anh nói rất ít về mình, để dành thời gian nói chuyện với mọi người, từ chối khi ông họa sĩ có ý định vẽ về anh, anh cho rằng có người khác còn xứng đáng hơn anh.
Tham khảo thêm: Phân tích nhân vật anh thanh niên
Nhận xét về cốt truyện và tình huống cơ bản của truyện:
- Truyện Lặng lẽ Sa Pa có cốt truyện rất đơn giản, xoay quanh một tình huống gặp gỡ bất ngờ của mấy người khách trên chuyến xe lên Sa Pa (ông hoạ sĩ già, cô kĩ sư trẻ) với anh thanh niên làm công tác khí tượng ở trên đỉnh Yên Sơn thuộc Sa Pa. Với tình huống ấy, nhân vật chính hiện ra qua cái nhìn và ấn tượng của các nhân vật khác, đặc biệt là của ông hoạ sĩ. Cách trần thuật như vậy có tác dụng khắc hoạ nhân vật chính một cách khách quan, góp phần thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
- Theo lời tác giả, truyện ngắn này là “một bức chân dung”. Đó là chân dung nhân vật anh thanh niên. Nhân vật được hiện lên ở một số nét đẹp nhưng chưa được xây dựng thành một tính cách hoàn chỉnh và hầu như chưa có cá tính. Nhân vật anh thanh niên hiện ra qua cái nhìn và ấn tượng của các nhân vật như ông hoạ sĩ, cô kĩ sư và bác lái xe.
– Tôi vốn là con nhà hào phú, đến tuổi trưởng thành, tôi xin mẹ mang trăm lạng vàng hỏi Vũ Nương về làm vợ. Nàng là con nhà nghèo khó nhưng xinh đẹp thùy mị nết na nhất vùng.
– Năm ấy có giặc Chiêm xâm lấn bờ cõi nên tôi bị xung vào đội quân của triều đình đi dẹp giặc trong khi vợ lại mang thai sắp đến kỳ sinh nở.
– Tôi đi khoảng mươi ngày thì Vũ Nương sinh con đặt tên là Đản. Mẹ tôi già yếu, lại vì lo lắng thương nhớ tôi, sinh ra ốm đau. Vũ Nương thay tôi chăm sóc chu đáo nhưng bà vẫn không qua khỏi. Nàng lo ma chay chu đáo.
– Năm sau giặc tan, trở về nhà không còn mẹ, lòng tôi đau xót vô cùng. Bế con ra thăm mộ mẹ thằng bé quấy khóc, tôi phải dỗ dành. Một tối, tôi nghe con nói có người đàn ông đêm nào cũng đến.
– Cơn ghen bừng bừng, tôi tức tối mắng chửi mặc cho Vũ Nương hết lời thanh minh.
– Vũ Nương gieo mình xuống bến Hoàng Giang tự tử. Dù giận nàng, tôi vẫn tìm cách cứu thây nàng nhưng tìm khắp nơi không thấy.
– Đêm ấy, Đản chỉ vào cái bóng trên vách và bảo đó là bố nó. Tôi mới đau xót thấu hiểu nỗi oan của vợ, điều này làm tôi ân hận vô cùng.
Tham khảo thêm: Đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương
a. Mở bài:
– Chuyện đã xảy ra từ lâu nhưng mỗi lần nghĩ lại mình thấy rất xấu hổ.
– Muốn kể lại cho các bạn nghe để lòng nhẹ nhõm.
b. Thân bài:
– Giờ kiểm tra Sinh mình không làm được bài, nhìn sang thấy bạn đang chăm chú viết liền hỏi. Bạn không trả lời.
– Mình loay hoay định giơ vở thì cô giáo nhắc nên không làm được.
– Cuối giờ, thu bài vì ngồi ở đầu bàn nên khi thu bài của bạn lại giả vờ để quên không nộp cho cô.
– Giờ ra chơi mình tuồn bài đó vào ngăn bàn của bạn.
– Vào tiết học mới, bạn thấy bài của mình chưa nộp để dưới ngăn bàn thì hoảng sợ tưởng là quên.
– Bạn đi tìm gặp cô xin nộp, có không tin là bạn quên mà cho là bạn có tình nộp sau để bổ sung cho đầy đủ.
– Cô, phê bình bạn.
– Mãi về sau, bạn vẫn không biết vì sao bài kiểm tra của mình lại ở ngăn bàn. Bạn vẫn rất tốt, không hề nghi ngờ gì mình cả.
c. Kết bài
– Bạn đã chuyển trường theo gia đình.
– Khi chia tay mình không dám nói. Mình nghĩ nhiều về điều đó và cảm thấy xấu hổ, ân hận.
Chiều hôm ấy đi học về, lòng tôi man mác buồn vì một người bạn mới chuyển đi. Về nhà tôi chẳng thiết ăn uống, cứ thế nằm vật ra giường. Mẹ gọi xuống ăn cơm, tôi cũng chỉ nói vọng xuống nhà:
- Con hơn mệt nên không muốn ăn. Bố mẹ cứ ăn trước ạ.
Tôi cứ thế vùi mình vào trong chăn và trách Hoa, sao lại đi mà chẳng báo trước. Cậu thật vô tâm, thật ích kỉ, giá nói trước với tớ, tớ đã không buồn đến mức này. Nghĩ đến đó tôi lại khóc nức nở, rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Sáng hôm sau, ngủ dậy tôi bỗng thấy một lá thư đặt ngay bên cạnh mình, tôi nhìn nét chữ và nhận ra ngay:
- Trời ơi, là thư của Hoa!
Từng dòng chữ Hoa viết khiến cho tôi hiểu hơn quyết định chuyển trường của bạn và cả lí do bạn không nói với tôi. Tôi không còn trách Hoa nữa. Bạn ấy mãi mãi là người mà tôi yêu quý.
- Lời nói ngập ngừng của bà Hai khi định nói cho chồng biết tin làng mình làm Việt gian (“Tôi thấy người ta đồn...) đã thể hiện được sự lo lắng và cũng sợ bà chủ nhà nghe thấy tin này.
- Ông Hai không muốn đáp lại và khi đáp lại thì cụt lủn, cáu gắt thể hiện tâm trang chán chường, đau khổ, thất vọng của ông khi nghe tin làng mình theo Tây.
– Trong đoạn trích bài thơ Mẹ Suốt của Tố Hữu có những từ địa phương sau: chi, rứa, nờ, tui, cớ, răng, ưng, mụ.
– Những từ ngữ này theo phương ngữ miền Trung, được dùng phổ biến ở các tỉnh Bắc Trung Bộ như Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế.
– Tác dụng: từ ngừ địa phương góp phần thể hiện chân thực hơn hình ảnh của một vùng quê và tình cảm, suy nghĩ, tính cách của một người mẹ trên vùng quê ấy; làm tăng sự sống động, gợi cảm của tác phẩm.