Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương theo ngôi thứ nhất

Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương theo ngôi thứ nhất được VnDoc tổng hợp và đăng tải. Tài liệu gồm dàn ý và các bài văn mẫu hay lớp 9 cho các em tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng hoàn thành bài văn hay. Mời các bạn tham khảo.

1. Dàn ý Kể chuyện người con gái Nam Xương theo ngôi thứ nhất

Dàn ý Kể chuyện người con gái Nam Xương theo ngôi thứ nhất mẫu 1

1. MỞ BÀI

Giới thiệu về nhân vật tôi: Vũ Nương(xuất thân, gia cảnh)

2. THÂN BÀI

  • Kể những ngày mới gả cho Trương Sinh
  • Kể ngày chồng ra chiến trận và nỗi buồn khôn tả
  • Kể những ngày chồng đi vắng, mẹ đau yếu rồi mất, sinh đứa con đầu lòng.
  • Kể nỗi oan không rõ đầu đuôi mà mình phải gánh chịu cùng sự đau khổ
  • Kể tâm trạng khi trẫm mình vì không giải được oan
  • Kể chuyện gặp được Phan Lang và nỗi nhớ nhung quê nhà

3. KẾT BÀI

Kể chuyện bản thân trở về trong ngày lập đàn nhưng lại tan đi theo mây khói.

Dàn ý Kể chuyện người con gái Nam Xương theo ngôi thứ nhất mẫu 2

I. Mở bài

  • Trương Sinh giới thiệu về bản thân mình (tên, gia cảnh, tính cách)
  • Trương Sinh dẫn dắt vào câu chuyện (Có một câu chuyện làm tôi ân hận suốt đời, dù có chết tôi cũng không tha thứ cho bản thân).

II. Thân bài

1. Quá trình kết hôn và chung sống với Vũ Nương

  • Vợ tôi là Vũ Nương, xinh đẹp, đảm đang, khéo léo
  • Chúng tôi chung sống với nhau rất hòa thuận, hạnh phúc, háo hức chờ đón đứa con đầu lòng.
  • Đang trong thời gian mặn nồng, hạnh phúc, chiến tranh phi nghĩa xảy đến, tôi phải từ biệt mẹ già, vợ trẻ để đi chiến đấu.
  • Chia tay vợ trong niềm lưu luyến, nhớ thương. Tôi xúc động nhất khoảnh khắc vợ rót chén rượu đưa tiễn tôi và nói nàng không cần vinh hoa phú quý, chỉ cần tôi được bình yên.

2. Thời gian xa nhà (Được nghe những người hàng xóm kể lại)

  • Tôi đi được một tuần thì vợ sinh con trai đặt tên là Đản
  • Mẹ tôi ở nhà vì quá thương nhớ tôi nên sinh bệnh
  • Vợ tôi ở nhà chăm nom mẹ tôi ân cần, chu đáo, ai ai cũng phải công nhận sự hiền thảo đó
  • Khi mẹ mất, vợ tôi khóc thương và lo liệu cho mẹ tôi được mồ yên mả đẹp.
  • Tôi thầm tự hào và biết ơn vợ, tự nhủ với lòng sẽ yêu thương và trân trọng nàng suốt đời

3. Trương Sinh trở về và nghi oan cho vợ.

  • Ba năm sau tôi trở về, trước sự ra đi của mẹ tôi đau đớn, xót xa vô cùng.
  • Tôi định bế con trai ra mộ để cùng thắp nén hương cho mẹ, nhưng nó khóc lóc, không chịu nhận tôi, nói cha nó chỉ nín thin thít, đêm nào cũng đến
  • Tính tôi đa nghi lại vội vàng nên vô cùng giận giữ, không để cho vợ thanh minh mà ngay lập tức đuổi đi.

4. Vũ Nương thanh minh, được giải oan và sự hối hận của chàng Trương.

  • Trước cơn thịnh nộ của tôi, Vũ Nương hết lời giải thích, thanh minh, nàng hỏi tôi chuyện kia nhưng tôi cố tình không nói, tôi vẫn mắng nhiếc thậm tệ và đuổi đi mặc cho hàng xóm can ngăn
  • Sau đó, vợ tôi tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang tự tử để chứng minh lòng thành. Dù vẫn còn rất giận nhưng biết tin nàng tự tử tôi cũng động lòng thương, vớt xác lên nhưng không thấy.
  • Một đêm, nằm cùng bé Đản, bé chỉ tay lên chiếc bóng trên vách tường và nói đó là cha mình. Tôi bàng hoàng nhận ra nỗi oan tày đình của vợ. Tôi đau đớn, dằn vặt tự trách mình.
  • Cạnh bến sông có người tên Phan Lang, vì được Linh phi dưới thủy cung đền ơn cứu mạng nên đã được cứu vớt trong một lần chạy giặc Minh.
  • Ở dưới thủy cung, ông ta gặp lại vợ tôi. Nàng đã nhờ Phan Lang chuyển lời và chuyển kỉ vật đến tôi. Ban đầu không tin nhưng khi nhìn thấy vật cũ của vợ mới hốt hoảng tin theo.
  • Hôm sau, tôi nghe theo lời dặn, lập đàn giải oan cho vợ, Vũ Nương hiện về đẹp lung linh. Tôi xúc động, nghẹn ngào gọi vợ, nàng chỉ thấp thoáng giữa nói vọng vào lời từ biệt tôi.
  • Tôi đau đớn, ân hận, giày vò, vì những cơn ghen mù quáng của mình.

III. Kết bài

  • Trương Sinh tự rút ra cho mình bài học: Vợ chồng phải biết yêu thương tôn trọng và đặt niềm tin ở nhau mới có hạnh phúc bền lâu
  • Trương Sinh tự hứa với lòng sẽ ở vậy, chăm con thật tốt, bù đắp sai lầm.

2. Văn mẫu Kể chuyện người con gái Nam Xương theo ngôi thứ nhất

Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương theo ngôi thứ nhất mẫu 1

Tôi tên thật là Vũ Thị Thiết, quê nhà ở Nam Xương. Tôi trở thành tiên nữ của thủy cung Hoàng Giang đã ba năm nay, ba năm- một khoảng thời gian tuy không ngắn nhưng chưa đủ để cho tôi quên đi hết thảy mọi chuyện trần thế. Lâu nay, tôi vẫn giấu kín trong lòng những tâm sự thầm kín mà chưa thể nói ra, hôm nay, tôi muốn kể câu chuyện của cuộc đời tôi cho vơi đi nỗi nhớ quê nhà.

Năm ấy, khi tôi đến tuổi cập kê, trong làng có chàng Trương Sinh xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới tôi về. Cha mẹ tôi thấy chàng là con nhà hào phú, cũng ưng thuận gả tôi về làm dâu nà chàng. Song chàng có tính hay ghen, đối với tôi luôn có sự phòng ngừa quá mức. Vì đã được cha mẹ bảo ban rất ân cần, tôi cũng biết giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì nhà nước có việc đi đánh Chiêm Thành, bắt nhiều lính tráng. Phu quân tuy con nhà dòng, nhưng kém học vấn, tên đã ghi trong sổ khai tráng phải ra sung binh loạt đầu. Lúc chàng ra đi, mẹ chồng có dặn rằng:
- Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh, đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.

Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Trong hoàn cảnh ấy, ruột tôi đau như cắt, chỉ biết rót chén rượu đầy tiễn chồng mà rằng:
- Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An, nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về.
Vừa nói, những dòng lệ của tôi không tài nào ngưng rơi lã chã. Khi ấy, tôi vừa lo cho chồng, lại tủi phận mình đang bụng mang dạ chửa đã đến tháng thứ chín.Sau khi tương biệt được mươi ngày thì tôi trở dạ, sinh một đứa con trai, đặt tên là Đản.
Ngày qua tháng lại, mới vậy mà thoắt đã nửa năm. Mỗi khi thấy bướm bay vườn thúy, mây ám non Tần, nỗi buồn hải gốc thiên nhai, lại không thể nào ngăn được. Mẹ chồng tôi cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm. Tôi chăm lo mẹ chồng như đối với mẹ đẻ của mình, thuốc thang, cầu cúng không thiếu sót. Song bệnh thế mỗi ngày một trầm trọng hơn, một ngày kia, như đoán biết được số phận mình, mẹ nắm lấy tay tôi mà rằng:

- Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.

Khi nói xong câu ấy, mẹ tôi cũng lìa cõi đời. Khi ấy tôi thương xót mẹ biết bao cứ ngỡ đó là mẹ ruột chứ chả phải mẹ chồng của mình, nên phàm việc ma chay tế lễ tôi cố gắng chu toàn, lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra.

Qua sang năm sau, tình hình biên ải có chút dịu nhẹ. Phu quân từ biên ải trở về, khi nghe tin ấy, tôi còn đang ở ngoài chợ, biết tin tôi liền bỏ hết mọi công việc, chạy về ngay nhà với lòng vui sướng không nguôi, xa cách bao năm, cuối cùng đã đến ngày đàn tụ. Vậy là từ nay, mọi vất vả khổ cực đã qua, gia đình tôi sẽ hạnh phúc lắm. Nhưng thật trớ trêu thay, vừa về đến nhà, tôi còn chưa kịp tỏ hết sự vui mừng đã nghe từ phu quân những lời lẽ oan uổng, chàng rằng tôi ở nhà có người đàn ông khác, là người vợ lăng loàng không giữ phụ đạo. Khi ấy, tôi nghĩ rằng chàng về được tin mẹ mất nên còn đang buồn lòng, tôi lại gần an ủi, chàng liền hất tôi ngã ra đất và xé tờ hôn thú. Tôi vẫn chưa biết nguyên do vì sao chàng lại không tin vào đức hạnh của tôi, liền than khóc gãi bày van xin nhưng chàng đến một cơ hội giải thích cũng không cho tôi, nhất định đánh đuổi tôi ra khỏi nhà, bao nhiêu bà con làng xóm đứng ra làm chứng cho sự trong sạch của tôi cũng vô tác dụng. Biết mọi chuyện đã không thể nào cứu vãn, tôi chỉ còn biết khóc với chồng những lời gan ruột:

- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Nói xong những lời ấy, tôi đau lòng khôn xiết mà chạy ra bến Hoàng Giang khóc tủi phận mình. Rốt cuộc, tôi đã làm những điều sai trái gì để bản thân lâm vào cảnh ngộ như vậy, đến người chồng đầu ấp tay gối cũng không tin vào mình. Mấy năm qua, tôi chịu khổ cực không một lời than vãn, chỉ nghĩ đến ngày chàng trở về gia đình đoàn tụ, ai ngờ ngày chàng về là ngày tôi phải đi. Bây giờ thân tôi mang tiếng phụ chồng, là người vợ không ra gì, tuy sự thực oan trái nhưng có ai tin tôi? Nhà hiện tôi không thể về, về với cha mẹ bây giờ thì lại làm khổ cha, khổ mẹ, đã không còn biết về đâu trong nỗi oan khó giải ấy nữa thì “thà chết vinh còn hơn sống nhục”. Đoạn rồi tôi tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang thác mình.

Nhưng có lẽ, ông trời có mắt, biết tôi oan khuất nên không nỡ để cho linh hồn tôi phải vất vưởng nơi âm tài địa phủ mà để cho Linh Phi ở sống thu nhận tôi làm cung nữ cho cung của Người. Tôi tiếp tục sống dưới thân phận ấy cho đến một ngày gặp được Phan Lang, là người cùng làng với tôi xưa kia, thì ra Phan là ân nhân của Linh Phi, thấy Phan có vẻ nhận ra mình, tôi liền lại gần để Phan biết mình chính là Vũ Nương. Nghe Phan kể lại cảnh quê nhà, gia đình mà lòng tôi như thắt lại. Bao lâu nay, tuy sống ở nơi phong thủy hữu tình, mọi người lại nhân hậu, trong một cuộc sống mơ ước nhưng lòng tôi có khi nào nguôi nhớ quê cha đất tổ, nhớ chồng nhớ con, nay nghe tin lại càng mong ngày gặp. Tôi bèn đưa chàng Phan một chiếc hoa vàng nhờ gửi hộ cho phu quân mình để được giãi bày nhưng trăn tối cuối cùng.

Vài ngày sau, phu quân đã lập một đàn ba ngày ba đêm ở bến Hoàng Giang nơi tôi thác xuống. Nhưng tôi đã trở thành bóng hồn từ lâu, làm sao có thể trở về như trước, nhìn chồng con đứng trên bờ mà chỉ có thể ngậm ngùi trăn trối:

- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa.

Rồi trong chốc lát, biết không thể ở lại lâu, tôi tan biến đi theo làn sương mờ.

Cho đến bây giờ, tuy lòng đã có chút an nhiên trong cảnh bồng lai nhưng đó mãi là câu chuyện buồn của đời tôi. Nhưng tôi đã không còn trách phu quân mình mà chỉ trách xã hội phong kiến hủ tục, bất công cùng chiến tranh tàn nhẫn phi nghĩa. Trong một xã hội như vậy, đã có biết bao người phụ nữ như tôi phải chịu khổ cực, chỉ khi xã hội thay đổi, những người phụ nữ như chúng tôi mới có được hạnh phúc chân chính.

Kể chuyện người con gái Nam Xương theo ngôi thứ nhất mẫu 2

Tôi tên là Trương Sinh hôm nay tôi xin kể lại câu chuyện của gia đình tôi để các bạn có thể lấy chuyện của tôi ra làm tấm gương mà biết cách giữ gìn hạnh phúc gia đình mình đừng để tới khi gia đình tan nát mới cảm thấy hối hận như tôi.

Năm tôi tròn 20 tuổi mẹ tôi có nhờ người mai mối và đem sính lễ hỏi cưới cho tôi một người con gái cùng làng nàng tên là Vũ Thị Thiết. Nàng năm ấy vừa tròn đôi chín, dáng người đoan trang hiền thục, mặt mũi ưa nhìn, tính tình đức hạnh… Khi mẹ hỏi cưới nàng cho tôi tôi mừng lắm vì lấy được người vợ vừa xinh đẹp lại hiền ngoan. Chúng tôi sống với nhau hạnh phúc được một thời gian ngắn, khi Vũ Nương vợ tôi mang thai đứa con đầu lòng thì cũng là lúc tôi phải theo lời kêu gọi của triều đình lên đường đi đánh trận. Ngày chia tay tôi nàng chỉ sụt sùi khóc động viên tôi giữ gìn sức khỏe trở về bình yên để gia đình được đoàn tụ bên nhau. Cha được gần con và vợ được gần chồng.

Chiến tranh giặc giã liên miên nhiều năm liền rồi cũng tan. Tôi được trở về quê nhà nên mừng vui lắm. Nhưng vừa về tới nhà tôi liền nghe tin dữ rằng mẹ tôi vì nhớ thương tôi mà đau bệnh qua đời cách đây mấy năm. Tôi buồn lắm bồng đứa con trai của mình đi thăm mộ bà nội nó, nhưng con trai tôi nhất định không chịu theo tôi. Nó bảo tôi không phải là ba nó, ba của nó đêm nào cũng tôi. Khi nghe con trẻ nói vậy tôi bực mình lắm, máu ghen trong người tôi sôi lên sùng sục. Vợ tôi thì nổi tiếng xinh đẹp nên việc nàng có người để ý chẳng phải chuyện khó khăn gì, nên tôi ngay lập tức tin lời con trai về nhà đuổi vợ ra khỏi nhà. Tôi còn nặng lời sỉ nhục nàng ấy khiến nàng ấy chạy ra khỏi nhà và đi đâu tôi không biết.

Chỉ cho tới khi tôi nghe có người trong làng hớt hải chạy về báo với tôi rằng “Trương Sinh ơi! Tôi thấy vợ cậu Vũ Nương nàng ấy nhảy xuống sông tự vẫn rồi” người hàng xóm đó còn kể cho tôi nghe những gì mà vợ tôi đã làm cho mẹ tôi khi bà đau ốm, mà tôi thì vắng mặt không có ở nhà. Người đó nói rằng tôi là người có phúc lắm mới lấy được Vũ Nương làm vợ, nhưng tôi không biết trân trọng vợ của mình. Khi nghe những lời đó tôi thấy hối hận lắm, cảm thấy bàng hoàng trước hành động quyết liệt của vợ mình. Tôi không thể ngờ được Vũ Nương nàng ấy lại phản ứng mạnh mẽ tới như vậy. Trong lúc nóng giận tôi đuổi nàng ấy đi nàng ấy chỉ việc về nhà mẹ đẻ chờ tôi nguôi giận tìm hiểu ngọn ngành rồi đón nàng ấy về nhà. Vậy mà nàng ấy lại chọn cái chết để chứng minh nỗi oan khuất của mình. Tôi đau xót lắm.

Buổi tối nhiều đêm tôi không thể nào chợp mắt được con thơ đòi mẹ, hình ảnh vợ tôi cứ hiện về ám ảnh tâm trí của tôi. Tôi ngồi trước chiếc đèn soi bóng mình trên vách, thì đúng lúc đó con tôi tỉnh giấc nó vui vẻ bảo tôi “ba tôi đó” đến lúc này tôi mới hiểu ra người ba đêm nào cũng tới của con trai tôi chính là chiếc bóng của mẹ nó mà thôi. Tôi ôm mặt khóc rưng rức nhưng đã quá muộn rồi vợ tôi đã chết không sống lại được nữa.

Trong làng tôi đang sống có người đàn ông làm nghề kéo lưới tên Phan Lang ông ta rơi xuống sông không chết, sau khi tỉnh lại ông ta đến nhà gặp tôi bảo rằng ông ấy gặp vợ tôi ở dưới thủy cung. Vợ tôi Vũ Nương mong tôi lập đàn giải oan cho nàng ấy siêu thoát. Tôi nghe theo lời căn dặn của vợ lập đàn giải oan cho vợ của mình, trong làn sương mờ ảo hư thực tôi thấy vợ tôi Vũ Nương ngồi trên kiệu hoa võng lọng bay lên trời không về với tôi và con trai nữa.

Hôm nay, tôi kể câu chuyện của mình mong các bạn hãy biết trân trọng tình cảm gia đình của mình, đã lấy nhau thì nên tin tưởng vào nhau đừng ghen tuông nghi kỵ để rồi ân hận như tôi suốt đời.

Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương theo ngôi thứ nhất mẫu 3

Trời mới tang tảng sáng. Đằng Đông, những đám mây màu xám đục đang chuyển dần sang sắc hổng phơn phớt. Cái lạnh của đêm thu đọng trong từng giọt sương bám đầy trên lá khiến tôi – một cây lau nhỏ – uốn mình run rẩy. Dòng Hoàng Giang ngái ngủ vẫn chậm chạp trôi xuôi. Không gian vắng lặng. Từ trong làng, thỉnh thoảng vọng ra tiếng gà gáy sớm.

Bỗng nhiên, tôi nghe thấy có tiếng khóc tức tưởi đứt quãng văng vẳng đâu đây. Một bóng người đang tiến đến gần bụi lau mọc sát bờ sông. Gương mặt người ấy rõ dần. Tôi nhận ra đó là Vũ Nương, vì nàng thường ra sông giặt giũ vào mỗi sớm mai. Mọi khi, đứa con trai nhỏ vẫn hay lẽo đẽo theo sau mẹ, nhưng sao hôm nay nàng đi có một mình và lại khóc lóc sầu não thế kia?

Vũ Nương ngồi thụp xuống vạt cỏ ướt, gục mặt vào hai bàn tay. Đôi vai gầy của nàng cứ rung lên từng đợt, nom tội nghiệp vô cùng! Bỗng nàng vụt đứng dậy, ngoảnh mặt về phía Đông mà than rằng:

Cầu xin trời cao đất dày hãy làm chứng cho tấm lòng son sắt thủy chung của Vũ Nương này! Suốt mấy năm chồng xa nhà ra trận, tôi luôn một dạ chờ chồng, giữ gìn tiết hạnh, nào dám đơn sai. Gánh nặng mẹ già, con dại, tôi cố gắng lo cho vẹn toàn, chu tất. Những mong hết chiến tranh, vợ chổng, cha con sum họp cho thỏa nỗi ngày trông, đêm nhớ. Nào ngờ, chỉ vì câu nói để dỗ dành đứa con thơ những lúc chỉ bóng mình in trên vách giữa đêm khuya, dưới ánh đèn hiu hắt: “Cha Đản về kìa!” mà ra nông nỗi. Trương Sinh chồng tôi vốn tính đa nghi. Tôi thanh minh, thề thốt thế nào cũng không tin, khăng khăng buộc tội tôi ăn ở hai lòng. Xét thấy mình sống trọn đạo dâu con, chồng vợ, chẳng làm điều gì khiến tổ tông, cha mẹ hổ nhục, nay chỉ biết lấy cái chết để giải nỗi oan khiên. Trước khi chết, tôi xin có một lời nguyền: “Nếu tôi đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và chịu cho mọi người phỉ nhổ”.

Nói đoạn, nàng leo lên mỏm đất nhô ra sông, gieo mình xuống nước. Trời đất, thần thánh chứng giám lòng thành của Vũ Nương nên sai các nàng Tiên đưa nàng về thủy cung chung sống với Linh Phi.

chuyện người con gái nam xương

Ít ngày sau, cũng chính đứa con chỉ bóng Trương Sinh in trên vách buồng lúc đêm khuya mà nói: “Cha Đản lại về kìa!”. Hiểu ra, Trương Sinh vật vã khóc than, ân hận nhưng đã quá muộn mảng.

Hồn Vũ Nương hiện về báo mộng cho Trương Sinh là chiều tối ngày mai hãy bế con ra bến Hoàng Giang để gặp nàng. Theo lời vợ dặn, Trương Sinh lập đàn tế vợ ở ven sông. Lát sau, chàng thấy một đoàn ngựa xe, võng lọng ẩn hiện thấp thoáng giữa dòng. Vũ Nương nói vọng vào những lời thương nhớ và căn dặn chồng săn sóc chu đáo đứa con thơ. Thoáng chốc, tất cả mờ dần rồi tan biến hẳn. Trương Sinh bồng con đứng chết lặng như hóa đá. Cơn ghen tuông vô lối của chàng đã gây ra cảnh sinh li tử biệt. Dù chàng có tự trách mình đến đâu chăng nữa thì người vợ xinh đẹp, nết na cũng không thề trở về. Cảm thương Vũ Nương, dân làng đã lập miếu thờ nàng ngay cạnh khóm lau, chỗ nàng ngồi than thở trước khi trầm mình xuống Hoàng Giang.

.............................

Ngoài bài văn mẫu Kể lại câu chuyện: Chuyện người con gái Nam Xương theo ngôi thứ nhất, mời các bạn tham khảo thêm Soạn văn 9 trên VnDoc để có sự chuẩn bị bài kỹ lưỡng trước khi đến lớp.

Đánh giá bài viết
15 17.703
Sắp xếp theo

    Văn mẫu lớp 9

    Xem thêm