Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Lập dàn ý bài "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão là sự thể hiện vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại

Những bài văn mẫu hay lớp 10

Văn mẫu 10: Lập dàn ý bài "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão là sự thể hiện vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại là tài liệu văn mẫu lớp 10 hay được Thư viện văn mẫu 10 VnDoc sưu tầm và đăng tải, hi vọng sẽ giúp quý thầy cô và các em có thêm nhiều tài liệu tham khảo bổ ích để hoàn thành bài tập làm văn.

Lập dàn ý bài "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão là sự thể hiện vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại mẫu 1

1. Mở bài:

– Phạm Ngũ Lão được xem là người anh hùng xuất thân ở tầng lớp bình dân, ngồi đan sọt mà lo việc nước. Ông là một nhân vật lịch sử từng có công lớn trong kháng chiến chống quân Nguyên- Mông, giữ địa vị cao ở đời Trần.

– Phạm Ngũ Lão là người văn võ toàn tài. Văn thơ của ông để lại không nhiều, nhưng giá trị của những bài thơ còn sót lại thì vẫn vẹn nguyên nhưng “Thuật hoài” là bài thơ nổi tiếng hừng hực hào khí Đông A của lịch sử giai đoạn thế kỷ X đến XV và cho đến ngày nay thì dường như âm hưởng của tinh thần Đông A vẫn không hề bị mất đi.

2. Thân bài:

2.1. Hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm

Theo Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép lại thì năm 1282 quân Nguyên đòi mượn đường đánh Chiêm Thành, nhưng thực ra định xâm lược nước ta. Trước tình hình ấy,vua Trần đã mở hội nghị Bình Than bàn kế hoạch đánh giặc. Phạm Ngũ Lão và một số vị tướng được cử lên biên ải phía Bắc để trấn giữ đất nước. Hoàn cảnh lịch sử chắc chắn đã ảnh hưởng nhiều đến hào khí Đông A trong bài thơ.

2.2. Tựa đề:

– “Thuật” có nghĩa là bày tỏ, “hoài” là mang trong lòng. “Thuật hoài” nghĩa là bày tỏ khát vọng cũng như những nguyện vọng, hoài bão. Có thể nói đây là đề tài quen thuộc trong thơ cổ. Điều đáng chú ý của bài thơ này ở chỗ người tỏ lòng là một vị tướng đang giữ trọng trách nặng nề nơi biên ải xa

2.3. Hai câu đầu:

– Câu 1: Khắc hoạ hình ảnh người tráng sĩ qua tư thế và hành động. “Hoành sóc” nghĩa là cầm ngang ngọn giáo. Người cầm giáo đã mấy thu sẵn sàng bảo vệ non sông đất nước tươi đẹp và kì vĩ. Tư thế ấy lại được đặt trong không gian kỳ vĩ của giang san. Tất cả những chi tiết trên đã dựng lên bức chân dung oai phong lẫm liệt của người trai thời loạn bấy giờ.

– Câu 2 là hình ảnh “ba quân”. Ngày xưa ,quân lính thường chia làm ba đội gọi là tiền quân, trung quân, hậu quân. Vì thế mà câu thơ nói đến ba quân là ca ngợi sức mạnh của toàn dân tộc một lòng. “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”, câu thơ có thể hiểu theo hai cách khác nhau. Bởi khí thôn Ngưu là khí thế nuốt được cả con trâu (theo chú giải của sách giáo khoa), cũng có thể hiểu là nuốt cả con ngưu. Và cả hai cách hiểu, cách hiểu đều nói đến khí thế mạnh mẽ của dân tộc. Đây là hình ảnh ước lệ quen thuộc thường gặp trong thơ cổ xưa, nhưng đặt trong hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm ,hình ảnh này lại gợi lên những cảm xúc chân thực vì phản ảnh hào khí của thời đại bấy giờ.

– Hai câu thơ là hai hình ảnh như đan xen, bổ sung vẻ đẹp cho nhau. Thời đại hào hùng đã tạo nên những con người anh hùng. Và ngược lại mỗi cá nhân đóng góp sức mạnh làm nên hào khí của thời đại. Câu thơ như bộc lộ niềm tự hào của tác giả về quân đội của mình, về con người và thời đại của mình. Tác giả nói về chính mình vừa nói tiếng nói cho cả thế hệ.

2.4. Hai câu sau:

– Hai câu thơ tiếp sau là nhà thơ đã tỏ hoài bão của nhân vật trữ tình. Đó là lập công danh nam tử, tức là công danh của đấng làm trai theo lý tưởng phong kiến ngày trước. Người xưa đã quan niệm, làm trai là phải có sự nghiệp và danh tiếng để lại muôn đời sau, có như vậy mới xứng danh. Chí làm trai được coi là món nợ phải trả của đấng nam nhi ngày trước. Phạm Ngũ Lão đã bầy tỏ khát vọng được đóng góp cho đất nước, xứng đáng là kẻ làm trai sống trong trời đất.

– Nhưng thật bất ngờ, câu kết bài thơ lại là nỗi thẹn:

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

(Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)

Vũ Hầu chính là Gia Cát Lượng, quân sư nổi tiếng đã giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán. Và ở đây Phạm Ngũ Lão thẹn vì thấy mình tài giỏi như Vũ Hầu để lập công giúp nước. Đây là nỗi thẹn cao cả, cái thẹn đến nghẹn lời, cái thẹn làm nên nhân cách. Vì sao? Phạm Ngũ Lão là người có công lớn trong sự nghiệp bảo vệ đất nước, đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Vậy mà Phạm Ngũ Lão vẫn còn cảm thấy mình vương nợ với đời, còn phải thẹn lhi nghe thuyết Vũ Hầu. Điều đó nói nên khát vọng muốn đóng góp nhiều hơn cho đất nước.

– Nếu hai câu đầu của bài thơ khắc hoạ chân dung người trai Đại Việt với vẻ đẹp oai phong bao năm bền bỉ bảo vệ đất nước thì hai cau sau bộc lộ chí lớn và cái tâm cao cả của người tráng sĩ.

3.Kết luận:

– Bài thơ ngắn gọn, kiệm lời nhưng đã nói nên lí tưởng nhân sinh của kẻ làm trai: lập công danh không phải chỉ để vinh thân vì gia, mà vì dân tộc; khi đã có công danh, còn phải phấn đấu vươn lên không ngừng.

Lập dàn ý bài "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão là sự thể hiện vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại mẫu 2

I. Mở bài.

- Vài nét về tác giả Phạm Ngũ Lão và hoàn cảnh lịch sử khi bài thơ ra đời.

- Ghi lại bài thơ.

II. Thân bài.

Bài thơ gồm bốn câu, chia làm hai ý chính, diễn đạt hùng khí một thời và nỗi lòng băn khoăn, trăn trở vì nghĩa cả của một nhân cách lớn.

A. KHÍ PHÁCH ANH HÙNG CỦA VỊ TƯỚNG VÀ QUÂN ĐỘI.

1.Mở đầu bài thơ bằng cụm động từ hoành sóc. Tư thế cắm ngang ngọn giáo vẽ nên nét đẹp ngang tàng, oai phong lẫm liệt của một tráng sĩ xung trận, sẵn sàng chiến đấu:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

(Múa giáo non sông trải mấy thu)

Người tráng sĩ ấy, vị tướng quán ấy đã chinh chiến triền miên, dãi dầu gian khó để bảo vệ giang sơn đã mấy thu rồi.

Ta bỗng nhớ tới hình ảnh người tráng sĩ trong Chinh phụ ngâm: Múa gươm rượu tiễn chưa tàn - Chí ngang ngọn giáo cào ngàn hang beo. Hình ảnh người tráng sĩ càng đẹp hơn khi đạt trong khung canh bừng bừng khí thế tiến công cua một đội quân dũng mãnh muốn át cả trời sao (ba quân khí mạnh...)

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.

(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu).

Tì là loài thú lai giống cọp và beo (theo truyền thuyết), hổ là cọp. Tam quân tì hổ ý nói ba quân có sức mạnh vô địch. Khí thôn ngưu ngụ ý quân đội bừng bừng khí thế chiến đấu và chiến thắng.

Lời thơ ước lệ, hào tráng, hình ảnh kì vĩ, toát lên khí thế ngất trời của quân đội đời Trần qua ba lần chiến thắng bọn xâm lược Mông Nguyên.

Hai câu thơ đã phác họa nên một bức tranh hoành tráng về một thời oanh liệt với một giọng điệu thật hào hùng. Đó chính là âm hưởng vang vọng của hào khí nhà Trần.

B. QUAN NIỆM VỀ CÔNG DANH VÀ KHÁT VỌNG CỦA TÁC GIẢ

Nam nhi vị liễu công danh trái

(Công danh nam tử còn vương nợ)

Công danh là sự nghiệp và tiếng tăm. Trong thời phong kiên, kẻ làm trai rất coi trọng công danh, tức là phải lập sự nghiệp ích quốc lợi dân (công) để lưu lại tiếng thơm cho hậu thế (danh). Cho nên, công danh xem như món nợ đối với người trai:

Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,

Không công danh thà nát với cỏ cây.

(Nguyễn Công Trứ)

Câu thơ thể hiện ý chí và khát vọng thật cao đẹp: muốn được cống hiến cao nhất, muốn làm tròn sứ mệnh của đấng nam nhi.

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

(Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu).

Hoài bão của người trai càng cao đẹp hơn mà người đọc bắt gặp ở đây là một nhân cách lớn lao: một con người “cắp ngang ngọn giáo”, xông ra giữa trận tiền chống giặc suốt mấy thu rồi không nhớ nữa. Thế mà vẫn nghĩ mình chưa làm tròn trách nhiệm, còn nợ với non sông, đất nước; vẫn thấy “thẹn” khi nghĩ mình công danh vẫn chưa bằng được Vũ Hầu.

Gia Cát Vũ Hầu được xem là một bậc tuyệt tri trong thời Tam Quốc, đầy tài năng thao lược, đã giúp Lưu Bị dựng nên nhà Thục Hán, công danh xếp vào bậc nhất thiên hạ. Phạm Ngũ Lão có thể tự thấy mình còn thua kém Gia Cát Lượng về công danh sự nghiệp. Cũng có thể hiểu “thẹn”là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão muốn sánh ngang với Vũ Hầu.

Có lần Nguyễn Khuyến cũng đã “thẹn” khi nghĩ mình chưa có tài thơ văn và nhân cách cao bằng Đào Uyên Minh:

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

(Thu vịnh)

Như vậy, những cái “thẹn” ấy cao đẹp và quý giá biết chừng nào!. Đó là nỗi thẹn cua một nhân cách lớn. Nỗi thẹn ấy giúp cho con người ta biết vươn tới lẽ sống cao cả hơn.

III. Kết bài.

Bài thơ thể hiện tấm lòng và ý chí của Phạm Ngũ Lão, đồng thời tiêu biểu cho tư tưởng và tình cảm của lớp người cùng thế hệ với ông, thế hệ làm nên hào khí Đông A.

Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 10: Lập dàn ý bài "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão là sự thể hiện vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 10 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 10.

Bài tiếp theo: Trình bày suy nghĩ của em về câu ngạn ngữ sau: "Sống không phải là chờ cho giông bão qua đi mà là học cách khiêu vũ trong mưa gió"

Đánh giá bài viết
3 7.711
Sắp xếp theo

    Học tốt Ngữ Văn lớp 10

    Xem thêm