Niềm tự hào về vẻ đẹp của quê hương đất nước qua lời hát đối thiết tha trong bài ca dao: Ở đâu năm cửa nàng ơi

Văn mẫu lớp 7: Niềm tự hào về vẻ đẹp của quê hương đất nước qua lời hát đối thiết tha trong bài ca dao: Ở đâu năm cửa nàng ơi dưới đây gồm nhiều bài văn mẫu, dàn bài hay được VnDoc sư tầm và giới thiệu nhằm giúp các em học sinh và phụ huynh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

1. Vẻ đẹp của quê hương đất nước qua lời hát đối thiết tha trong bài ca dao: Ở đâu năm cửa nàng ơi mẫu 1

Một đất nước mà đi bất cứ đâu ta cũng gặp núi cao biển rộng, sông dài, ruộng đồng thẳng cánh cò bay rồi những địa danh và phong cảnh kỳ thú thì thử hỏi sao ta không yêu, không tự hào, không tha thiết nhớ. Tất cả tình cảm, cảm xúc đó được thể hiện rất ngọt ngào qua bài ca dao - qua lời hát đối của đôi trai gái say cảnh, say người:

Ở đâu năm cửa nàng ơi...

Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?

Sông nào bên đục, bên trong?

Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh?

Đền nào thiêng nhất xứ Thanh

Ở đâu mà lại có thành tiên xây?”

Chàng hỏi, nàng thưa, nội dung đối đáp là những tên đất, tên sông, danh lam thắng cảnh... mang đặc điểm riêng biệt, cụ thể nhưng đều giống nhau ở một điểm: tất cả đều nổi tiếng, đều khiến lòng người ghi nhớ, tự hào. Hài hoà ăn ý, tất cả cứ lung linh hiện về trong câu hỏi, lời trao, trong câu hát, trong lòng người. Theo lời hát của đôi trai gái, chúng ta được đi từ Năm cửa ô của Hà Nội xưa, qua sông Lục Đầu nơi gặp gỡ của sáu con sông đẹp của đất Bắc là sông Thương, sông cầu, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Môn, sông Thái Bình rồi dừng chân ngắm sông Thương "nước chảy đôi dòng, bên đục bên trong" mà vẩn vơ nghĩ về lòng người. Chưa dừng ở đó, lời hát dẫn ta về Tản Viên nơi chàng Sơn Tinh xưa hoá phép cho núi thắt cổ bồng để ngăn dòng nước lũ của Thuỷ Tỉnh. Lòng ta chợt bâng khuâng nhớ về câu chuyện tình của hai chàng trai cùng đem lòng yêu Mị Nương tha thiết và ước vọng ngàn đời của người dân đất Việt chinh phục thiên nhiên qua hình tượng Sơn Tinh.

cảnh đẹp quê hươngNgược dòng thời gian, theo câu hát ta lại cùng về với lễ hội Đền Sòng, nơi thờ Liễu Hạnh công chúa ở xứ Thanh, một trong bốn vị thần bất tử của người Việt, yêu mến bà dân ta đã tôn bà là Thánh mẫu Liễu Hạnh. Lễ hội Đền Sòng, còn gọi là Sòng Sơn được tổ chức vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 âm lịch hàng năm với câu ca truyền tụng "Nhất vui lễ hội phủ Giầy, vui là vui vậy chẳng tày Sòng Sơn". Khi đọc đến đây, hẳn ta sẽ muốn được tận tay mình, thắp một nén nhang thơm trên bàn thờ Thánh Mẫu tỏ chút lòng tri ân với cô công chúa nhà trời nhưng nặng lòng với chốn trần gian. Lời hát của chàng trai, cô gái còn dẫn ta về Lạng Sơn trương truyền có thành tiên xây. Mỗi vùng một nét, một vẻ riêng hợp thành bức tranh non nước - đẹp, thơ mộng, giàu truyền thống văn hoá và ý nghĩa nhân văn.

Không chỉ cho ta thêm những hiểu biết về vẻ đẹp của đất nước thân yêu, lời hát của đôi trai gái còn giúp ta cảm nhận thêm một nét sinh hoạt văn hoá rất Việt Nam - hát đối - một hình thức ca hát dân gian mà ta có thể bắt gặp ở rất nhiều vùng miền trên dải đất hình chữ s thân yêu từ hội hát Xoan Phú Thọ, quan họ Bắc Ninh, hát phường vải Nghệ Tĩnh, hát ví ghẹo, giao duyên ở miền Trung, những câu hò, câu cải lương Nam Bộ... Phải chăng đó cũng là một nét đẹp mà cha ông ta, bằng tâm hồn nhạy cảm, bằng niềm tin yêu cuộc sống đã sản sinh ra và gìn giữ ngàn đời để truyền lại cho cháu con. Một điều nữa, ẩn đằng sau những câu hát đối rất nhịp nhàng kia là niềm tự hào và tình yêu vô bờ với quê hương, đất nước mình. Nhẹ nhàng mà giản dị, chàng trai và cô gái đã truyền cho ta niềm tự hào, khát khao khám phá và tình yêu không giới hạn đó trong lòng họ.

Bài ca có thể còn kéo dài với nhiều lời hỏi đáp bởi trên đất nước thân yêu, đi tới đâu ta cũng bắt gặp những vùng đất, những câu chuyện đẹp như cổ tích đó. Và cũng bởi, theo suốt chiều dài lịch sử, con người Việt Nam thời đại nào cũng tha thiết yêu quê hương, đất nước mình.

2. Vẻ đẹp của quê hương đất nước qua lời hát đối thiết tha trong bài ca dao: Ở đâu năm cửa nàng ơi mẫu 2

Tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, đất nước, con người là nội dung khá phổ biến của ca dao, dân ca. Ẩn chứa trong những câu hát đối đáp, những lời mời mọc, nhắn gửi… là tình yêu chân thành, tha thiết, là niềm tự hào về vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người… Sau đây là một vài bài tiêu biểu:

Hỏi: Ở đâu năm cửa nàng ơi?

Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?

Sông nào bên đục, bên trong?

Núi nào thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh?

Đền nào thiêng nhất xứ Thanh?

Ở đâu mà lại có thành tiên xây?

Đáp: Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi!

Sông Lục Đầu sáu khúc, nước chảy xuôi một dòng.

Nước sông Thương bên đục, bên trong,

Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.

Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh,

Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây.

Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,

Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.

Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,

Hỏi ai gây dựng nên non nước này?

Đường vô xứ Huế quanh quanh,

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.

Ai vô xứ Huế thì vô …

Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,

Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.

Thân em như chẽn đòng đòng,

Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.

Câu hát thứ nhất

Đây là câu hỏi và lời đáp (đố – giải đố) về những địa danh nổi tiếng của đất nước trong những buổi hát giao lưu, giao duyên của hai bên nam nữ ở các dịp lễ hội, đình đám, vui Tết, vui xuân … hay lúc nông nhàn. Các câu hỏi xoay quanh kiến thức địa lí, lịch sử, các nhân vật nổi tiếng hoặc phong tục xã hội … Điều thú vị là người hỏi biết chọn ra những đặc điểm tiêu biểu của từng địa danh để đánh đố:

Ở đâu năm cửa nàng ơi?

Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?

Sông nào bên đục, bên trong?

Núi nào thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh?

Đền nào thiêng nhất xứ Thanh?

Ở đâu mà lại có thành tiên xây?

Người đáp trả lời rất đúng:

Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi!

Sông Lục Đầu sáu khúc, nước chảy xuôi một dòng.

Nước sông Thương bên đục, bên trong,

Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.

Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh,

Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây.

Hỏi – đáp là hình thức thể hiện, chia sẻ sự hiểu biết cũng như niềm tự hào và tình yêu đối với quê hương, đất nước. Qua lời hỏi và lời đáp, ta thấy các chàng trai và các cô gái đều có hiểu biết sâu rộng, thái độ lịch lãm và tế nhị. Thử thách đầu tiên này là cơ sở để tiến xa hơn trong sự kết giao về mặt tình cảm.

Câu hát thứ hai:

Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,

Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.

Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,

Hỏi ai gây dựng nên non nước này?

Mở đầu câu hát là cụm từ Rủ nhau quen thuộc trong ca dao: Rủ nhau xuống biển mò cua … Rủ nhau lên núi đốt than … Rủ nhau đi tắm hồ sen … Ở bài này là Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ, một thắng cảnh có giá trị lịch sử và văn hóa rất tiêu biểu của đất Thăng Long ngàn năm văn vật.

Câu hát này gợi nhiều hơn tả. Nó gợi tưởng tượng của người đọc bằng cách nhắc đến những cái tên tiêu biểu cho cảnh đẹp Hồ Gươm như: cầu Thê Húc, chùa Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút. Cảnh sắc đẹp đẽ, đa dạng hợp thành một không gian thơ mộng, thiêng liêng, mang đậm dấu ấn lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc.

Những địa danh, cảnh trí trên được nhắc đến bằng tình yêu tha thiết và niềm hãnh diện, tự hào của người dân về Hồ Gươm, về kinh đô Thăng Long nói riêng và cả đất nước nói chung.

Câu cuối: Hỏi ai gây dựng nên non nước này? là câu hỏi tu từ nghệ thuật, có tác dụng nhấn mạnh và khẳng định vai trò to lớn của tổ tiên, ông cha chúng ta trong sự nghiệp dựng xây non sông gấm vóc của dòng giống Tiên Rồng. Đây cũng là dòng thơ xúc động nhật. Câu hát nhắc nhở các thế hệ con cháu phải biết tiếp tục giữ gìn và phát huy tinh hoa truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc. Cảnh đẹp Hồ Gươm ở đây được nâng lên ngang tầm non nước, tượng trưng cho non nước Việt Nam.

Câu hát thứ ba:

Đường vô xứ Huế quanh quanh,

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.

Ai vô xứ Huế thì vô ...

Cảnh thiên nhiên non xanh, nước biếc trên đường vào xứ

Huế đẹp như một bức tranh sơn thủy hữu tình.

Các tính từ quanh quanh, xanh, biếc … và cách so sánh thường thấy trong văn chương đã khẳng định vẻ đẹp tuyệt vời của phong cảnh trên con đường thiên lý từ miền Bắc vào miền Trung, đặc biệt là xứ Huế.

Ai vô xứ Huế thì vô là lời nhắn nhủ, mời gọi. Đại từ phiếm chỉ Ai thường có nhiều nghĩa. Nó có thể chỉ số ít hoặc số nhiều, có thể chỉ một người mà cũng có thể là mọi người.

Câu hát thể hiện tình yêu tha thiết và lòng tự hào về vẻ đẹp thơ mộng của đất cố đô. Đây cũng là cách giới thiệu mang sắc thái tinh tế, thanh lịch của người dân xứ Huế.

Câu hát thứ tư:

Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,

Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.

Thân em như chẽn đòng đòng,

Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.

Có hai cách hiểu khác nhau về câu hát này, dựa trên sự thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình có thể là một chàng trai hoặc một cô gái.

Cách hiểu thứ nhất: Đây là lời của một chàng trai trong một sớm mai nào đó ra thăm đồng. Đứng trước cánh đồng mênh mông bát ngát, bát ngát mênh mông và trước vẻ đẹp trẻ trung, đầy sức sống của cô thôn nữ, chàng trai đã cất lên lời ngợi ca để thông qua đó bày tỏ tình cảm của mình.

Bài này có những dòng kéo dài tới 12 tiếng đặc tả cánh đồng rộng mênh mông. Các điệp ngữ, đảo ngữ và phép đối xứng (đứng bên ni đồng – đứng bên tê đồng, mênh mông bát ngát – bát ngát mênh mông) gợi cho người đọc có cảm giác đứng ở phía nào cũng thấy cánh đồng kéo dài đến tận chân trời. Cánh đồng quê hương không chỉ rộng lớn mà còn đẹp đẽ, trù phú và đầy sức sống.

Hình ảnh cô gái được so sánh rất tự nhiên mà không kém phần đẹp đẽ: Thân em như chẽn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. Giữa con người và cảnh vật có sự tương đồng ở nét tươi tắn, phơi phới sức xuân.

Cách hiểu thứ hai cho rằng bài ca này là lời của một cô gái. Trước cánh đồng lúa xanh tốt, ngời ngời sức sống, cô gái nghĩ về tuổi thanh xuân của mình và bỗng dưng cảm thấy có một nguồn hứng khởi đang dào dạt trong lòng; từ đó nảy ra so sánh tuyệt vời: Thân em như chẽn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. Cô gái cảm thấy mình đẹp, một vẻ đẹp tươi tắn, trẻ trung, đầy sức sống. Niêm vui sướng, tự hào về cảnh vật và con người của quê hương được thể hiện rất tinh tế trong từng chữ, từng câu.

Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước thường nhắc đến tên núi, tên sông, tên những vùng đất với nét đặc sắc về cảnh trí, lịch sử, văn hóa… Ẩn chứa đằng sau những bức tranh phong cảnh đẹp đẽ ấy là tình yêu tha thiết, nồng nàn của người dân đất Việt.

3. Vẻ đẹp của quê hương đất nước qua lời hát đối thiết tha trong bài ca dao: Ở đâu năm cửa nàng ơi mẫu 3

Ca dao dân ca có nhiều bài đối đáp rất hay, rất hóm hỉnh. Hát đối – đáp để thử tài, cao thấp, để mua vui lúc cày bừa cấy hái, lúc trục lúa đêm trăng, đế giao duyên “kết bạn trăm năm”:

“Cái gì sắc hơn dao cau,

Cái gì tiện chũm cho nhau ăn cùng?

Một quan là mấy trăm đồng?

Một mối tơ hổng là mấy trăm dây?…”

– “Con mắt anh liếc sắc hơn dao cau;

Cau non tiện chũm cho nhau ăn cùng.

Một quan là sáu trăm đồng;

Một mối tơ hồng là sáu trăm dây”…

hay:

“Quả gì khắc chữ chạm rồng?

Quả gì cùi trắng, nước trong hỡi chàng?

Quả gì da nó vàng vàng?

Quả gì lăn lóc giữa đàng cái đi?

Quả gì da nó xù xì?

Chàng mà đối được, thiếp thì theo không”

“Quả chuông khắc chữ chạm rồng;

Quả dừa cùi trắng nước trong đó nàng!

Quả thị da nó vàng vàng;

Bùa yêu lăn lóc giữa đàng cái đi.

Quả mít da nó xù xì;

Nay anh đố được, em thì theo anh!”

Có thể nói, những bài ca dao, dân ca đối – đáp thể hiện một cách hồn nhiên, đậm đà tâm hồn, trí tuệ dân gian đã bao đời nay.

Ai đã từng đi ngược về xuôi, đã từng lên rừng xuống biển, ra Bắc vào Nam,… chắc đã nhiều phen bồi hồi khi nhớ lại, hoặc khi được nghe nhắc lại bài hát đối – đáp “Ở đâu năm cửa nàng ơi!” này. Vốn có 18 cặp câu lục bát; ở đây chỉ nhắc lại 6 cập câu lục bát. Như ghẹo, như giao duyên, rất tình tứ.

Sáu câu anh hỏi nàng: “Ở đâu? Sông nào? Núi nào? Đền nào? Ở đâu lại có?”. Không gian địa lý thì mở ra bao la, tình ý thì như thắt lại. Không đơn giản, tầm thường mà hóc hiểm thú vị:

đâu năm cửa nàng ơi!

Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?

Sông nào bên đục bên trong?

Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh?

Đền nào thiêng nhất xứ Thanh?

Ớ đâu mà lại có thành tiên xây?”

Những thành quách, sông núi, đền đài… đó đây, gần xa trên mọi miền Tổ quốc thân yêu bao la, ai mà biết được? “Ớ đâu năm cửa nàng ơi!” là câu hỏi hóc hiểm. Cửa của lâu đài? Cửa sông hay cửa thành quách, cửa tử, cửa sinh của trận đồ binh pháp? Năm cửa, sáu khúc, bên đục bên trong, thắt cổ bồng mà có thánh sinh, thiêng nhất xứ Thanh, thành tiên xây… là những “mối thắt, nút mở” của những điều anh hỏi nàng. Cứ tưởng là cô gái bị dồn vào thế bí. Nếu chàng trai lịch duyệt hiểu biết sâu rộng bao nhiêu thì cô gái càng tỏ ra sắc sảo, mẫn tiệp bấy nhiêu. Hai tiếng “chàng ơi!” cất lên thật tình tứ, duyên dáng:

“Cái gì sắc hơn dao cau,

Cái gì tiện chũm cho nhau ăn cùng?

Một quan là mấy trăm đồng?

Một mối tơ hồng là mấy trăm dây?…”

– Con mắt anh liếc sắc hơn dao cau;

Cau non tiện chũm cho nhau ăn cùng.

Một quan là sáu trăm đồng;

Một mối tơ hồng là sáu trăm dây”…

Có thể nói, những bài ca dao, dân ca đối – đáp thể hiện một cách hồn nhiên, đậm đà tâm hồn, trí tuệ dân gian đã bao đời nay.

Ai đã từng đi ngược về xuôi, đã từng lên rừng xuống biển, ra Bắc vào Nam,… chắc đã nhiều phen bồi hồi khi nhớ lại, hoặc khi được nghe nhắc lại bài hát đối – đáp “Ở đâu năm cửa nàng ơi!” này. Vốn có 18 cặp câu lục bát; ở đây chỉ nhắc lại 6 cặp câu lục bát. Như ghẹo, như giao duyên, rất tình tứ.

Sáu câu anh hỏi nàng: “ở đâu? sông nào? sông nào? núi nào? đền nào? ở đâu lại có?”. Không gian địa lý thì mở ra bao la, tình ý thi như thắt lại. Không đơn giản, tầm thường mà hóc hiểm thú vị:

đâu năm cửa nàng ơi!

Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?

Sông nào bên đục bên trong?

Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh?

Đền nào thiêng nhất xứ Thanh?

đâu mà lại có thành tiên xây?”

Những thành quách, sông núi, đền đài… đó đây, gần xa trên mọi miền Tổ quốc thân yêu bao la, ai mà biết được? “Ở đâu năm cửa nàng ơi!” là câu hỏi hóc hiểm. Cửa của lâu đài? Cửa sông hay cửa thành quách, cửa tử, cửa sinh của trận đồ binh pháp? Năm cửa, sáu khúc, bên đục bên trong, thắt cổ bồng mà có thánh sinh, thiêng nhất xứ Thanh, thành tiên xây… là những “mối thắt, nút mở” của những điều anh hỏi nàng. Cứ tưởng là cô gái bị dồn vào thế bí. Nếu chàng trai lịch duyệt hiểu biết sâu rộng bao nhiêu thì cô gái càng tỏ ra sắc sảo, mẫn tiệp bấy nhiêu. Hai tiếng “chàng ơi!” cất lên thật tình tứ, duyên dáng:

Không gian nghệ thuật được mở rộng, được đón chào. Càng “xem” càng thấy lạ và rất thú vị:

“Đài Nghiên Tháp Bút chưa mòn

Hỏi ai gây dựng nên non nước này?”

Hai chữ “chưa mòn” là linh hồn của bài ca dao này. Đài Nghiên Tháp Bút là biểu tượng cho nền văn hiến lâu đời và rực rỡ của Đại Việt. Nó thể hiện rất đẹp đạo học và truyền thống hiếu học của nhân dân ta. Hai chữ “chưa mòn” khẳng định sự bền vững, sự trường tồn của nền văn hiến nước ta. Qua hàng nghìn năm, qua bao thăng trầm của lịch sử, bao bể dâu Tháp Bút Đài Nghiên vẫn “chưa mòn”, vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Cũng như đất nước ta, thủ đô ta, nền văn hóa Việt Nam ta ngày một trở nên giàu đẹp. Hai chữ “chưa mòn” đã kín đáo gửi gắm niềm tự hào và tình yêu sông núi của nhân dân.

Câu kết là một câu hỏi tu từ. “Hỏi ai” là phiếm chỉ, gợi ra nhiều bâng khuâng, man mác. “Ai” là ông cha, tổ tiên. “Ai” là nhân dân vĩ đại, những con người vô danh, như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết:

“Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

(“Đất nước”)

Lòng biết ơn tổ tiên ông cha, biết ơn nhân dân đã được nói lên một cách xúc động qua câu hỏi tu từ. Cảm xúc như nén lại: “Hỏi ai gây dựng nên non nước này?”.

Có thể coi bài ca dao “Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ” là một bài ca yêu nước và tự hào dân tộc. Bốn câu ca dao 28 chữ mà nêu lên được năm cảnh đẹp của Hà Nội mến yêu: cảnh Kiếm Hồ, cầu Thê Húc, chùa Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút. Bút pháp liệt kê và điệp ngữ như mở rộng, như tô đậm bao thắng cảnh, càng xem càng thích thú. Tình yêu Hà Nội, yêu quê hương đất nước là cảm hứng của bài ca.

Như kẻ uống nước nhớ nguồn, ta biết được tác giả bài “Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ” là của thi sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải (1894 – 1983). Bài ca được in trong mục “Phong dao” của tác, phẩm “Duyên nợ phù sinh”, xuất bản năm 1920.

Trên đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu Niềm tự hào về vẻ đẹp của quê hương đất nước qua lời hát đối thiết tha trong bài ca dao: Ở đâu năm cửa nàng ơi cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 7 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 7 và biết cách soạn bài lớp 7 các bài trong sách Văn tập 1 và tập 2. Đồng thời các dạng đề thi học kì 1 lớp 7, đề thi học kì 2 lớp 7 mới nhất cũng sẽ được chúng tôi cập nhật. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.

Đánh giá bài viết
1 1.145
Sắp xếp theo

Văn mẫu lớp 7 Cánh diều

Xem thêm