Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến

Khóc Dương Khuê không chỉ thể hiện tấm lòng sâu sắc và tình cảm tha thiết của một người bạn với một người bạn, bài thơ còn là một biểu hiện xúc động cho vẻ đẹp nhân cách của một nhà nho chân chính. Cùng tham khảo các bài văn mẫu lớp 11 phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến sau để thấy rõ hơn về điều này.

1. Audio Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến

2. Video Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến

3. Dàn ý phân tích Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến

I. Mở bài:

Giới thiệu tác giả Nguyễn Khuyến và bài thơ “Khóc Dương Khuê” : Những bài thơ của ông mang những tình cảm chân thực đẹp đẽ của người Việt Nam

II. Thân bài

- Giới thiệu về tình bạn của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê: Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng đỗ tiến sĩ và làm quan dưới triều Nguyễn

- Nỗi đau buồn của Nguyễn Khuyến trước sự ra đi đột ngột của Dương Khuê: Cái chết đột ngột của Dương Khuê là một đau của Nguyễn Khuyến

- Nhắc lại những kỉ niệm của đôi bạn tri kỉ: Đôi bạn tâm đầu ý hợp đã từng trải qua những ngày tháng vui vẻ, thú vị

- Nỗi buồn mất bạn hòa chung với nỗi buồn mất nước: Cùng phụng sự dưới một triều đại, đôi bạn thân đã cùng chi sẻ nỗi đau mất nước

III. Kết bài:

- Ý nghĩa bài thơ “Khóc Dương Khuê”: Bài thơ Khóc Dương Khuê mang một nỗi niềm tiếc nuối sâu sắc về một tình bạn tri kỉ

4. Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến mẫu 1

Trong nền thơ hơn một nghìn năm của dân tộc Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Khuyến có một vị trí thật vẻ vang. Ông là nhà thơ của những bài thơ Việt Nam đích thực, những bài thơ mà ở đó, những tình cảm đẹp đẽ của con người Việt Nam được diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ Việt Nam thuần khiết, giản dị và đẹp đẽ. Trong những bài thơ ấy, cần phải nói tên một bài thơ không mấy ai không biết: bài Khóc Dương Khuê.

Xét cho cùng, tình bạn giữa hai người Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vốn không phải là một tình bạn thật hoàn toàn như ý. Tuy đỗ cử nhân cùng khoa thi với Nguyễn Khuyến, rồi đỗ tiến sĩ, cùng làm quan cho triều Nguyễn, nhưng sau năm 1884, năm đất nước thật sự mất vào tay thực dân Pháp, Dương Khuê lại không có được cái chí như Nguyễn Khuyến. Không cáo quan về làng, Dương Khuê tiếp tục làm quan cho triều đình tay sai thực dân cho đến tận lúc qua đời ở tuổi 64 (1902).

Tuy vậy, nói thế là để nhìn rõ hết mọi chuyện. Người Việt Nam ta vẫn có câu: nghĩa tử là nghĩa tận. Cái chết đột ngột của Dương Khuê đã thật sự li: một nỗi đau cho Nguyễn Khuyến. Lúc ấy, quên hết mọi điều, ông chỉ còn biết một điều duy nhất: ông đã mất một người bạn thân, mất một nguồn tình cảm quí giá không thế lấy gì thay thế được. Lúc ấy, tự đáy lòng, từ nột tình bạn mà hình như chính ông cũng không thể đo lường hết chiều sâu, Nguyễn Khuyến đã chợt kêu lên những tiếng kêu thảng thốt:

Bác Dương thôi đã, thôi rồi,

Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta.

Hầu như không có một chút vãn chương chữ nghĩa nào trong hai dòng thơ trên, đặc biệt là dòng thơ thứ nhất. Chỉ có nỗi đau, nỗi đau chân thành, trọn vẹn, tự mình thể hiện ra thành lời. Hai tiếng “thôi” dân dã và tự nhiên, cứ như bật lên từ lời nói của một người dân quê bình dị nào đó. Đặt câu thơ này vào trong hoàn cảnh xã hội mà sự “cao nhã“ luôn luôn được coi là một yêu cầu hàng đầu của văn chương, ta càng thấy ở đây sự chân được nhà thơ coi trọng đến chừng nào. Nói đến cái chết, ông không dám động đến từ “chết”. Trời đất cao dày ơi lẽ nào chuyện ấy đã đến thật rồi sao? “Thôi đã... thôi rồi”! Thế là hết! Thật thế rồi! Một kẻ quyền quí ngày xưa khi lỡ tay làm rơi mất viên ngọc lưu li độc nhất vô nhị trong thiên hạ, có lẽ cũng chỉ kêu lên đau đớn đến như thế là cùng. Không đau nỗi đau thật, làm sao có thể khóc một tiếng khóc thật như thế được.

Có điều là, với nỗi đau, Nguyễn Khuyến không thét lên, tiếng khóc của ng là khóc với mình, khóc cho tự mình nghe, tiếng khóc lắng vào lòng. Tâm hồn vốn giản dị, ông chúa ghét sự ồn ào. Lúc này ông muốn ngồi một mình, đối diện với bạn, cùng nhắc lại tình bạn, cùng bạn ôn lại những gì đã từng có giữa hai người. Đã có bao nhiêu là kỉ niệm. Từ những ngày tường đã rất xa xôi:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Những sớm hôm tôi bác cùng nhau,

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời

Đó là kỉ niệm khi hai người vừa mới lần đầu gặp nhau trong khoa thi Hương và cùng thi đỗ. Nguyễn Khuyến quê ở Bình Lục, Hà Nam, Dương Khuê quê ở Vân Đình, Hà Đông, hai người vốn chẳng quen biết gì nhau. Thế mà, cứ như duyên trời định sẵn, tình bạn đã bắt đầu gắn bó từ đây. Chữ nghĩa của Nguyễn Khuyến sao mà bình dị đến thế, nôm na, thân mật đến thế! Nào là “lúc sớm hôm”, rồi là "tôi bác", với những “cùng nhau”... Nhà thơ cũng xác định cái nhìn đầu tiên của mình về người bạn: đó là lòng kính yêu trọn vẹn, “kính yêu từ trước đến sau".

Cùng với giọng kể lể chân thành như thế, nhà thơ nhắc lại với bạn về những kỉ niệm khác:

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo,

Có khi từng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.

Kỉ niệm giừa đôi bạn như thế quả là rất nhiều, rất đậm. Họ đã từng cùng trải qua những giờ phút thú vị, chứng tỏ họ là những người bạn ý hợp tâm đầu, có tâm hồn biết thưởng thức và chia sẻ những niềm vui thanh cao của kẻ tao nhân mặc khách. Nhắc lại những kỉ niệm đó, tâm hồn nhà thư như còn rung cảm vì tiếng suối “róc rách lưng đèo” nơi “dặm khách” xa xôi. Nhà thơ như cùng đang sống lại với những cảm giác thích thú “nơi từng gác cheo leo”, lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát của các đào nương. Có người sẽ hỏi: nhà thơ Nguyễn Khuyến mà cũng đi hát ả đào sao? Thi có gì đâu mà nhà thơ không đi hát ả đào! Hát ả đào là một thú vui trong xá hội phong kiến. Có lúc thú vui này bị người ta lợi dụng (thì trên đời thiếu gì điều tốt đẹp bị người ta lợi dụng). Tuy vậy, đối với đa số nhà Nho, đó lại là nơi để thưởng thức cái đẹp của lời ca, tiếng hát, tiếng đàn, cũng là nơi di dưỡng tâm hồn sau những tháng ngày gò mình trong khuôn khổ của chốn công danh, vốn được sáng tác để cho các đào nương hát lên đó sao? Nguyễn Khuyến không có những bài thơ như vậy, nhưng rõ ràng là ông đã không thể quên “thứ vui con hát”, bởi đó là thú vui được “lựa chiều cầm xoang”, trải lòng mình theo tiếng đàn, tiếng hát.

Là đôi bạn đến với nhau, thân nhau vì lòng mến mộ lẫn nhau, tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thật là chỗ tri âm tri kỉ, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”:

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp,

Chén quỳnh tương ăm áp bầu xuân,

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích, điển phần trước sau.

Nói về việc cùng bạn uống rượu mà nhà thơ dùng từ "nháp”, lại “cùng nháp” thì thật chính xác và tinh tế, bởi đây là việc uống rượu của người “uống cho vui”, chứ không phải kiểu uống của các bợm rượu. Nhà thơ có lần đã tự nói về khả năng uống rượu của mình:

Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy

Độ năm ba chén đã say nhè.

(Thu ẩm)

Chén các cụ dùng uống rượu ngày xưa là loại chén rất nhỏ, thường được gọi là “chén hạt mít”. Nói “nhấp” tức là uống từng hớp nhỏ, như chỉ vừa chạm môi vào, vừa uống vừa ngẫm nghĩ, vừa uống vừa thưởng thức cái vị đậm, cái mùi thơm của rượu. Rượu uống chỉ như thế nhưng lại “ăm áp bầu xuân”. Bầu xuân này là bầu rượu và cũng là “bầu thơ“, bầu rượu đầy cho bầu thơ càng thêm lai láng. Hai tiếng “ăm ắp” mà nhà thơ dành cho bầu xuân” thật gợi cảm và sảng khoái. ‘‘Người thanh cái tiếng cũng thanh”, đến cách chơi cũng cho ta biết được bản chất con người, không phải bất kì ai cũng có được cái “rượu ngon cùng nhấp” ấy, nhất là cái căm nhận “ăm áp bầu xuân” ấy.

Thật là những ngày vui. Nhưng cũng có những ngày buồn, rất buồn. Đó là những ngày nước mất. Là nhà Nho, cùng phụng sự cho một triều đại, đôi bạn cùng chung chia sẻ nỗi đau của thời đại mình:

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn

Phận đấu thăng chẳng dám than trời

Bác già, tôi cũng già rồi

Biết thôi thôi thế thì thôi mới là!

Những câu thơ của Nguyễn Khuyến đọc lên nghe thật buồn bã, ngao ngán. Nói “buổi dương cửu” để chỉ thời kì loạn lạc khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhà thơ coi đó như là một vận hạn mà đất nước và con người phải trải qua. Không làm gì được trước vận hạn ấy, nhà thơ chỉ còn một cách lựa chọn là rời bỏ công danh, chẳng còn dám tham cái lộc trời “thăng đấu” của kẻ làm quan. Nhà thơ nói như một kẻ an phận mà nghe ra thật đau đớn. Ông cảm thấy mình bất lực, cảm thấy mình đã già. Đặc biệt câu thơ cuối đoạn, có đến ba từ "thôi” trùng diệp, khác nghĩa nhau mà như cùng một nghĩa, bổ sung cho nhau, tạo ra ấn tượng về một tâm trạng cam chịu thật nặng nề: Biết thôi- thôi - thế thì thôi. Đúng là tâm trạng của nhà thơ khi cáo quan về làng và cho đến cả những năm sau này: đau buồn trước cảnh nước mất nhưng không có thể làm gì cho đất nước ngoài việc từ quan để khỏi làm việc cho kẻ thù.

Qua 16 dòng thơ, Nguyễn Khuyến đã nhắc lại một cách cô đọng và đầy đủ về mối quan hệ bạn bè giữa đôi bạn Nguyễn Khuyến - Dương Khuê, đặc hiệt là độ sâu, độ bền của tình bạn đó. Những kỉ niệm đã được nhà thơ nói tới mọt cách giản dị nhưng đầy trân trọng. Nhắc lại những kỉ niệm ấy, ôn lại và ngẫm nghĩ về tình bạn ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi đau mà mình phải chịu hôm nay thật là một điều vô lí. Ông chưa bao giờ hình dung ra sự mất mát có thể xảy đến vào lúc này. Nhà thơ nhớ lại:

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác

Trước ba năm gặp bác một lần

Cầm tay hỏi hết xa gần

Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.

Xét về rnặt văn chương, bốn dòng thơ trên không phải là những câu thơ thật mới lạ sắc sảo, bởi những câu thơ ấy sao mà nôm na bình thường, nào la “tuổi già thèm nhác”, rồi lại “hỏi hết xa gần”, với lại “tinh thần chưa can”, cứ như lời lẽ cua một ông lão quê mùa nào đó ở vùng đất Hà Nam. Thì đúng vậv, Nguyễn Khuyến có làm văn chương đâu, ông chỉ bộc lộ nỗi niềm của mình! Nhà thơ còn tự mình lí sự với mình:

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác

Tôi lại đau trước bác mấy ngày

Làm sao bác vội về ngay

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!

Chỉ khi người ta đau đớn thật lòng, người ta mới có kiểu lí sự như vậy. Như thế có khác gì nói rằng: tại sao bác lại chết trước tôi nhỉ? Người chêt trước lẽ ra phải là tôi chứ? Chính từ những lí sự này, mấy tiếng cuối cùng của đoạn thơ nổi lên thật chân thành và ai oán:

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!

Trước nỗi đau dã là sự thật, nhà thơ đành chấp nhận nồi đau và càng thấy điều này là thật vô lí:

Ai chẳng biết chán đời là phải

Vội vàng chi đã mải lên tiên

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua.

Cái chết là một quy luật không ai có thể phủ nhận được. Tuy vậy, trong trường hợp này, Nguyễn Khuyến vẫn tìm thấy sự vô lí: cái chết của người bạn đã đến một cách vội vã quá, nó cướp mất của ông một người bạn hiền và như thế, cũng cướp mất của ông tất cả mọi niềm vui. Câu thơ của ông nói về trường hợp riêng của mình, nghe thật giản dị mà vang lên nhơ một chân lí về tình bạn đích thực ở đời:

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua

Trong hai dòng thơ, từ “không” xuất hiện đến năm lần như những cái lắc đầu buồn bã.

Không còn bạn, không còn thiết uống rượu, bởi không còn người để chia sẻ vị ngon của rượu. Không còn bạn, khóng còn hứng thú làm thơ, bởi vì sao?

Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa?

Lắc đầu bằng những tiếng “không”, đến đây nhà thơ tiếp tục lắc đầu bằng những câu hỏi. Hỏi cũng là để nói “không”. Thơ viết ra mà không có người thưởng thúức được, cảm thông được, thì còn viết làm gì? Âm “iết” láy đi láy lại trong hai dòng thơ,rồi hai tiếng “ai”, hai tiếng “đưa” trung điệp (đưa ai - ai biết - mà đưa” cứ mở ra, khép lại, rồi lại mở ra, như một nỗi day dứt khôn nguôi.

Nhà thơ nghĩ đến những mối tình bạn mà sách vở xưa kia đã từng ca ngợi, coi nhơ tuyệt đỉnh của tình bạn: Trần Phồn đời Hậu Hán sau khi bạn ra về thì treo giường lên, không để cho ai ngồi vào cái giường chỉ dành riêng để tiếp bạn; Bá Nha sau khi Chung Tử Kì chết thì quyết bỏ không chơi đàn bởi thấy không còn ai hiểu được tiếng đàn. Ông thay mối tình giữa ông với Dương Khuê chính là một tình bạn như thế; sự mất mát của ông sau cái chết của Dương Khuê đúng là sự mất mát như thế:

Giường kia treo cũng hững hờ

Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn

Có thể lấy gì để bù đắp vào sự mất mát này không? Nhà thơ đã khẳng định rằng không. Chỉ còn một cách, như người ta vẫn thưừng làm, là tìm cho mình một cách an ủi. Rằng người chết không còn có thể sống lại được, rằng nước mắt xót thương cũng sẽ chàng giúp được gì... Nguyễn Khuyến muốn dùng cái lẽ thường ấy của đời sống để tự an ủi mình:

Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở

Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương

Nhà thơ còn tự khuyên bảo mình:

Tuổi già hạt lệ như sương

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!

Nhà thơ khuyên mình không nên khóc, bởi tuổi già còn ít nước mắt lắm, chỉ như những hạt sương mong manh thôi, làm sao có thể ép cho nước mắt tuôn chảy thành hai hàng chứa chan được. Nhưng nói như thế là nói lí. Tự nhà thơ vẫn hiểu rằng không thể “lấy nhớ làm thương” được, và càng hiểu ràng hai hàng nước mắt chứa chan của ông lúc này đâu phải do ông “ép lấy”. Mỗi chữ trong thơ ông đều đẫm đầy nước mắt, những hạt lệ từ một nỗi đau lớn, từ một tình bạn lớn.

Có thể khẳng định rằng trong thơ Việt Nam đã có rất nhiều bài thơ hay thể hiện tình cảm đẹp đẽ chân thành, nhưng cả cho đến nay, chưa có bài thơ nào nói về tình bạn có thể sánh bằng bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Cái hay ấy trước hết xuất phát từ một tình bạn đẹp và chân thành của một tâm hồn cao thượng. Cái hay ấy còn là cái hay của một nghệ thuật diễn đạt, một ngôn ngữ diễn đạt gian dị, tự nhiên,đầy tính dân tộc, hoàn toàn phù hợp với nội dung tình cảm mà bài thơ cần diễn đạt.

5. Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến mẫu 2

Nguyễn Khuyến là hình mẫu nhà nho chân chính ở giai đoạn cuối cùng của nền Hán học. Theo đuổi nghiệp khoa cử, ra làm quan rồi cáo quan về ở ẩn, cuộc đời lận đận của ông là sự cố gắng giữ mình thanh sạch. Giai đoạn cuối đời là giai đoạn ông mang nhiều tâm sự nhất. Tâm sự của nhà thơ lúc này thường phảng phất sự cô đơn, u ẩn. Bao nỗi niềm chất chứa trong lòng. Và khi nghe tin Dương Khuê – người bạntri âm một thời đã ra đi, cảm giác cô đơn chắc chắn lại dâng đầy trong lòng nhà thơ. Và lời khóc bạn cũnglà lời tâm sự thời thế của người còn lại.

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là hai người bạn thân khi cùng nhau theo đuổi nghiệp khoa cử, họ cũng từng tâm đầu ý hợp trong chuyện văn chương. Nhưng với hai quan điểm khác nhau. Nguyễn Khuyến sau gần mười năm làm quan đã cáo quan về quê sống cuộc đời thuần chất của một nhà thơ để giữ mình trong sạch trước xã hội đang vô cùng lộn xộn. Còn Dương Khuê thì tiếp tục làm quan nhưng vẫn là một ông quan thanh liêm chính trực. Vì thế, họ không có nhiều thời gian để đàm đạo. Tuy vậy, họ vẫn là những tri âm tri kỉ. Với các nhà nho xưa, tình bạn tri âm nhiều khi còn quan trọng hơn cả tình cảm gia đình. Họ cùng nhau đàm đạo chuyện văn chương, sẻ chia tâm sự thời thế, chia ngọt sẻ bùi lúc hạnh phúc cũng như khi hoạn nạn. Đã có những tình bạn đẹp trở thành những điển cố điển tích như tình bạn Bá Nha – Tử Kì, Trần Phồn – Từ Trĩ, Lưu Bình – Dương Lễ… Và Nguyễn Khuyến cũng đã coi tình bạn giữa mình với Dương Khuê là tình bạn tri âm như thế.Sự ra đi đột ngột của người tri âm đã để lại trong lòng nhà thơ nỗi đau đớn khôn xiết :

Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

Tiếng khóc của người bạn già nên có âm điệu và sắc thái tình cảm riêng. Đó là nỗi đau lớn nhưng được thể hiện rất điềm đạm. “Thôi đã thôi rồi”, “man mác”, “ngậm ngùi” là những từ ngữ biểu cảm có khả năng chuyển tải được cung bậc tình cảm ấy.

Sau phút giây bàng hoàng là hồi ức về những kỉ niệm xưa giữa hai người. Sự phát triển của mạch cảm xúc theo đúng quy luật tâm lí thông thường của con người. Lời khóc và cũng là lời viếng bạn, là bài điếu văn của người tri kỉ gửi người tri âm. Những kỉ niệm gắn bó khi hai người cùng học hành, thi cử, bàn luận văn chương và cả những ngày cùng chung hoạn nạn của cuộc sống quan trường đầy phức tạp. Người khác đã tổng kết lại chặng đường đời mà cả hai đã trải qua để khắc sâu hơn sự gắn bó của họ trong quá khứ :

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau

…..Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.

Họ gắn bó với nhau trong mọi việc. Kỉ niệm được nhắc lại bắt đầu từ khi họ gặp nhau và cho đó là “duyên trời”. Đã là duyên trời có nghĩa là tiền định. Sự gặp gỡ của họ không phải là vô tình mà đã được sắp đặt từ trước. Thông thường chỉ duyên vợ chồng mới do trời định. Cách diễn đạt này của tác giả đã khẳng định một lần nữa tình bạn sâu sắc của hai người. Họ đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, cùng “chơi nơi dặm khách”, “rượu ngon cùng nhắp”, cùng “bàn soạn câu văn”. Không chỉ có những kỉ niệm ngọt ngào, họ cũng đều cùng là nạn nhân của thời thế :

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,

Phận đẩu thăng chẳng dám than trời;

Trong hồi ức thấp thoáng nỗi đau thời thế. Nhớ lại kỉ niệm của những ngày cùng nhau gắn bó, nhớ lại lần gặp gỡ cuối cùng khi cả hai đã già nhưng vẫn giữ được mình trong sạch, người ở lại càng đau đớn hơn. Nỗi đau ấy được thể hiện thật xúc động và chân thật:

Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.

Sau những hồi ức về những ngày đã qua, người bạn cảm nhận rõ hơn, cụ thể hơn nỗi đau mất bạn. Không phải chỉ là thương cho người ra đi đã phải sớm từ giã cuộc đời mà còn là thương mình, thương cho người ở lại đã mất đi một tri âm. Vẫn mang trong lòng nỗi u uất thời thế nên trong lời khóc bạn, trong nỗi đau mất tri kỉ có cả nỗi đau thời thế :

Ai chẳng biết chán đời là phải,

Sao vội vàng đã mải lên tiên.

Giữa họ, trong những ngày không gặp nhau khi mỗi người đi một con đường, vẫn chung nỗi đau thế sự. Xác nhận “chán đời là phải” là sự thể hiện một cách kín đáo và thâm trầm của nhà nho về thời thế. Thời thế hỗn loạn, những giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống đang bị phá huỷ đã khiến những nhà nho có nhân cách và biết tự trọng như Nguyễn Khuyến luôn cảm thấy “chán đời”. Trong tiếng khóc bạn phảng phất cả lời khóc mình.Tình bạn keo sơn và nỗi lòng của người tri âm, nỗi đau mất bạn được thể hiện rõ và sâu sắc nhất ở đoạn thơ cuối cùng :

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua.…

...

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.

Dùng một loạt điển tích, điển cố về tình bạn tri âm, nhà thơ đã thể hiện và khẳng định một lần nữa tình bạn thân thiết của hai người. Từ đó bộc lộ nỗi đau mất bạn. Mất đi người tri âm, người ở lại sẽ rơi vào cô đơn, sẽ không còn người để giãi bày tâm sự. Mà trong lòng nhà thơ lúc ấy đang chất chứa bao nhiêu tâm sự cần người sẻ chia. Nỗi đau của một người già khi mất bạn, sự sâu sắc của tình bạn già được thể hiện rõ hơn ở bốn câu thơ kết thúc:

Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan!

Lời khóc bạn của người già khác với nỗi đau của người trẻ tuổi. Đây là nỗi đau nuốt nước mắt vào trong. Tình cảm chân thành của một người bạn già đã được thể hiện thật chân thành và sâu sắc.Với những từ ngữ mộc mạc, chân chất và thể thơ song thất lục bát, tác giả đã thể hiện thật xúc động nỗi đau trước sự ra đi của một người bạn. Sự thay đổi nhịp thơ ở đoạn 2 và đoạn 3 đã góp phần thể hiện rõ hơn tâm trạng của nhân vật trữ tình. ở đoạn 2, âm điệu thơ vui hơn, dồn hơn bởi đó là lúc nhân vật trữ tình đắm mình trong kỉ niệm, trong những hồi ức đẹp khi họ còn có cả hai người. Còn ở đoạn sau, khi chỉ còn lại một mình, trong nỗi cô đơn không người chia sẻ, người bạn ở lại đau đớn và cô độc trong sự nuối tiếc. Sự đối lập ở hai đoạn thơ đã khắc sâu hơn nỗi đau của người mất bạn tri âm.

Thể thơ song thất lục bát với nhịp điệu đặc trưng đã truyền tải chính xác những cảm xúc chân thành của lời khóc bạn. Trong lòng vốn đã mang đầy tâm sự của một nhà nho trước thời thế bao chuyện đảo lộn xoay vần lại cộng thêm nỗi đau trước sự ra đi đột ngột của người bạn thân, nhà thơ đã rơi vào tâm trạng tột cùng đau đớn. Nhưng với một người từng trải và đã trải qua bao nhiêu đắng cay của một cuộc đời lận đận, nhà nho đầy bản lĩnh như Nguyễn Khuyến đã không than thân trách phận, không vật vã than khóc mà thâm trầm và lặng lẽ thể hiện nỗi đau của mình một cách điềm đạm. Bản lĩnh ấy đã tạo cho văn học một thi phẩm có giá trị nhân văn lớn.

Bài thơ đã thể hiện được một tình bạn đẹp, góp phần khẳng định giá trị và vai trò quan trọng của tình cảm giữa con người với con người trong cuộc sống. Sự sẻ chia niềm vui và nỗi buồn giữa những người bạn, những người thân là yếu tố quan trọng nhất để mỗi người đứng vững giữa cuộc đời đầy rẫy bất trắc và bộn bề phức tạp.Tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê, hai nhà nho có tài và có nhân cách đã để lại cho đời một biểu tượng cao đẹp về tình bạn. Khóc Dương Khuê không chỉ thể hiện tấm lòng sâu sắc và tình cảm tha thiết của một người bạn với một người bạn, bài thơ còn là một biểu hiện xúc động cho vẻ đẹp nhân cách của một nhà nho chân chính. Những tâm sự, nỗi đau thời thế ẩn sau nỗi đau mất bạn đã tạo nên chiều sâu nhân bản cho bài thơ.

6. Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến mẫu 3

Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) để lại khoảng 800 bài thơ chữ Nôm và chữ Hán trong đó có ngót một trăm bài thơ viết về tình bạn. Có bài như "Bạn đến chơi nhà" thì hầu như ai cũng biết. Viết về Dương Khuê (1839 - 1902) bạn chí thân của mình, Nguyễn Khuyến đã có bốn bài thơ chữ Hán. Riêng bài thơ thứ tư "Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư" (Viếng bạn đồng khoa là Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư) được tác giả dịch ra chữ Nôm thành bài "Khóc Dương Khuê".

Đây là bài thơ khóc bạn rất tha thiết cảm động của Nguyễn Khuyến cũng là bài thơ khóc bạn rất nổi tiếng trong nền thơ ca dân tộc. Dương Khuê là bạn đồng khoa với Nguyễn Khuyến tại khoa thi Hương năm 1864. Dương Khuê đỗ tiến sĩ, làm quan to, để lại nhiều bài thơ hát nói tuyệt bút. Từ bạn đồng khoa đã phát triển thành bạn tri âm tri kỉ nên Nguyễn Khuyến mới có thơ khóc bạn cảm động và tha thiết như vậy. Có thể xem đây cũng là một bài văn tế được viết bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ réo rắt thấm đầy lệ, gồm có 38 câu thơ.

Mở đầu bài thơ là một tiếng than, tiếng nấc đau đớn:

"Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta".

Một sự thảng thốt xót thương cất lên, tưởng như bất ngờ bị đánh rơi mất một cái gì vô cùng quý báu. Nhóm từ "thôi đã thôi rồi" thay cho khái niệm "đã mất", "đã chết", "đã qua đời"..., một lối nói bình dị, làm giảm bớt đi nỗi đau đớn ghê gớm đối với tuổi già. Theo cách tính tuổi của các cụ ngày trước thì Dương Khuê mất lúc 63 tuổi, khi đó Nguyễn Khuyến đã 68 tuổi rồi. Đúng là tiếng khóc bạn của những bậc cao niên. Hai chữ "nước mây" chỉ hai sự vật cách xa. Nước chảy, mây trôi, xa nhau vời vợi, nghìn trùng cách trở, có mấy khi gặp nhau. Song, lòng nước chảy, dù đi đâu về đâu vẫn ôm ấp bóng mây trôi. Hình ảnh "nước mây" được liên kết với các từ láy "man mác", "ngậm ngùi" diễn tả một trời thương xót, một không gian cách trở bao la, âm dương đôi đường, buồn đau, nặng trĩu.

Chữ "bác" trong thơ Nguyễn Khuyến mang tính biểu cảm sâu sắc. Nhà thơ luôn luôn gọi bạn bằng bác, thể hiện một tấm lòng kính trọng và thân mật. Chữ "kính" và chữ "lễ" in đậm trong phong cách ứng xử của Tam nguyên Yên Đổ: "Bác Dương thôi đã thôi rồi... Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác... Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở"...

Phần thứ hai gồm 24 câu thơ, tác giả nhắc lại, nhớ lại những kỉ niệm sâu sắc với người đã quá cố. Với nhà nho thì bạn đồng khoa là bạn đẹp nhất, tự hào nhất. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng đỗ đạt, cùng làm quan, tình bạn ấy là "duyên trời" tác hợp nên:

"Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời".

Các từ ngữ "sớm hôm", "cùng nhau", "từ trước đến sau" thể hiện một tình bạn vô cùng thân thiết, chung thuỷ. Mỗi một kỉ niệm là một mảnh tâm hồn của nhà thơ được nhắc lại với bao nhiêu giọt lệ. Nguyễn Khuyến như vẫn thấy Dương Khuê đang cùng mình hiển hiện. Phải là bạn tâm đầu ý hợp, phải là những tao nhân mặc khách mới có những kỉ niệm cầm ca, thi tửu đẹp và đáng nhớ như vậy.

Nhớ những cuộc du ngoạn, thăm thú nơi "dặm khách" chan hoà với thiên nhiên, thảnh thơi giữa chốn lâm tuyền: "Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo". Nhớ những lần cùng nhau đi hát ả đào nơi lầu cao, thưởng thức cung đàn, giọng hát:

"Có khi từng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang".

Cầm xoang nghĩa là cung đàn, giọng hát, "Từng gác cheo leo" như còn gợi lại cảm giác ngây ngất trên lầu cao của đôi bạn tri âm sành điệu. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê rất sành nghệ thuật hát ả đào, đã sáng tác nhiều hài hát nói nổi tiếng.

Người xưa có nói: "Tửu phùng tri kỉ thiên bôi thiểu - Thi hội tri âm bán cú đa". Bạn tri âm trong hội thơ (chỉ nghe qua) nửa câu thơ đã là nhiều không cần dài lời cũng đủ hiểu bạn. Nguyễn Khuyến nhớ lại những lần cùng bạn uống rượu làm thơ:

"Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.

Có khi hàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích điển phần trước sau".

Chén quỳnh tương là chén ngọc, một cách nói sang trọng. "Rượu ngon cùng nhắp" và hình ảnh "âm ắp bầu xuân" như còn giữ lại một tình bạn trong hương vị nồng nàn, hứng khởi. Nhắc tới chuyện bàn soạn văn chương thì đầy ắp những sách vở, điển cố. Hai chữ "đông bích, điển phần" biểu lộ niềm tự hào kín đáo của những nhà nho học rộng tài cao.

Nguyễn Khuyến đã sử dụng cách diễn đạt trùng điệp hai nhóm từ ngữ: "Cũng có lúc" và "có khi" đan chéo vào nhau, bốn lần xuất hiện trên tám dòng thơ, vừa để liệt kê gợi nhớ, vừa tạo nên âm hưởng quấn quýt, thiết tha. Những kỉ niệm ấy vô cùng sâu sắc, đẹp đẽ về tình bạn, không bao giờ có thể quên được.

Có kỉ niệm vui, có kỉ niệm buồn. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng làm quan to dưới thời nhà Nguyễn. Nhưng rồi đất nước ta bị xâm lăng, dân tộc ta bị giặc Pháp thống trị, là kẻ sĩ, là nhà nho "cùng nhau hoạn nạn". Cách ứng xử của mỗi người đểu có chỗ khác nhau. Nguyễn Khuyến đã cáo bệnh, từ quan về sống cuộc đời bình dị giữa xóm làng quê hương. Không tham miếng "đẩu thăng", lương bổng của triều đình. Còn Dương Khuê vẫn làm quan. Trong bài thơ chữ Hán "Gửi thăm quan Thượng thư họ Dương", Nguyễn Khuyến tỏ ra rất thông cảm với bạn: "Tôi biết bác vì cha mẹ phải làm quan để lấy tấm lụa - Bác biết tôi nghèo phải làm quan để kiếm đấu gạo lương". Cảnh ngộ và cách ứng xử tuy có khác nhau, kẻ làm quan, người từ quan, nhưng Tam nguyên Yên Đổ vẫn tỏ ra bao dung bạn, vẫn "kính yêu từ trước đến sau", không bao giờ thay lòng đổi dạ:

"Bác già tôi cũng già rồi,

Biết thôi, thôi thế, thì thôi, mới là".

Chữ "rồi" vần với ba chữ "thôi" liên tiếp như một tiếng thở dài, tự an ủi mình, như muốn quên đi thật nhanh những điều bất đắc chí. Không nỡ, không muốn nhắc đến nữa mới là bạn bè tâm giao!

Bây giờ hai người đã đôi đường âm - dương vĩnh biệt. Khóc bạn, Nguyễn Khuyến nhớ lại lần gặp bạn cuối cùng. Ân hận vì đường xa, vì tuổi già sức yếu. Chữ "nhác" rất hay, nghĩa trong văn cảnh là ngại. Các chữ: "cầm tay" và "mừng rằng" thể hiện một tấm lòng quý mến, thương yêu. Đoạn thơ làm tái hiện một khung cảnh cảm động của đôi bạn già sau nhiều năm xa cách mới gặp lại nhau:

"Muốn đi lại, tuổi già thêm nhác,

Trước ba năm gặp bác một lần,

Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can".

"Tinh thần chưa can" ý nói sức khoẻ vẫn bình thường, tinh thần vẫn sáng suốt. Thế mà bạn đột ngột qua đời. Hình ảnh "chân tay rụng rời" cực tả nỗi đau đớn, bàng hoàng không kể xiết. Đoạn thơ sau đây thể hiện rất đúng, rất sâu sắc tâm lí và tình cảm người già khi được tin bạn mất:

"Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày.

Làm sao bác vội về ngay?

Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời!".

Giọng thơ kể lể, tự tình. Trong lời than thấm đầy lệ. Các tiếng "tôi" và "bác" xuất hiện nhiều lần trong đoạn thơ như hai linh hồn đang nương tựa vào nhau; nỗi đau buồn như được nhân lên gấp bội.

Đoạn thơ hồi tưởng này, những kỉ niệm được trình bày theo trình tự thời gian, từ "thuở đăng khoa" đến ngày bạn qua đời. Phép liệt kê, trùng điệp được vận dụng để gây ấn tượng về một tình bạn lâu bền, sâu sắc, thuỷ chung và vô cùng thắm thiết. Người Việt chúng ta, nhất là các cụ già lúc khóc người thân quá cố thường kể lể gợi nhắc mọi kỉ niệm ngụ ý thương tiếc. Có lúc ta cảm thấy người sống đang đối thoại và tâm sự với người đã khuất. Sáu đoạn thơ đã kể lại đủ hết các giai đoạn của tình bạn, lời kể nào cũng chân thành, đằm thắm. Nguyễn Khuyến vừa kể lể, vừa nức nở.

Tám câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là tự khóc mình, giọng thơ ngày một thêm não nùng, thê thiết. Ông trách bạn "vội đi xa" để mình lẻ loi, cô đơn. Cuộc sống trở nên chán chường, vô nghĩa:

"Ai chẳng biết chán đời là phải,

Sao vội vàng đã mải lên tiên;

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua".

Sau chữ "chẳng" xuất hiện liên tiếp 5 chữ "không" gợi tả cái trống vắng, cái cô đơn của nhà thơ, của cảnh già. Kẻ đi xa và người ở lại cùng chung nỗi niềm tâm sự "chán đời là phải". Nhà thơ kín đáo bộc lộ thái độ đối với thời cuộc trước sau không thay đổi. Như đã từng thổ lộ:

"Sách vở ích gì cho buổi ấy

Áo xiêm nghĩ tại: thẹn thân già".

(Ngày xuân dặn các con)

Cho đến trước lúc qua đời, ông vẫn không quên trăng trối con cháu:

"Đề vào mấy chữ trong bia,

Rằng: Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu".

(Di chúc)

Bạn mất đột ngột, nỗi thương tiếc, đau xót làm tê tái cả lòng. Sống trong cô đơn ngày thêm bơ vơ sầu tủi. Cuộc đời mất hết ý nghĩa: không muốn uống rượu, không thiết ngâm thơ, gian nhà và tâm hồn trở nên trống vắng, trơ trọi. Còn đâu nữa bạn tri âm tri kỉ?

"Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai, ai biết mà đưa

Giường kia treo cũng hững hờ,

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn".

Lời than khóc trở nên xót xa khi nhà thơ nhắc lại điển tích Tử Kỳ - Bá Nha và Trần Phồn - Từ Trĩ. Chiếc giường dành riêng tiếp bạn nay đã trở nên "hững hờ". Tiếng đàn cũng "ngẩn ngơ" mất hồn vì lẻ bạn. Một cách nói thậm xưng để cực tả nỗi đau tê tái khi bạn thân qua đời. Khi còn sống thì đôi bạn cùng đi chơi "dặm khách", cùng "lựa chiều cầm xoang", "rượu ngon cùng nhắp", cùng "bàn soạn câu văn"... Lúc bạn qua đời chẳng còn người tri âm tri kỉ để cùng nhau uống rượu, làm thơ, nghe đàn, năng lui tới thăm nom, chia ngọt sẻ bùi cùng nhau. Nguyễn Khuyến đã có nhiều cách nói rất sâu sắc, cảm động diễn tả sự thương xót bạn và nỗi buồn cô đơn của mình.

Bốn câu cuối bài thơ như một tiếng nấc đau đớn. Tuổi già vốn ít lệ (hạt lệ như sương), nên chỉ biết khóc ở trong lòng. Thương bạn gắn liền với bao nỗi nhớ. Khóc bạn chuyển thành nỗi niềm như cam chịu số phận bi thương. Chỉ cầu mong cho linh hồn bạn thanh thản "lên tiên":

"Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương,

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan".

Trải qua bao mưa nắng, bao thăng trầm hoạn nạn, Tam nguyên Yên Đổ còn đâu nhiêu nước mắt để khóc bạn, chí còn biết "lấy nhớ làm thương". Tuy nhiên cả bài thơ, nhất là bốn câu kết đã "chứa chan" nước mắt đau xót. Hai câu thơ: "Bác chẳng ở dẫu vẫn chẳng ở - Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương" với cách diễn đạt trùng điệp và tăng cấp đã tạo nên giọng thơ buồn thê thiết, Nguyễn Khuyến để lại nhiều tiếng khóc: khóc cho đất nước và dân tộc, khóc vợ, khóc con, khóc bạn,… Tiếng khóc nào cũng xúc động, tê tái, nặng tình, nặng nghĩa. Riêng bài "Khóc Dương Khuê" lại được viết bằng thể thơ song thất lục bát, lời khóc bạn càng trở nên thiết tha, não nùng, lúc thì nức nở, thảng thốt, lúc thì kể lể thở than, lúc thì phân trần, lúc thì trách móc, lời thơ thủ thỉ như nói với người còn sống, rất cảm động. Giọng thơ liền mạch, lời thơ tinh tế, biểu cảm đã thể hiện nghệ thuật vừa bình dị, vừa điêu luyện.

7. Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến mẫu 4

Trong nền thơ văn Việt Nam đã in dấu hơn một nghìn năm lịch sử của dân tộc, nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng đóng góp một phần vẻ vang trong đó. Những bài thơ của ông mang những tình cảm chân thực đẹp đẽ của người Việt Nam, được diễn đạt bằng ngôn ngữ Việt Nam gần gũi và giản dị. Trong số các bài thơ ấy tiêu biểu là bài “Khóc Dương Khuê”.

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng đỗ tiến sĩ và làm quan dưới triều Nguyễn, tuy nhiên sau năm 1884, đất nước rơi vào tay thực dân Pháp, Nguyễn Khuyến cáo quan về làng nhưng Dương Khuê thì không có cái chí hướng đó, ông tiếp tục làm quan cho triều đình bấy giờ là tay sai cho thực dân, cho tới lúc ông qua đời ở tuổi 64. Cái chết đột ngột của Dương Khuê là một đau của Nguyễn Khuyến. Chẳng màng đến những chuyện khác, lúc đó Nguyễn Khuyến chỉ nghĩ rằng mình đã mất đi một người bạn thân, một tình cảm quý già không có gì có thể thay thế được. Tự ông hiểu được tình bạn ấy đến chính ông cũng không đo lường hết được chiều sâu, và rồi ông kêu lên những tiếng thảng thốt:

“Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.”

Chẳng còn sự trau chuốt văn chương chữ nghĩa, câu thơ chỉ còn là nỗi đau, một nỗi đau chân thành và trọn vẹn. Tiếng “thôi” nghe dân giã mà tự nhiên làm sao, bộc phát từ chính sự đau đớn trong cõi lòng tác giả, trong hoàn cảnh xã hội mà người ta luôn đề cao sự “cao nhã” trong văn chương thì ta thấy Nguyễn Khuyến đã coi trọng sự chân thực đời thường đến mức nào. Tuy là nói đến cái chết nhưng ông lại không dám nói hẳn từ “chết”, thay vào đó là “thôi đã…thôi rồi”, vậy là coi như hết, hết thật rồi, ông đã mất đi người bạn thân mãi mãi. Kẻ quyền quý có đánh rơi viên ngọc quý độc nhất vô nhị cũng chỉ kêu đến vậy mà thôi, nếu như không đau nỗi đau thật làm sao có thể khóc tiếng khóc thật đến thế. Chỉ có điều nỗi đau ấy của Nguyễn Khuyến không thể thét lên, ông khóc với chính mình, tự mình khóc mình nghe, tiếng khóc đi vào lòng chứ chẳng thấu đến ai. Lúc này ông muốn ngồi một mình, ngồi với người bạn đã mất để cùng nhớ lại những kỉ niệm đã có từ những ngày đã rất xa xôi:

“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước…

Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời.”

Tình bạn ấy được gắn bó từ khi hai người cùng đi thi Hương và đỗ cùng nhau, hai người vốn khác quê, xa lạ, chẳng quen biết gì nhưng cứ như duyên trời định sẵn, họ cứ thế gắn bó cùng nhau. Đọc câu từ của Nguyễn Khuyến ta cảm thấy thật bình dị mà gần gũi, thân mật “sớm hôm”, “tôi bác”, “cùng nhau”, chan chứa tình cảm gắn bó, sự “kính yêu từ trước đến sau”.

“Cũng có lúc chơi nơi dặm khách…

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.”

Đôi bạn tâm đầu ý hợp đã từng trải qua những ngày tháng vui vẻ, thú vị, có tâm hồn biết thưởng thức và chia sẻ những niềm vui của kẻ cao nhân mặc khách. Tâm hồn nhà thơ như đang rung động trước những kỉ niệm, đang sống lại vói những cảm giác “từng gác cheo leo”, lắng nghe tiếng đàn tiếng hát “ả đào”. Là những người bạn đến với nhau như duyên số, thân vì lòng mến mộ nhau, nên tình bạn của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê như là chỗ tri âm tri kỉ, “Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp…Biết bao đông bích, điển phần trước sau.” Chỉ nhấp chén rượu để thưởng thức vị đậm và mùi thơm, vừa ngẫm nghĩ để cho bầu thơ thêm lai láng. Cùng phụng sự dưới một triều đại, đôi bạn thân đã cùng chi sẻ nỗi đau mất nước, ông cũng cảm thấy mình bất lực, cam chịu nặng nề. Không chỉ thương cho người bạn đã ra đi mà đây còn là sự thương mình, thương mình đã mất đi một người tri kỉ. Nguyễn Khuyến đã mang trong mình cả nỗi đau mất tri kỉ, cả nỗi đau thời thế:

“Ai chẳng biết chán đời là phải

Vội vàng chi đã mải lên tiên.”

Sự ra đi mãi mãi của người bạn tri kỉ là sự mất mát quá lớn đố với ông, sự thiếu vắng lẻ loi trong cuộc đời.

Bài thơ Khóc Dương Khuê mang một nỗi niềm tiếc nuối sâu sắc về một tình bạn tri kỉ, góp phần khẳng định về tình cảm giữa những con người với nhau. Bài thơ đã để lại cái nhìn cao đẹp về tình bạn cũng như nhân cách cao đẹp của Nguyễn Khuyến.

"Khóc Dương Khuê" thể hiện một tình bạn đẹp và cảm động của nhà nho thuở trước. Sau một thế kỉ, chúng ta vẫn thấy bùi ngùi xúc động khi đọc bài thơ này. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là khóc cho một thế hệ nhà nho và cũng là tự khóc cho mình: "Ai chẳng biết chán đời là phải"...

8. Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến mẫu 5

Nguyễn Khuyến không chỉ có những bài thơ tuyệt vời về chủ đề thiên nhiên mà ông còn có những bài thơ đặc sắc về chủ đề gia đình, bè bạn,... Khóc Dương Khuê là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông về chủ đề tình bạn. Bài thơ là tâm trạng hốt hoảng, là tấm lòng đau đớn, tiếc thương của Nguyễn Khuyến đối với Dương Khuê, người bạn tri âm, tri kỉ của mình.

Dương Khuê và Nguyễn Khuyến kết bạn từ hồi để chỏm cho đến lúc đầu bạc răng long. Tình bạn bền chặt bất chấp sự thay đổi của thời thế và cảnh ngộ riêng. Bỗng nhiên Nguyễn Khuyến được tin Dương Khuê qua đời, ông bàng hoàng thảng thốt và viết bài thơ để khóc bạn. Hai câu thơ mở đầu:

Bác Dương thôi đã thôi rồi.

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

Phong cách và bút pháp Nguyễn Khuyến vốn thâm thuý, cảm xúc lắng đọng. Tất cả nỗi đau mất bạn dường như dồn nén vào câu thơ lục bát mở đầu này. Dòng lục (Bác Dương thôi đã thi rồi) ngắn gọn cất lên tiếng kêu thương đột ngột. Tin dữ về người bạn tri âm tri kỉ đến bất ngờ quá khiến cho Nguyễn Khuyến bàng hoàng, đau đớn và thất vọng. Biện pháp nghệ thuật nói giảm “thôi đã thôi rồi”, với từ “thôi” được lặp lại hai lần có tác dụng gợi nỗi đau đột ngột, sự thảng thốt, sự trống vắng không gì bù đắp nổi.

Dòng bát (Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta) dàn trải, diễn tả về sự mất mát đau thương ấy của Nguyễn Khuyến. Từ láy “man mác” đã diễn tả được cả không gian cũng nhuộm màu tang tóc. Có lẽ, lòng người đau đến quặn thắt như đứt ra từng khúc ruột “ngậm ngùi” nên nỗi đau ấy lan toả cùng mây trời non nước. Người bạn tri âm tri kỉ vừa ra đi làm cho nhà thơ thấy hẫng hụt, trống vắng đến khôn cùng. Mười hai câu thơ tiếp theo đã nói về những kỉ niệm của hai người thời tuổi trẻ:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước

................

Biết bao đông bích, điển phần trước sau.

Sau giây phút đau đớn đến thảng thốt, bàng hoàng, khi bình tĩnh lại, một quãng đời thanh xuân êm đẹp đầy ắp kỉ niệm về tình bạn lần lượt hiện ra cụ thể và sinh động trước mắt Nguyễn Khuyến. Tất cả như sống dậy trong lòng nhà thơ. Nhớ về những ngày hai người cùng chuyên cần đèn sách:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.

Câu thơ “Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau” đã khẳng định những ngày tuổi còn trẻ tác giả và Dương Khuê luôn bên nhau cùng chuyên cần đèn sách, cùng chung chí hướng phấn đấu theo đuổi công danh. Nhớ về những ngày hai người cùng vui chơi, du ngoạn:

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo.

Nhớ về những ngày hai người, cùng vui đàn hát nơi gác hẹp:

Có khi từng gác cheo leo

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.

Nhớ những lúc hai người uống rượu bình văn:

Có khi bàn soạn câu văn

Biết bao đông bích điển phần trước sau.

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê không chỉ chuyên cần học tập mà hai người cùng có những thú vui thật tao nhã: cầm, kì, thi, hoạ... Tình bạn ấy thật trong sáng và cao đẹp. Đó là tình bạn của những nhà nho chân chính. Cả hai ông đều là những người chăm chỉ dùi mài kinh sử mong được ghi tên vào bảng vàng bia đá, lưu danh muôn thuở.

Cả hai ông đều đậu đại khoa dưới triều Nguyễn. Với biết bao kỉ niệm êm đẹp như vậy nên khi nhận tin Dương Khuê mất tâm trạng nhà thơ thảng thốt và đau đớn đến bàng hoàng.

Sau khi nhớ về những kỉ niệm êm đẹp của tuổi thanh xuân, tác giả đưa ta về với những kỉ niệm mới khó quên trong lần gặp gỡ cuối cùng của ông với người bạn cố tri Dương Khuê. Điều đó được thể hiện qua tám câu thơ tiếp theo:

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn

.................

Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.

Nguyễn Khuyến mừng cho bạn cũng là mừng cho mình vượt qua được thời buổi suy đồi, vận hạn:

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn

Phận đẩu thăng chẳng dám tham trời.

Mừng mừng tủi tủi vì hai ông bạn già gặp lại nhau và đều đang minh mẫn, khoẻ mạnh:

Cầm tay hỏi hết xa gần

Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.

Hai người lâu ngày gặp lại, mừng mừng, tủi tủi, tay cầm tay, hỏi han nhau hết việc này đến việc khác. Điều Nguyễn Khuyến mừng nhất khi gặp Dương Khuê lần cuối chính là cả hai đều vượt qua được thử thách của thời thế và của tuổi tác đang ngả chiều xế bóng. Nguyễn Khuyến cũng không ngờ rằng đó lại là lần gặp gỡ cuối cùng giữa hai người. Đây là đoạn diễn tả nỗi đau của Nguyễn Khuyến khi không còn bạn nữa. Trước hết, tác giả thấy cái chết của bạn dường như phi lí:

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày.

Tuổi đời Nguyễn Khuyến lớn hơn Dương Khuê. Cả hai ông đều là những người chăm chỉ dùi mài kinh sử mong được ghi tên vào bảng vàng bia đá, lưu danh muôn thuở nên giữa hai người không có sự ngăn cách mà thật gần gũi, gắn bó. Nên việc người bạn tri âm, tri kỉ đã ra đi, tác giả cảm thấy đột ngột đến không thế tin dù đó là sự thật. Tác giả giãi bày nỗi đau đớn khi mất bạn:

Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe tôi đã chân tay rụng rời.

Từ “rụng rời” đã diễn tả được tâm trạng đau đớn đến tái tê, bủn rủn của tác giả. Người bạn thân đã ra đi, tác giả thấy trống vắng, hẫng hụt:

Vội vàng chi đã mải lên tiên:

Rượu ngon không có bạn hiền...

Những câu thơ tiếp theo, tác giả lại nhắc về kỉ niệm một thời gắn bó giữa hai người. Đó là những kỉ niệm của một tình bạn cao đẹp, quý hiếm. Tác giả mất người bạn hiền, dường như cuộc đời cũng mất ý nghĩa. Mấy câu cuối của bài thơ đã diễn tả nỗi đau khôn tả, nỗi đau không nước mắt. Dường như nước mắt chảy ngược vào trong tạo nên nỗi đau thấm đẫm trong lòng tác giả:

“Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!"

Bằng tình cảm chân thành, bài thơ đã thể hiện sâu sắc nỗi đau mất bạn. Nỗi đau ấy hiện ra dưới nhiều cung bậc: lúc bộc phát, lúc ngậm ngùi nuối tiếc, lúc lắng đọng thâm sâu. Với tài năng và tấm lòng sâu nặng nghĩa tình, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã để lại cho đời một bài thơ nổi tiếng về khóc bạn. Bài thơ rất thành công về mặt nghệ thuật: câu hỏi tu từ, điệp từ điệp ngữ, từ láy... Tất cả các biện pháp nghệ thuật ấy có tác dụng nhấn mạnh nỗi đau đớn khôn nguôi của tác giả khi người bạn tri âm tri kỉ của mình qua đời.

Qua bài thơ, ta thấy Nguyễn Khuyến không chỉ là người tài cao học rộng mà còn là người rất nghĩa tình. Ông thuỷ chung trong tình bạn. Tình cảm đối với bạn của tác giả thật đáng trân trọng, đáng cho chúng ta học tập.

9. Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến mẫu 6

Ngạn ngữ phương Tây có câu “Tình bạn là đoá hồng không gai” thật vậy, tình bạn như đoá hồng đầy hương sắc luôn mang đến cho con người sự nhẹ nhàng, bình yên, thật may mắn cho những người bạn có những người bạn thân thiết bên mình- đó như là một bước đệm nâng đỡ con người bước vào cuộc sống đầy thử thách, gian nan.

Văn học Việt Nam không thiếu những bài thơ hay viết về tình bạn, một trong số đó là bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến, tác phẩm như một viên ngọc trai lấp lánh toả sáng về tình bạn đẹp, vững bền của con người con người trong cuộc sống. Hai câu thơ đầu:

Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta

Câu thơ nói giảm nói tránh đã nói đến sự mất mát ra đi của Dương Khuê, để lại sau đó là nỗi buồn ngậm ngùi không biết giải tỏa cùng ai. Tình cảm bạn bè vô cùng tha thiết nhưng ẩn sau đó là nỗi đau không thể nói nên lời, tình bạn giữa Dương Khuê vô cùng gắn bó, keo sơn. Lời thơ như một tiếng kêu thương đột ngột cất lên với những nỗi niềm thất vọng. Sụa ra đi vcuar người bạn để lại trong lòng Nguyễn Khuyến nỗi mất mát trống vắng không phương bù đắp.

Từ câu ba đến câu hai mươi hai là cách tác giả kể lại quá trình tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê: đó là lúc hai người gắn bó với nhau từ những ngày đi học, có bất cứ chuyện gì cũng vẫn trao đổi, sẻ chia với nhau- những kỉ niệm ấy trở thành những kĩ ức không thể nào quên:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau

Kính yêu từ trước đến sau

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?

Nhân duyên giữa hai người bạn này thật kì lạ không phải là nhân duyên của những con người bình thường mà là nhân duyên của những đôi bạn cùng tiến, những kỉ niệm về người bạn của mình cứ ùa về trong tâm thức tác giả không thể nào kiểm soát lay động, nó quá khác biệt so với thực tế trần trụi và nhiều đau khổ quá:

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo

Có khi từng gác cheo leo

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang

Nguyễn Khuyến nhớ lại lần gặp gỡ cuối cùng cách đây ba năm, lúc đó cả ông và bạn đều mừng mừng tủi tủi. Mừng mừng tủi tủi bởi cả hai đều vượt qua mọi thử thách của thời thế và tuổi tác:

Cầm tay nhau hỏi hết xa gần

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can

Ấy thế mà giờ đây, bạn đã không còn nữa. Mất bạn nhà thơ như hụt hẫng như mất đi một phần cơ thể:

Làm sao bác vội về ngay

Chợt nghe tôi bỗng thấy chân tay rụng rời

Nguyễn Khuyễn ngạc nhiên vì bạn ít tuổi hơn mình, vững vàng hơn mình mà đã vội quy tiên. Đau đớn đến tái tê, ông chỉ biết còn buông lời trách bạn mà lòng đầy xót thương: Vội vàng chi đã mải lên tiên. Để rồi cuối cùng trong lòng người bạn già chỉ còn lại mênh mang, ngập tràn cảm giác trông vắng, mà bất cứ ai khi mất đi người thân đều phải trải qua:

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa

Giường kia treo cũng hững hờ,

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.

Thương bạn, nhớ bạn mà Nguyễn Khuyến chỉ biết khóc. Nhưng tuổi già hạt lệ như sương, ông đâu còn nước mắt để khóc bạn. Ấy vậy mà người đọc vẫn cảm nhận sâu sắc nỗi đau tận trong tâm nhà thơ:

Khóc anh không nước mắt

Mà lòng đau như cắt

Gọi anh chửa thành lời

Mà hàm răng dính chặt

(Viếng bạn- Hoàng Lộc)

Nỗi đau mất bạn ấy Nguyễn Khuyến không biết tỏ cùng ai đành gửi tất cả vào thơ để mong phần nào an ủi được người bạn đã khuất. Cách nói của tác giả rất nhẹ nhàng nhưng ẩn đằng sau đó là nỗi đau đớn tột cùng, bởi không ai hết chỉ có Dương Khuê mới hiểu được Nguyễn Khuyến và cũng chỉ có Nguyễn Khuyến mới trở thành người bạn tâm giao, trọn đời của Dương Khuê, bởi cuộc đời của những con người này đã gắn với những kỉ niệm không thể nào quên, chúng như những dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ:

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp

Chén quỳnh hương ăm ắp bầu xuân

Có khi bàn soạn câu văn

Biết bao đông bích, điển phần trước sau

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn

Phận đẩu thăng chẳng dám than trời

Bác già tôi cũng già rồi

Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!

Nhắc lại những kỉ niệm để người ta biết rằng tình bạn chân thành vốn khó tìm ở trong cuộc đời này, và những người bạn ấy đã trở thành tri âm tri kỉ của nhau không bao giờ có thể phai nhạt, người này mất đi người kia đau khổ tột cùng, chẳng thể nào xoa dịu được nỗi đau ấy, tình bạn chân thành quả thật là viên ngọc sáng chói trong mỗi người. Nguyễn Khuyến đã cho chúng ta những vần thơ thật đẹp, thật sâu về người bạn.

Những câu thơ còn lại là những nỗi đau hụt hẫng mất mát, đó là nỗi đau, là cú sốc tinh thần không thể chia sẻ, không thiết nên lời với những từ ngữ diễn tả cảm xúc: “Những hờ”, “ngẩn ngơ”, “hạt lệ như sương”, lấy nhớ làm thương.

Khóc Dương Khuê là một trong những bài thơ đẹp để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc về tình bạn thắm thiết, tình bạn thủy chung son sắt, tác giả đã sử dụng cách nói giảm nói tránh để giảm nhẹ nỗi đau của sự việc, không chỉ thế tác giả còn sử dụng nhiều điển tích điển cố, từ ngữ, hình ảnh giàu sức biểu cảm và kết cấu đảo ngữ để tạo nên một bài thơ trọn vẹn nhiều dư vị trong lòng bạn đọc.

Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới bạn đọc bài viết Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến, mong rằng qua bài viết này các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn 11. Mời các bạn cùng tham khảo thêm các môn Toán 11, tiếng Anh 11, đề thi học kì 1 lớp 11, đề thi học kì 2 lớp 11...

Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 11 để có thêm tài liệu học tập nhé

Đánh giá bài viết
1 2.257
Sắp xếp theo

    Ngữ văn lớp 11

    Xem thêm