Phân tích câu Vì chưng hay ghét cũng là hay thương

Yêu và ghét là hai mặt của trạng thái tình cảm con người. Yêu hay ghét cũng là điều để ta suy ngẫm. Ngày hôm nay VnDoc.com xin gửi tới bạn đọc bài viết văn mẫu lớp 11: Phân tích câu Vì chưng hay ghét cũng là hay thương dưới đây được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 11 hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra môn Ngữ văn 11 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo chi tiết và tải về tại đây nhé.

Văn mẫu: Phân tích câu Vì chưng hay ghét cũng là hay thương

Sự yêu ghét cũng là điều để ta suy ngẫm, chiêm nghiệm. Nguyễn Đình Chiểu, “một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học dân tộc” đã góp một tiếng nói để bày tỏ quan điểm của mình. “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” (Truyện Lục Vân Tiên). Vậy ta cần hiếu vấn đề đó ra sao?

Yêu và ghét là hai mặt của trạng thái tình cảm con người. Yêu là yêu mến, quý trọng. Yêu là tình cảm đầy thiện ý. Yêu ai cũng muốn tốt cho người đó. Tình cảm yêu mến thường chỉ dành cho cái đẹp, cái tốt, cái thiện. Ngược lại ghét là ghét bỏ, không yêu thương. Ghét thường chí dành cho cái xấu xa, sai trái.

Như vậy ghét và thương như hai mặt đối lập, mâu thuẫn với nhau, tưởng chừng như có ghét thì không có thương và ngược lại. Nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng rất khăng khít giữa thương và ghét: “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”. “Hay ghét cũng là hay thương” tức là ghét một điều gì đó cũng có nghĩa là thương một điều khác.

Hay ghét, nhưng là ghét cái xấu xa, thấp hèn. Trong Truyện Lục Vân Tiên,ông Quán “ghét việc tầm phào”, “ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm” những kẻ “mê dâm”, “ác bá” khiến nhân dân khổ đau điêu đứng “sa hầm sẩy hang”. Là người dân của một nước, ta ghét những kẻ bán nước, những kẻ tham nhũng, những tên tội phạm.

Là học sinh, ta ghét những tiêu cực học đường: quay cóp, lười biếng, vô lẻ, chạy điểm… Nhưng tại sao lại ghét những điều đó?

Đúng như Nguyễn Đình Chiểu quan niệm “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”. Ông Quán ghét những “đời Kiệt, Trụ” bời ông “thương đức thánh nhân”, thương nhân dân lầm than đau khổ phải chịu những oan ức, thiệt thòi do những, kẻ đáng ghét gây ra. Ta ghét những kẻ bán nước, những tên tham ô, phạm tội bởi ta yêu quê hương, đất nước, thương yêu đồng bào, dân tộc mình. Học sinh ghét tiêu cực trong học đường là bởi thương những bạn học nghiêm túc, thương tiếc công sức thầy cô, cha mẹ dày công dạy dỗ…

Biểu hiện của sự ghét, thương thật nhiều hình, nhiều vẻ. Lẽ thường tình ghét là căm thù, ghét bỏ, gây khó dỗ… Yêu thương là nâng niu, quý mến… Nhưng cũng có khi, vì nhiều lý do, mục đích khác mà mọi thứ đảo ngược lại là “Yêu cho roi cho vọt. Ghét cho ngọt cho bùi” như ông bà ta van dạy.

Dù “cho roi cho vọt” hay "cho ngọt cho bùi”, con người phải biết yêu, ghét đúng đối tượng, đúng nơi, đúng lúc. Yêu đúng,. ghét đúng vì yêu ghét điều gì cũng thể hiện nhân cách con người. Kẻ yêu cái sai ghét cái đúng đâu phải là người hay? Cũng như Nguyễn Cao Kì và bè lũ ngụy quyền Sài Gòn trước đây tôn thờ chủ nghĩa xâm lược của đế quốc Mĩ mà phản bội nhân dân, đàn áp cách mạng, có ai không lên án, khinh miệt chúng? Ngược lại, người yêu cái đẹp, ghét cái xấu chính là người đáng trọng. Điều này ta có thể nhìn thấy ỏ' nhân cách cao khiết của con người Cao Bá Quát “Nhất sinh đệ thủ bái hoa mai” – ca cuộc đời chí tôn thờ, trân trọng cái đẹp, cái thanh cao mà khinh thường sự thấp hèn, uốn gối, khom lưng bợ đỡ người trên. Yêu đúng, ghét đúng còn bởi như nhà văn Nam Cao từng nhộn định "Đánh giá sai về một con người là làm khổ con người đó suốt đời”. Người tốt đáng ra phái được hưởng điều tốt đẹp, được yêu thương vậy mà ta lại ghét bỏ thì quả là đáng tội cho họ.

Để yêu đúng, ghét đúng, bản thân mọi người phải thấm nhuần các chuẩn mực đạo đức ở một mức nhất định để có khả năng nhìn nhận, phân định sự việc. Muốn thế, mỗi cá nhân cần học tập, rèn luyện để có được thế giới quan tiến bộ. Bên cạnh đó cũng cần tỉnh táo, bình tĩnh phân tích nhìn ra bản chất thực sự của đối tượng cần đánh giá. Đánh giá con người cần nhìn vào sự vận động biện chứng của nhân cách, có sự vị tha khoan dung và thông cảm.

Yêu và ghét là hai mặt của tình cảm con người, chúng thiêng liêng bởi đặc trưng tình người – chi con người mới. Bởi vậy, trong cuộc sống, con người cần biết yêu, biết ghét để cuộc sống được đủ đầy vẻ xúc cảm, tinh thần.

-----------------------------------------

Phân tích câu Vì chưng hay ghét cũng là hay thương vừa được VnDoc.com gửi tới bạn đọc. Qua bài viết chắc hẳn bạn đọc đã nắm được những ý chính cần có trong bài viết rồi đúng không ạ? Bài viết cho thấy được sự yêu và sự ghét trong cuộc sống của chúng ta. Vậy yêu là gì? và ghét là gì? Yêu là yêu mến, quý trọng. Yêu là tình cảm đầy thiện ý. Yêu ai cũng muốn tốt cho người đó. Tình cảm yêu mến thường chỉ dành cho cái đẹp, cái tốt, cái thiện. Ngược lại ghét là ghét bỏ, không yêu thương. Ghét thường chí dành cho cái xấu xa, sai trái. Ghét và thương như hai mặt đối lập, mâu thuẫn với nhau, tưởng chừng như có ghét thì không có thương và ngược lại. Nhưng với Nguyễn Đình Chiểu thì ghét và thương lại có mối quan hệ khăng khít với nhau. Để yêu đúng, ghét đúng, bản thân mọi người phải thấm nhuần các chuẩn mực đạo đức ở một mức nhất định để có khả năng nhìn nhận, phân định sự việc. Mỗi cá nhân cần học tập, rèn luyện để có được thế giới quan tiến bộ. Bên cạnh đó cũng cần tỉnh táo, bình tĩnh phân tích nhìn ra bản chất thực sự của đối tượng cần đánh giá. Trong cuộc sống, con người cần biết yêu, biết ghét để cuộc sống được đủ đầy vẻ xúc cảm, tinh thần. Mong rằng qua bài viết bạn đọc cần có thêm tài liệu để học tập và thêm ý tưởng để xây dựng bài viết cho mình nhé.

Trên đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu Phân tích câu Vì chưng hay ghét cũng là hay thương cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 11 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 11 và biết cách soạn bài lớp 11 các bài Tác giả - Tác phẩm Ngữ Văn 11 trong sách Văn tập 1 và tập 2. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.

Đánh giá bài viết
1 866
Sắp xếp theo

    Văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức

    Xem thêm