Phân tích khổ 3 bài Tràng Giang của Huy Cận

Phân tích khổ 3 bài Tràng Giang của Huy Cận là một đề bài ngắn và dễ gặp mỗi khi nhắc tới tác phẩm này. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây để có thêm tài liệu nhé.

I. Dàn ý bài phân tích khổ thơ thứ 3 bài Tràng Giang

Dàn ý bài phân tích khổ thơ thứ 3 bài Tràng Giang mẫu 1

1. Mở bài

  • Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ Tràng giang
  • Dẫn dắt vào vấn đề: khổ thơ thứ ba trong bài Tràng giang

2. Thân bài

a. Khái quát chung

Với nhan đề, nhà thơ đã khéo gợi lên một vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại:

“Tràng giang” gợi hình ảnh một con sông dài, rộng lớn.

Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt để gợi không khí cổ kính trang nghiêm. Tác giả còn sử dụng từ biến âm “tràng giang” thay cho “trường giang”, hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.

Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” gợi nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc. Đồng thời cho người đọc thấy rõ hơn cảm xúc chủ đạo của tác giả xuyên suốt tác phẩm. Đó là tâm trạng “bâng khuâng”; nỗi buồn mênh mang, không rõ nguyên cớ nhưng da diết, khôn nguôi. Đó còn là không gian rộng lớn “trời rộng sông dài” khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi, tội nghiệp.

→ Bài thơ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của thi nhân khi đứng trước cảnh sông nước bao la trong một buổi chiều đầy tâm sự.

b. Phân tích khổ thơ thứ 3 trong bài Tràng giang

- “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: phải chăng hình ảnh thơ ngoài ý nghĩa tả thực còn có ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng: Nhà thơ đang sống trong cảnh mất nước, nô lệ, nên đã cảm nhận được cả thế hệ thanh niên lúc đó cũng như mình đang vật vờ, lênh đênh, trôi dạt, bị cuộc đời cuốn đi mà không biết trôi về đâu?

Câu 2, 3: Cảnh mênh mông, buồn bã, trống vắng quạnh hiu của “Tràng giang” càng được nhân lên bắng mấy lần phủ định: “Không đò… không cầu...”. Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ là biểu hiện của sự giao nối của con người và cuộc sống, thường gợi về cuộc sống tấp nập, gần gũi và gợi nhớ quê hương. Nhưng ở đây, tất cả bị phủ định: không một cái gì đó gợi về tình người, lòng người muốn gặp gỡ lại qua nơi đôi bờ hoang vắng. Hai bờ sông cứ thế chạy dài vô tận như hai thế giới cô đơn, không chút “niềm thân mật” của những tâm hồn đồng điệu.

Câu 4: Cảnh “tràng giang” chỉ còn “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Câu thơ đã vẽ lên được một bức tranh thật đẹp, tĩnh lặng nhưng rất buồn.

c. Tiểu kết

Bốn câu thơ, bốn hình ảnh, tất cả đều gợi buồn. Chúng “cộng hưởng” với nhau tạo thành bức tranh gợi về số phận nổi trôi, bơ vơ, bất hạnh, cô đơn của kiếp người trong xã hội cũ.

Nghệ thuật sử dụng thủ pháp quen thuộc của thơ cổ điển: lấy “không” để nói “có”.

3. Kết bài

Nêu nhận xét, cảm nhận khái quát về khổ thơ thứ ba

Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân

Dàn ý bài phân tích khổ thơ thứ 3 bài Tràng Giang mẫu 2

I, Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, phạm vi phân tích

1, Tác giả:

-Là một trong những trụ cột của phong trào thơ mới

– Trước Cách Mạng, ông thường viết về thiên nhiên, vũ trụ với nỗi buồn của con người gắn bó với quê hương, đất nước.

– Sau Cách Mạng, hồn thơ lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động.

2, Tác phẩm:

-Trích trong tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” (1939)

3, Nội dung phân tích: bài thơ là nỗi lòng của một cá thể cô đơn trước vũ trụ vô tận, trước dòng đời mênh mang

II, Thân bài:

1, Khái quát:

a, Hoàn cảnh sáng tác: Trích trong tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” (1939)

-Cảm hứng sáng tác: Cảm hứng từ một buổi chiều mùa thu, khi tác giả một mình đứng ở bờ Nam bến Chèm, nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước

b, Nhan đề:

+ Phép điệp âm “ang” à gợi hình ảnh con sông lớn, rộng mênh mông

+ Là một từ Hán Việt cổ nên gợi hình ảnh con sông cổ kính, lâu đời.

c, Lời đề từ:

+ Thâu tóm nội dung của cả bài thơ

+ Các hình ảnh “trời rộng”, “sông dài” gợi những phạm vi, không gian khác nhau

+ Cảm xúc của nhà thơ: nỗi buồn nhớ nhẹ nhàng, man mác


=>Vừa có tác dụng định hướng, vừa tạo tính cổ điển, hiện đại

2, Phân tích:

Khổ 3: Nỗi buồn của cảnh vật gắn với nỗi sầu nhân thế (trích thơ)

-Câu 1,2

+ Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: gợi sự bấp bênh, trôi nổi của những kiếp người vô định

+ Hình ảnh “bờ xanh tiếp bãi vàng”: thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, không có bóng dáng của con người

-Câu 3,4

+ Cấu trúc phủ định “không….. không” phủ nhận hoàn toàn những kết nối của con người

=>Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn bao trùm

3, Đánh giá:

a, Nghệ thuật:

– Sử dụng những chất liệu, thi liệu gần gũi với đời sống

– Bút pháp chấm phá, lấy cảnh để nói tâm trạng được sử dụng linh hoạt

– Tiếp thu và làm mới thơ cổ điển

b, Nội dung:

-Nỗi buồn, nỗi cô đơn của tác giả khi đứng trước quê hương nhưng quê hương đã không còn

– Mong muốn tìm kiếm hơi ấm của con người nhưng cái nhận lại chỉ là thất vọng cùng cô đơn

– Bộc lộ kín đáo lòng yêu nước sâu đậm

III, Kết bài:

– Tổng kết lại vấn đề

– Nêu cảm nhận của bản thân

II. Văn mẫu Phân tích khổ thơ thứ 3 bài Tràng Giang

Phân tích khổ thơ thứ 3 bài Tràng Giang mẫu 1

Mỗ nhà thơ, nhà văn viết được những tác phẩm của mình thì cần có nguồn cảm hứng bất tận. Mỗi cái cây, nhành hoa, ngọn cỏ đều có thể trở thành nguồn cảm hứng để họ bộc lộ cảm xúc, tài năng văn học. Dòng sông cũng không ngoại lệ, đứng trước dòng chảy miên man của con nước, có rất nhiều tác giả đã sáng tác ra những bài thơ, bài văn, bút kí hay mà trong đó nổi bật ta phải nhắc đến chính là tác giả Huy Cận với bài thơ Tràng giang. Bài thơ đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, của dòng sông mang chút đượm buồn, tiêu biểu trong bài thơ, khổ thơ thứ ba đã lột tả rõ nét vẻ đẹp trầm mặc của thiên nhiên:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Hình ảnh cánh bèo từ bao lâu nay gửi mình vào trong thơ luôn là hình ảnh gợi về sự mỏng manh, vô định và rẻ rúm của kiếp người. Trước cảnh "mênh mông" sông dài trời rộng, cánh bèo xanh nổi như nét điểm xuyết gợi lên cả kiếp người: bé nhỏ và vô định. Những hàng bèo nối đuôi nhau, cứ chảy trôi bất tận, dòng sông hay cũng chính là dòng đời vô định chảy trôi khiến cho kiếp người bé nhỏ cảm thấy bơ vơ, bế tắc và mất phương hướng. Giữa bao la sông nước ấy, một chuyến đò ngang gợi niềm thân mật, gợi sự kết nối cũng không xuất hiện dù chỉ thoáng qua càng gợi sự đơn độc, cô quạnh. Điệp từ "không" như điểm nhấn cho sự vắng vẻ ở đây. Hai câu thơ với hai lần phủ định “không đò”, “không cầu” dường như càng tô đậm hơn cái mênh mông của sông nước và nhấn mạnh thực trạng không có sự giao lưu gặp gỡ giữa người với người. Chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên “bờ xanh” với “bãi vàng” nối tiếp nhau âm thầm, lặng lẽ và tẻ nhạt.

Khổ thơ đã vẽ ra trước mắt bạn đọc mọt bức tranh đượm buồn của thiên nhiên trước sự cảm quan của tác giả Huy Cận. Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã mang đến cho bạn đọc một góc nhìn khác, đẹp nhưng sầu tư khiến chúng ta lắng đọng. Bài thơ sẽ mãi là một kiệt tác tiêu biểu không gì có thể thay thế mà nhà thơ Huy Cận dành cho nền văn học Việt Nam và mãi là niềm tự hào của bao thế hệ con người Việt Nam ta.

Phân tích khổ thơ thứ 3 bài Tràng Giang mẫu 2

Kho tàng văn học Việt Nam đã ghi danh của bao nhà thơ, nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm tiêu biểu. Một trong số đó không thể không nhắc đến nhà thơ Huy Cận với bài thơ Tràng Giang. Khổ thơ thứ ba trong bài đã khắc họa bức tranh thiên nhiên đượm buồn và làm nổi bật tâm trạng của người nghệ sĩ.

Tràng Giang là một bài thơ nổi tiếng vì không chỉ có nội dung hay, đặc sắc mà còn có nhan đề độc đáo. “Tràng giang” đã khéo gợi lên một vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại của một con sông dài, rộng lớn. Vốn dĩ, từ “Trường giang” dùng để chỉ con sông rộng lớn nhưng dưới ngòi bút tài tình của tác giả, ông đã biến tấu thành “Tràng giang” hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Đoạn thơ không chỉ lột tả vẻ đẹp buồn man mác, bâng khuâng của dòng sông mà còn khéo léo gửi gắm tâm tư, nỗi lòng của người nghệ sĩ trước cảnh đẹp bình dị đó.

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”

Hình ảnh những đám bèo nối tiếp nhau lững thững trôi dạt trên dòng sông, “hàng nối hàng” gợi cảm giác trải dài miên man vô tận. Phải chăng hình ảnh thơ ngoài ý nghĩa tả thực còn có ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng: Nhà thơ đang sống trong cảnh mất nước, nô lệ, nên đã cảm nhận được cả thế hệ thanh niên lúc đó cũng như mình đang vật vờ, lênh đênh, trôi dạt, bị cuộc đời cuốn đi mà không biết trôi về đâu?

Không chỉ đám bèo lênh đênh trên mặt nước mà khung cảnh thiên nhiên nơi đây vẫn đầy hoang sơ:

Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Cảnh mênh mông, buồn bã, trống vắng quạnh hiu của “Tràng giang” càng được nhân lên bắng mấy lần phủ định: “Không đò… không cầu...”. Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ là biểu hiện của sự giao nối của con người và cuộc sống, thường gợi về cuộc sống tấp nập, gần gũi và gợi nhớ quê hương. Nhưng ở đây, tất cả bị phủ định: không một cái gì đó gợi về tình người, lòng người muốn gặp gỡ lại qua nơi đôi bờ hoang vắng. Hai bờ sông cứ thế chạy dài vô tận như hai thế giới cô đơn, không chút “niềm thân mật” của những tâm hồn đồng điệu.

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Khung cảnh buồn càng thêm buồn khi “tràng giang” chỉ còn “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Câu thơ đã vẽ lên được một bức tranh thật đẹp, tĩnh lặng nhưng đượm buồn. Đoạn thơ chỉ có khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, lặng lẽ mà không có một âm thanh dù chỉ là xơ xác. Bức tranh hoàn toàn tĩnh lặng, đằng sau vẻ tĩnh lặng ấy là nỗi lòng, tâm sự trong lòng người thi sĩ. Trước không gian buồn man mác là một lòng người đau đáu trước cảnh đất nước đang bị xâm lược chìm trong đau khổ, tương lai của con người không biết sẽ đi đâu về đâu.

Đoạn thơ đã vẽ ra trước mắt bạn đọc bức tranh khung cảnh thiên nhiên đượm buồn trước con sông rộng lớn và tâm trạng buồn bã của người thi sĩ trước khung cảnh đó. Nhiều năm tháng qua đi nhưng tác phẩm vẫn giữ nguyên vẹn vẻ đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.

Phân tích khổ thơ thứ 3 bài Tràng Giang mẫu 3

Huy Cận là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất trong phong trào Thơ mới. Giữa rừng hoa thơ mới, ông nổi bật với bút lực dồi dào và phong cách sáng tác đa dạng. Nếu sau cách mạng tháng Tám thơ ông sôi nổi, nhiệt huyết phù hợp với không khí đổi mới của thời đại thì trước cách mạng Huy Cận được biết đến là một hồn thơ u sầu, ảo não. Tràng giang là bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác trước cách mạng và cũng chính là cái "tôi" cô đơn, ảo não của Huy Cận trước thời cuộc. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ ba, nhà thơ đã bộc lộ rõ nét nỗi nhớ quê hương, tâm trạng cô đơn, khắc khoải trước không gian sông nước mênh mông, buồn vắng.

Tràng giang được Huy Cận sáng tác trong một buổi chiều mùa thu, khi tác giả đứng ở bến đò Chèm ngắm nhìn cảnh sông nước mênh mang. Và cũng có lẽ do được sáng tác trong một không gian đặc biệt như vậy nên nhà thơ cảm nhận thấm thía được sự nhỏ bé, đơn độc của mình giữa thời cuộc. Trong khổ thơ thứ ba của bài, từng câu thơ đều khắc khoải một nỗi buồn man mác:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Khổ thơ không chỉ tái hiện lại không gian buồn vắng của sông nước mênh mông mà còn gửi gắm vào đó những tâm sự, nỗi lòng của mình về cuộc đời, về con người, thời cuộc. Hình ảnh đám bèo dạt trong câu thơ "Bèo dạt về đâu hàng nối hàng" không chỉ là hình ảnh tả thực mà nhà thơ quan sát được khi đứng ở bến đò mà còn là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho chính nhà thơ, cho cả một thế hệ thanh niên yêu nước lúc bấy giờ. Đám bèo trôi dạt trên sông cũng giống như thế hệ thanh niên yêu nước đang lênh đênh, trôi dạt giữa thời cuộc. Họ đang phải sống trong cảnh nô lệ, không chấp nhận sự bất công của thời cuộc nhưng cũng không thể làm gì để đổi thay. Và những con người ấy rồi sẽ ra sao, thời cuộc sẽ cuốn trôi về đâu?

Đối mặt với sự cô đơn, bất lực, nhà thơ hướng sự chú ý vào khung cảnh xung quanh như để "níu kéo" một chút hi vọng dù nhỏ bé nhưng đành phải ôm lấy thất vọng:

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Cảnh vật xung quanh rộng lớn nhưng hoang vắng, quạnh quẽ, không có lấy một dấu hiệu của sự sống "không một chuyến đò ngang", không chút "niềm thân mật". Phải chăng khi con người buồn thì cảnh vật cũng thấm đượm tâm trạng con người như nhà thơ Nguyễn Du từng viết "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".

Câu phủ định "không...không" càng tô đậm thêm khung cảnh vắng vẻ quạnh hiu nơi sông nước mênh mông. Chuyến đò ngang, chiếc cầu là những vật thường xuất hiện nơi sông nước, là phương tiện gắn kết con người với dòng sông, nó gợi ra nhịp sống tấp nập của con người. Thế nhưng ở đây, dù cố gắng tìm kiếm nhưng nhà thơ lại chẳng thể tìm thấy. Dòng sông dài rộng trở nên vắng vẻ, rợn ngợp, con người cô đơn và dòng sông hay cũng chính là cuộc đời rộng lớn ngoài kia như hai đối cực, không một chút "niềm thân mật".

Khổ thơ thứ ba khép lại với hình ảnh bờ xanh tiếp bãi vàng:

"Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng"

Ở câu thơ cuối, nhà thơ Huy Cận đã sử dụng những gam màu tươi sáng xanh, vàng để chấm phá cho bức tranh. Tưởng như những sắc màu này sẽ phần nào xua đi cảm giác đơn độc, u tối cho bức tranh thơ, thế nhưng từ láy "lặng lẽ" đầu câu lại làm cho dòng cảm xúc chưa kịp thăng hoa đã trầm xuống. Câu thơ làm cho cảnh sông nước càng trở nên đìu hiu, vắng lặng.

Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn trong khổ thơ thứ ba, nhà thơ Huy Cận đã dựng lên trước mắt người đọc bức tranh cảnh-tình thực sinh động nhưng cũng thật tâm trạng. Mỗi cảnh vật đều chan chứa cảm xúc, nỗi buồn của người thi sĩ, đây cũng chính là cái tài, cái tình của Huy Cận trong Tràng giang.

Phân tích khổ thơ thứ 3 bài Tràng Giang mẫu 4

Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong phong trào Thơ mới, thơ Huy Cận bật lên trong phong trào Thơ Mới với nỗi buồn mênh mang, khắc khoải, đó là nỗi sầu của một cái tôi giàu ý thức, giàu suy tư về cuộc đời và con người.

“Tràng giang” (trích trong tập thơ “Lửa thiêng”) là bài thơ tiêu biểu, thể hiện rõ nhất phong cách thơ của Huy Cận, trong mỗi khổ thơ đều chất chứa nỗi buồn da diết. Đặt cái nhỏ bé của con người trước thiên nhiên mênh mông, Huy Cận đã thành công khơi dậy nỗi cô đơn, cảm giác chơi vơi, lạc lõng của con người giữa dòng đời rộng lớn.

Tiếp nối mạch cảm xúc được gợi ra từ hai khổ thơ đầu, đến khổ thơ thứ 3 nỗi buồn vẫn được khắc sâu vào hình ảnh ngoại cảnh:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Hình ảnh bèo dạt lênh đênh, lênh đênh vô định lại thêm sự chia ly tan tác, trời rộng mênh mông nhưng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người “không một chuyến đò ngang”, cũng không có nổi một cây cầu để gắn kết, tạo sự gần gũi với con người. Chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên “bờ xanh” với “bãi vàng” nối tiếp nhau, có thể nói, nỗi buồn của tác giả không dừng lại ở nỗi buồn trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn về nhân thế, cuộc đời.

Xuyên suốt bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận, đặc biệt là qua khổ thơ thứ 3, nỗi buồn của người thi nhân cứ triền miên, vô tận, đó là cái buồn của một “cái tôi” đang cô đơn trống trải giữa thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Bài thơ mới chấm phá nét cổ điển đã khắc họa rõ nỗi buồn nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời của nhà thơ, đồng thời là tình cảm nhớ thương đối với quê hương, đất nước.

Phân tích khổ thơ thứ 3 bài Tràng Giang mẫu 5

Mỗi nhà thơ, nhà văn khi viết ra những tác phẩm của mình đều cần có nguồn cảm hứng bất tận. Đối với họ, nguồn cảm hứng có thể tồn tại khắp mọi nơi. Mỗi cái cây, nhành hoa, ngọn cỏ đều có thể trở thành nguồn cảm hứng để họ bộc lộ cảm xúc và tài năng văn học của mình. Dòng sông cũng không ngoại lệ, đứng trước dòng chảy miên man của con nước, nhiều tác giả đã tìm thấy nguồn cảm hứng để sáng tác những bài thơ, bài văn, và bút kí đáng nhớ.

Trong số những tác giả nổi tiếng có thể kể đến, không thể bỏ qua tác giả Huy Cận với tác phẩm nổi tiếng "Tràng Giang". Bài thơ này đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên và của dòng sông với một tinh thần buồn bã. Trong bài thơ, khổ thơ thứ ba đặc biệt lôi cuốn khiến người đọc cảm nhận rõ nét vẻ đẹp trầm mặc của thiên nhiên:

"Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."

Hình ảnh cánh bèo trong bài thơ luôn gợi lên cảm giác về sự mỏng manh, vô định và nhẹ nhàng của cuộc sống con người. Trước một dòng sông vô tận, cánh bèo xanh nổi lên như những điểm nhấn, khiến ta nghĩ đến tính nhỏ bé và không chắc chắn của cuộc đời con người. Hàng bèo liên tiếp nối nhau, trôi đi vô tận, tượng trưng cho cuộc sống không ngừng thay đổi và không thể dự đoán, khiến cuộc sống trở nên như một cuộc hành trình đầy bất định và thách thức.

Mặc dù trong bài thơ không có sự gợi mở về sự gắn kết hay niềm thân mật, chỉ có sự lặng lẽ của bờ sông xanh và bãi cát vàng tiếp nhau, nhưng điều này càng làm nổi bật sự cô đơn và xa cách trong cuộc sống. Điều này đặc biệt được nhấn mạnh bằng những từ phủ định như "không đò" và "không cầu". Cả hai câu thơ này đều tạo ra một không gian trống rỗng, đồng thời làm nổi bật sự thiếu vắng và cô đơn của cuộc sống con người.

Khổ thơ này vẽ lên trước mắt độc giả một bức tranh của thiên nhiên đầy nỗi buồn và sâu lắng trong tâm hồn tác giả. Bài thơ không chỉ đẹp mà còn mang sự xúc động, thúc đẩy chúng ta suy tư về ý nghĩa của cuộc sống và sự kết nối của con người với tự nhiên. Bài thơ "Tràng Giang" của Huy Cận sẽ mãi là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc, không thể thay thế, và là niềm tự hào của văn học Việt Nam qua các thế hệ.

Phân tích khổ thơ thứ 3 bài Tràng Giang mẫu 6

Huy Cận, một trong những ngôi sao sáng của phong trào Thơ mới, tỏa sáng giữa biển hoa thơ mới bằng tài năng sáng tạo đa dạng và sức mạnh bút lực. Nếu sau Cách mạng tháng Tám, ông nổi tiếng với sự sôi động và nhiệt huyết phù hợp với tinh thần đổi mới của thời đại, thì trước sự kiện lịch sử đó, Huy Cận được biết đến với một hồn thơ đầy u sầu và tương tư. Tràng Giang, một tác phẩm tiêu biểu của ông trước cuộc cách mạng, thể hiện rõ nét sự cô đơn và khao khát quê hương, sự lặng lẽ buồn vắng trước vẻ đẹp mênh mông của sông nước.

Bài thơ Tràng Giang được sáng tác trong một buổi chiều mùa thu, khi tác giả đứng ở bến đò Chèm để ngắm nhìn cảnh sông nước vô cùng hùng vĩ. Có lẽ chính không gian đặc biệt này đã khiến cho Huy Cận cảm nhận rõ hơn sự nhỏ bé và cô đơn của mình giữa bức tranh thời cuộc rộng lớn. Trong khổ thơ thứ ba của bài thơ, mỗi câu thơ truyền đạt một nỗi buồn sâu sắc:

"Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."

Khổ thơ này không chỉ tái hiện không gian buồn vắng của sông nước mênh mông, mà còn chứa đựng những tâm sự và nỗi lòng về cuộc đời, về con người và thời cuộc. Hình ảnh những hàng bèo trôi dạt trong câu thơ "Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng" không chỉ là hình ảnh thực tế mà Huy Cận quan sát được khi đứng ở bến đò, mà còn là biểu tượng cho ông và thế hệ thanh niên yêu nước của thời kỳ đó. Đám bèo trôi dạt trên sông giống như thế hệ thanh niên đang lênh đênh, trôi dạt giữa thời cuộc đầy biến động. Họ phải sống trong cảnh bất công, nhưng lại không có khả năng thay đổi. Vậy họ sẽ điều gì sẽ xảy ra với họ, và thời cuộc sẽ đưa họ đi đâu?

Trong bối cảnh của sự cô đơn và bất lực, nhà thơ chú trọng vào khung cảnh xung quanh như để "niều kéo" một chút hi vọng nhỏ bé nhưng buộc lòng phải ôm lấy thất vọng:

"Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,"

Cảnh vật xung quanh rộng lớn nhưng hoang vắng, quạnh quẽ, không có dấu hiệu của sự sống, không một chút "niềm thân mật". Câu phủ định liên tiếp "không... không" tôn thêm vẻ vắng vẻ của bức tranh thơ. Chiếc đò qua sông, chiếc cầu, những yếu tố thường xuất hiện tại sông nước, thường kết nối con người với dòng sông, nhưng trong bài thơ này, chúng hoàn toàn vắng bóng. Dòng sông rộng lớn trở nên cô đơn, quạnh hiu, như cuộc đời rộng lớn bên ngoài kia, tạo nên một sự đối lập không lường trước.

Khổ thơ thứ ba kết thúc với hình ảnh bờ xanh tiếp bãi vàng:

"Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."

Trong câu cuối, Huy Cận sử dụng những gam màu tươi sáng như xanh và vàng để làm nổi bật cảnh vật. Tưởng như những màu sắc này sẽ làm cho bức tranh trở nên sống động hơn, thêm sự niềm vui, nhưng câu đầu tiên "lặng lẽ" khiến cho cảnh sông nước trở nên buồn bã, vắng vẻ.

Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn trong khổ thơ thứ ba, Huy Cận đã tái hiện trước mắt người đọc một bức tranh cảnh-tình sống động và đầy cảm xúc. Mỗi cảnh vật đều chứa đựng cảm xúc và nỗi buồn của người thi sĩ, đây cũng chính là tài năng và tâm hồn của Huy Cận trong bài thơ Tràng Giang.

Phân tích khổ thơ thứ 3 bài Tràng Giang mẫu 7

Phong trào Thơ Mới đánh dấu tên tuổi của nhiều thi nhân, trong đó phải kể đến Huy Cận- một hồn thơ “sầu ảo não”. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ điển hình cho hồn thơ ấy. Bài thơ “Tràng Giang” đã bộc lộ nỗi sầu của một “cái tôi” cô đơn, nhỏ bé trước thiên nhiên rộng lớn, mênh mang trong đó thấm đượm tình người, tình đời và lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha. Đặc biệt, khổ thơ thứ ba chính là nỗi buồn của cảnh vật gắn với nỗi sầu nhân thế, khắc khoải để lại nhiều xúc cảm trong lòng bạn đọc:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Ngay ở câu thơ đầu tiên đã gợi ra khung cảnh đìu hiu, vắng lặng của cảnh sông nước và tâm trạng nặng nề, sầu muộn của con người. Hình ảnh bèo dạt rất quen thuộc và xuất hiện nhiều lần trong thơ ca truyền thống. Nó vừa mang nghĩa tả thực sự vật nhỏ bé, sự lênh đênh, chìm nổi vừa mang nghĩa ẩn dụ tượng trưng cho nhà thơ, hay rộng hơn là những thanh niên yêu nước bấy giờ. Nhà thơ đang sống trong cảnh mất nước, nô lệ, nên đã cảm nhận được cả thế hệ thanh niên lúc đó cũng như mình đang vật vờ, lênh đênh, trôi dạt, bị cuộc đời cuốn đi mà không biết trôi về đâu? Mặt khác, ở đây cánh bèo dạt còn diễn tả một cách thấm thía sự hợp tan, chia lìa của những kiếp người. “hàng nối hàng” cảnh sông nước hiện ra mênh mang, vô tận. Đặt sự vật nhỏ bé vào không gian bao la, rộng lớn cùng câu hỏi tu từ “bèo dạt về đâu” càng nhấn mạnh sự lênh đênh, cô đơn. Đằng sau bức tranh ấy là tâm trạng não nề, u sầu của thi sĩ. Đến ba câu thơ sau, nhà thơ phóng tầm mắt ra hai bên bờ sông. Hình ảnh “chuyến đò”, “cầu” là biểu hiện tượng của sự giao nối, gắn kết của con người và cuộc sống, thường gợi về cuộc sống tấp nập, gần gũi và gợi nhớ quê hương. Vậy mà tác giả nhắc tới những sự vật đó, không phải là để khẳng định cái có mà là để miêu tả cái không có, không tồn tại trong bức tranh sông nước tràng giang.Cấu trúc “không…không” phủ nhận hoàn toàn sự kết nối, kiên kết giữa con người với thế giới xung quanh. Đó là không gian hoang vắng, cô quạnh. Con người trong không gian ấy “Không cầu gợi chút niềm thân mật” một sự cô độc trọn vẹn. Trong sự vắng lặng đó không gian vẫn tiếp tục được trải ra đến vô cùng của bờ xanh với bãi vàng. Bức tranh xuất hiện những gam màu vốn không đen tối nhưng đều là những màu sắc đơn bạc, không thể làm cảnh sắc thêm tươi sáng, thêm sức sống. Cảnh vật có nhưng rời rạc. Nỗi buồn nhân thế, nỗi cô đơn bao trùm nhân vật trữ tình, mong muốn kiếm tìm chút hơi ấm của con người nhưng chỉ nhận lại sự thất vọng cùng cô đơn.

Như vậy, khổ thơ đã vẽ ra trước mắt bạn đọc mọt bức tranh đẹp mà đượm buồn của thiên nhiên trước sự cảm quan của tác giả Huy Cận. Từ hình ảnh thơ giản đơn nhưng giàu sức gợi tả, kết hợp với các biện pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ, bút pháp “tả cảnh ngụ tình”, Tràng giang vừa mang phong vị thi ca cổ điển vừa hiện đại, đánh dấu tên tuổi của tác giả trong Phong trào Thơ mới.

Phân tích khổ thơ thứ 3 bài Tràng Giang mẫu 8

Trong phong trào thơ Mới, Huy Cận được xem là hồn thơ cổ điển nhất. Ông có nhiều sáng tác mang đậm nét cổ điển xen lẫn hiện đại tiêu biểu là Bài thơ Tràng Giang. Hai khổ thơ đầu bài thơ tác giả đã khắc hoạ thành công vẻ đẹp của thiên nhiên sông nước mang sắc màu trầm buồn man mác. Đến khổ thơ thứ ba tác giả tiếp tục lột tả vẻ đẹp trầm mặc của thiên nhiên cũng như bày tỏ tình cảm, cảm xúc của mình.

Trước khi đi vào phân tích khổ 3 bài thơ Tràng giang chúng ta phải nắm được hoàn cảnh ra đời của bài thơ. Nhà thơ Huy Cận từng chia sẻ: “Trước cách mạng, tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng đê Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều cảm xúc”. Đứng trước khung cảnh thiên nhiên mênh mông, bát ngát đó, nhà thơ đã gửi gắm nỗi niềm tâm sự sâu kín của mình vào bài thơ. Tiếp nối hai khổ thơ đầu thì khổ thơ thứ ba tiếp tục lột tả vẻ đẹp trầm buồn của thiên nhiên:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.

Lâu nay, hình ảnh cánh bèo trôi luôn gợi đến sự mong manh, lênh đênh vô định. Nó còn là hình ảnh gợi về sự rẻ rúm của thân phận con người. Tương phản với sự mênh mông của sông nước, ta thấy hình ảnh cánh bèo lại càng thêm nhỏ bé. Hàng bèo nối đuôi nhau chảy trôi theo dòng nước, không biết sẽ đi đâu và về đâu. Nó gợi liên tưởng đến kiếp người bé nhỏ, đang bơ vơ, lạc lõng giữa đời. Đặt vào hoàn cảnh nước mất nhà tan thì có lẽ đây chính là tình cảnh chung của thế hệ thanh niên đang lênh đênh, vật vờ như mất phương hướng.

Hai câu thơ tiếp theo khắc hoạ khung cảnh mênh mông của sông nước:

“Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật”

Sự hiu quạnh, vắng lặng của không gian dường như được nhân thêm nhiều lần bởi sự phủ định hai lần liên tiếp: “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”. Con đò ngang chỉ sự giao lưu, kết nối của con người hai bên bờ sông với nhau nhưng cả dòng nước mênh mông lại chẳng có chuyến đò ngang nào cả. Vậy chiếc cầu bắc qua sông thì sao? Không đò, không có cả cầu dù tác giả đã phóng tầm mắt nhìn ra xa cũng không thấy biểu hiện của sự giao nhau giữa hai bờ sông thông qua cây cầu. Có thế thấy đôi bờ đều là những nơi hoang vắng, ít người qua lại, hai bờ sông như bị chia cắt làm đôi kéo dài tới vô tận. Nó như hai thế giới song song, không gì có thể ảnh hưởng tới bên còn lại, không một chút “niềm thân mật” nào cả. Tất cả chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên chứ không có dấu hiệu của con người, của sự sống nào khác. Đứng trước tình cảnh ấy người thi sĩ giống như càng thấy buồn thương, thiếu vắng đi sức sống. Nhà thơ Huy Cận như cảm thấy bản thân là một thực thể sống duy nhất trơ trọi giữa thiên nhiên nên càng cảm thấy khao khát được gắn bó với con người, với quê hương như hai câu thơ trong bài Đảo:

“Thuyền không giao nối đây qua đó

Vạn thuở chờ mong một cánh buồm”.

Có lẽ câu cuối khổ ba giống như một lời than thở của người thi sĩ trước khung cảnh thiên nhiên:

“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Một vẻ đẹp tĩnh lặng, đượm buồn của thiên nhiên, sự tiếp nối của tự nhiên “bờ xanh” với “bãi vàng” hai tông màu tươi sáng nhưng lại kết hợp với từ “lặng lẽ” khiến nó không thể xua đi cái không khí trầm lắng, buồn man mác của dòng sông. Tất cả như lặng lẽ không có lấy một tiếng động nào cả. Đằng sau vẻ đẹp ấy chính là một tâm hồn trăn trở, đau đáu trước cảnh nước mất nhà tan, lo lắng cho tương lai của con người trong hiện tại và tương lai gần không biết trôi dạt về đâu.

Tóm lại, qua khổ 3 bài thơ Tràng giang ta, Huy Cận đã tái hiện khung cảnh trầm buồn, mênh mang của vùng sông nước rộng lớn. Đồng thời bày tỏ tâm trạng của mình khi đứng trước thiên nhiên và trong bối cảnh đất nước bị xâm lược. Dù thời gian trôi qua đã lâu nhưng bài thơ vẫn để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả và được các thế hệ sau này đón nhận. Đó chính là thành công của người thi sĩ với đứa con tinh thần của mình.

Phân tích khổ thơ thứ 3 bài Tràng Giang mẫu 9

Khác với hồn thơ hồ hởi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau Cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận những năm trước Cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã trước thời cuộc. Chẳng thế mà "Tràng giang" ra đời lại khắc họa nét cô đơn, bé nhỏ, bơ vơ của kiếp người trước không gian thiên nhiên "trời rộng sông dài" rợn ngợp. Và điều đó đã được Huy Cận thể hiện thành công trong khổ thơ thứ 3.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Ngay từ nhan đề bài thơ "Tràng giang", Huy Cận đã khéo léo khắc họa trước mắt người đọc một hình ảnh vừa mang đậm vẻ cổ điển, Đường thi vừa phảng phất phong vị của hiện đại. Cụm từ Hán Việt này gợi mở không khí cổ kính uy nghiêm. Thay vì “trường giang”, dễ gợi liên tưởng con sông của Trung Quốc, “Tràng giang” , hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ trải dài mà còn rộng theo không gian, mênh mang và vô tận.

Trong khổ thơ thứ 3, từng câu thơ đều là nỗi niềm của tác giả. Cảnh sông nước mênh mang, rộng lớn được thu lại bằng hình ảnh: “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”. "Bèo" vốn là một hình ảnh quen thuộc trong văn học cổ điển, ngoài nghĩa thực chỉ sự vật nhỏ bém tầm thường còn ám chỉ những số phận, cho kiếp nhân sinh lênh đênh, trôi nổi, mặc cho dòng đời đẩy đưa. Hình ảnh “bèo dạt về đâu” chính là một lời tự hỏi, là sự đau đớn, bất lực của tác giả trước số phận nô lệ, cảnh nước mất nhà tan. Hình ảnh những đám bèo nối tiếp nhau lững thững, lặng lờ trôi dạt trên dòng sông, “ hàng nối hàng” gợi cảm giác trải dài miên man vô tận, hướng độc giả phóng tầm mắt ra tối đa. Tả cảnh nhưng ta cảm nhận được nỗi sầu muộn chênh vênh, tương lai dường như mờ nhòe, vô định, mất phương hướng vật vờ mà không biết nên đi đâu, về đâu của tác giả hay cũng là của cả thế hệ thanh niên yêu nước.

Đến hai câu thơ tiếp theo, khung cảnh thiên nhiên hiện lên càng hoang sơ, heo hút, cô quạnh, thiếu sức sống:

 Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ là những phương tiện, biểu hiện của sự sống, sự tồn tại và kết nối của con người và cuộc sống, thường gợi về cuộc sống tấp nập, gần gũi. Thế nhưng, cả 2 hình ảnh này ở đây đều xuất hiện dưới dạng phủ định “không đò… không cầu…” khiến khung cảnh ấy mới trống vắng, heo hút và quanh hiu làm sao. Giữa cảnh tăm tối ấy, lữ khách muốn tìm một con thuyền, một dấu hiệu của sự sống nhưng chỉ nhận lại là sự im ắng, vắng vẻ “không một chuyến đò ngang” "không cầu", không có một tổ chức, một con người nào có thể dẫn dắt đưa lối, kéo những tiểu tư sản trí thức như Huy Cận ra khỏi sự hoang mang, vô định. Dường như hai bờ sông chạy dài vô tận, không có điểm dừng, như hai thế giới cô đơn, không một chút “ niềm thân mật” sự gắn kết, đồng điệu của con người. Sự thực ấy khiến người ta không khỏi đau xót cho một đất nước, một dân tộc, và cả những con người lạc lõng, bơ vơ “Không cầu gợi chút niềm thân mật”, cuối cùng họ, Huy Cận vẫn phải tự ôm lấy nỗi cô đơn, buồn tủi giữa thiên nhiên rộng lớn mà ảm đạm, hiu hắt:

“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Trong câu thơ này, tưởng chừng bức tranh thiên nhiên màu sắc tươi sáng, ấm áp hơn nhưng nó vẫn mang vẻ tĩnh lặng, heo hút, không có dấu hiệu của con người. Chính vì vậy nên dù có đẹp như thế nào, thì đây cũng là một bức tranh đượm buồn và nó dường như thiếu đi âm thanh ồn ào, vội vã của cuộc sống. Tả cảnh để ngụ tình, phải chăng đằng sau cảnh thiên nhiên này chính là sự đau đáu của người thi sĩ Huy Cận trước thực tại.

Bốn câu thơ, bốn hình ảnh, tất cả đều gợi lên khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, lặng lẽ mà không có một âm thanh dù chỉ là xơ xác. Đằng sau khung cảnh ấy là nỗi lòng của thi sĩ, sự đau đáu, buồn bã về số phận nổi trôi, bơ vơ, bất hạnh, cô đơn của kiếp người trong xã hội cũ. Nghệ thuật lấy “không” để nói “có” kết hợp với thủ pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc trong thơ ca cổ điển được vận dụng linh hoạt đã giúp tác giả có cơ hội bộc lộ, giãi bày nỗi lòng mình. Đọc bài thơ, giúp chúng ta hiểu vì sao Xuân Diệu từng đánh giá “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông, đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn, Tổ quốc”.

-----------------------------------------

Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm một số tài liệu liên quan đến bài thơ Tràng Giang tại các mục:

Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới các bạn Phân tích khổ 3 bài Tràng Giang của Huy Cận. Bài viết đã gửi tới bạn đọc dàn ý và các bài văn mẫu. Mong rằng qua bài viết này các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 11. Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm tài liệu Soạn văn lớp 11...

Đánh giá bài viết
28 133.414
Sắp xếp theo

Ngữ văn lớp 11

Xem thêm