Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ Nhặt

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ

Văn mẫu lớp 12: Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện "Vợ nhặt" của Kim Lân gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

I. Dàn ý phân tích nhân vật bà cụ Tứ

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt và nhân vật bà cụ Tứ.

2. Thân bài

a. Sự ngạc nhiên của cụ khi anh Tràng dắt vợ về

Khi làm về, thấy một người phụ nữ ngồi trong nhà mà còn thưa u. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình xấu xí, nghèo mà vẫn có vợ trong thời khó khăn.

Bà cụ vẫn không tin vào những gì con trai mình nói “Kìa nhà tôi nó chào u”… “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”

Bà vẫn không hiểu chuyện gì đang xảy ra

b. Tâm trạng vừa mừng vừa tủi của bà cụ

Khi biết rằng con bà “ nhặt” được vợ: bà vui vì con đã an bề gia thất, buồn phận làm mẹ mà không cưới nổi vợ cho con và bà nghĩ đến chồng, đến con gái lại càng trở nên buồn hơn.

Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn: Bà không biết lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng con đã có vợ. Bà khóc vì thương con không biết làm sao vượt qua nổi khó khăn này.

c. Nỗi lo của bà cụ Tứ

Bà lo cho con trai, con dâu, cái gia đình nhỏ của mình không biết phải qua những ngày khó khăn này như thế nào. → Khuyên con, khuyên dâu thương nhau, cố gắng vươn lên.

→ Nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời.

d. Niềm tin vào tương lai, vào cuộc sống của cụ Tứ

Bà suy nghĩ vui trong những điều tốt đẹp tương lai “Rồi ra may mà ông giời cho khá…”

Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa.

Vui trong bữa cơm đạm bạc đầu tiên có con dâu.

Bà vẫn luôn tạo một không khí ấm cúng cho bữa ăn để con đâu đỡ tủi.

→ Người mẹ nghèo từng trải đời, hết mực yêu thương con, luôn lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn.

→ Là đại diện cho người mẹ Việt Nam cần mẫn, mộc mạc, giản dị, giàu tình yêu thương và đức hi sinh

3. Kết bài

Khái quát lại những phẩm chất tốt đẹp của bà cụ Tứ, đánh giá về ý nghĩa của truyện ngắn và liên hệ thực tiễn.

II. Văn mẫu phân tích nhân vật bà cụ Tứ

1. Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 1

Kim Lân là cây bút truyện ngắn xuất sắc. Ông viết rất hay về thú "phong lưu đồng ruộng". "Nên vợ nên chồng" và "Con chó xấu xí" là hai tập truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn. "Vợ nhặt"- một truyện ngắn độc đáo rút trong tập "Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962. Truyện thấm đẫm tinh thần nhân đạo đã phản ánh cuộc đời nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Nhà văn kể về chuyện anh cu Tràng "nhặt" được vợ khi cả xóm ngụ cư người chết đói như ngả rạ. Trong ba nhân vật của truyện, hình ảnh bà cụ Tứ - mẹ của Tràng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.

Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương: tuổi già, nhà nghèo, góa bụa, hiền lành và thầm lặng... Bà cụ lần đầu xuất hiện trong bóng hoàng hôn tê tái, khi người con trai làm nghề kéo xe dẫn người đàn bà xa lạ về gia đình bà. Một mái nhà tranh "đứng rúm ró trên mảnh vườn cỏ mọc lổn nhổn những búi cỏ dại". Sau tấm phên rách nát là những "niêu bát, xống áo vứt bừa bãi cả trên giường dưới đất". Người mẹ già nghèo khổ "húng hắng ho"chẳng khác nào một chiếc bóng "lọng khọng" đi vào ngõ. Bà cụ ngạc nhiên khi chợt thấy một người đàn bà xa lạ đứng ngay đầu giường thằng con mình. Bà lão "đứng sững lại", càng ngạc nhiên hơn. Bà băn khoăn tự hỏi: "Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?". Bà hấp háy mắt, thấy mắt mình "nhoèn ra",... rồi "lập cập" bước vào nhà. Lại nghe một tiếng chào nữa, bà lão "băn khoăn" ngồi xuống giường, lòng bà phân vân không kể xiết! Sau khi nghe Tràng "giới thiệu" người khách lạ, bà cụ Tứ vừa mừng vừa lo lại tủi thân. Lòng bà xáo trộn bao nỗi niềm. Một đời người trải qua nhiều đau khổ, mất mát, cay đắng, bà lấy làm xót xa, thấy mình làm mẹ mà không tròn bổn phận với con. Bà khóc. Tâm trạng cay đắng, chua xót: "Lòng người mẹ già nghèo khổ ấy... vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình". Bà cụ Tứ nghĩ đến gia cảnh mà thêm buồn tủi. Tiếng than, tiếng thở dài như tràn qua dòng nước mắt. Thương con, thương cho số phận mình, những tháng năm dài dằng dặc với bao chuyện buồn. Bà thương mình trải qua một cuộc đời đầy cay đắng: "Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng con lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì...".

Nạn đói đang đe dọa. Bà phấp phỏng lo âu: "Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?". Góa bụa, nghèo khổ, cô đơn. Chồng chết rồi mụn con gái chết con. Bà sống với đứa con trai thô kệch "mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra" lại có tật vừa đi vừa nói lẩm bẩm như người dở hơi. Bà mỗi ngày một già mà Tràng vẫn sống độc thân. Tục ngữ có câu: "Trẻ cậy cha, già cậy con". Bà mẹ càng thấy buồn, lo vô hạn. Tuy mặc cảm cho số phận, bà chợt nghĩ đến cái may của gia đình mình: Người có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được". Hạnh phúc đến với tuổi già quá lớn lao và đột ngột! Niềm vui xôn xao dậy lên trong lòng người mẹ già nghèo khổ. Bà vui sướng nhận nàng dâu mới. Chẳng cần phải cưới cheo. Cũng chẳng tìm đâu ra cỗ bàn để đón mừng người con dâu mới. Cử chỉ bà rất dịu dàng, âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là "con" rồi xưng "u" một cách thân tình, ruột thịt: "Ừ! Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp nhau, u cũng mừng lòng". Bà nhìn nàng dâu mà lòng đầy thương cảm. Vượt qua mọi tục lệ, bà vui mừng vì từ nay con trai bà đã có vợ. Bà sung sướng về hạnh phúc của con. Mừng mừng tủi tủi, nước mắt chảy ra ròng ròng.

Mẫu tử tình thâm! Lòng mẹ già đối với con trai và nàng dâu thật là mênh mông. Bà hạ thấp giọng xuống thân mật, vừa khuyên con vừa an ủi: "...Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...".

Bà nhắc con trai đủ chuyện, từ việc đan tấm liếp để che chắn gian buồng, đến chuyện làm chuồng gà, chuyện làm ăn, chứa chan hi vọng.

Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả những biến thái trong tâm hồn bà cụ Tứ. Cảnh mẹ chồng đón nàng dâu mới, đơn sơ nghèo nàn mà cảm động. Tâm trạng người me già lúc thì ngạc nhiên lo lắng, lúc thì vui buồn lẫn lộn. Mặc cảm về phận nghèo, nhưng lòng bà vẫn ít nhiều hi vọng về cuộc đời của con: "Rồi may ra ông trời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng về sau"...

Bữa cơm đón nàng dâu mới sau "tối tân hôn" của Tràng là một nét vẽ rất tài tình, giàu tính nhân bản. Trên cái mẹt rách làm mâm là một đĩa muối, một lùm rau chuối thái rối và một nồi cháo cám. Mỗi người được hai bát cháo lõng bõng. Thế mà bà cụ Tứ rất vui. Trong bữa ăn bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này. Bà gọi nồi cháo cám "đắng chát" là "chè khoán" rối rít khen "ngon đáo để", ít nhiều tự hào, an ủi động viên con trai và nàng dâu: "Cám đấy mày ạ! Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy!". Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thể có những bữa cơm no, nhiều thịt cá ngon lành, nhưng họ có bao giờ quên được mùi vị "đắng chát" của nồi cháo cám ấy. Vì trong bát cháo cám ấy đã chứa đựng biết bao tình thương của mẹ già.

Mượn ngoại cảnh, sự việc để phó diễn tâm trạng nhân vật cũng là một thành công của Kim Lân trong việc khắc hoạ tâm trạng bà cụ Tứ khi cuộc đời mới đang hé mở. Cảnh tượng mới mẻ, đổi thay trong nhà ngoài sân: hai cái ang đầy nước, đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mấy chiếc áo quần rách được ra phơi... Nhà cửa, sân ngõ được quét dọn sạch sẽ, quang quẻ. Bà cụ Tứ cùng con dâu giẫy cỏ... Cuộc đời của bà, của con bà, gia đình bà đã bắt đầu đổi thay. Mặc dầu còn nhiều thử thách cam go. Tiếng quạ kêu. Tiếng trống thúc thuế. Tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người thân mới chết đói. Nước mắt bà cụ Tứ lại chảy ra, nhưng bà "không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc". Trên cái nền đen tối ấy là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. Trong lo âu có niềm vui phấp phỏng, thoáng hiện mơ hồ. Nạn đói chưa thể vượt qua, nhưng người mẹ già phúc hậu, từng trải là chỗ dựa cho hai vợ chồng Tràng đi tới... để khẳng định niềm tin: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời...".

Hạnh phúc cầm tay. Con trai đã có vợ. Bà cụ Tứ lo chết đói nhưng lòng vẫn vui và hi vọng. Có một chi tiết đầy ý nghĩa. Có lẽ lần đầu tiên trong nhà người mẹ nghèo khổ đã có hai hào dầu thắp đèn, bóng tối đang bị xua tan dần. Đó là ánh sáng của hạnh phúc, ánh sáng của hi vọng.

Trong bài thơ "Ba mươi năm đời ta có Đảng", Tố Hữu viết:

"Đời ta gương vỡ lại lành,
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa".

Cuộc đời mẹ con Tràng nhất định sẽ "đâm cành nở hoa". Có biết trận đói năm Ất Dậu 1945, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói mới thấy hết lòng mẹ được miêu tả, mới cảm nhận được giá trị nhân đạo của truyện ngắn "Vợ nhặt" này. Giọt nước mắt, tiếng thở dài, nụ cười của bà cụ Tứ khi nhận nàng dâu mới làm ta cảm động khi khép trang văn "Vợ nhặt"của Kim Lân với nhiều bâng khuâng.

2. Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 2

Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam. Những tác phẩm của ông thường viết về nông thôn và những con người quê lam lũ, hồn hậu, chất phác, giàu tình yêu thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ tình cảnh thê thảm của nhân dân ta trong nạn đói 1945 đồng thời khẳng định, ca ngợi tình yêu thương, đùm bọc, khát khao hạnh phúc, hướng tới tương lai của những người lao động. Trong đó nổi bật là nhân vật bà cụ Tứ được nhà văn khắc hoạ sinh động, tinh tế, bà hiện lên với hình ảnh một người mẹ nghèo khổ, trải đời, giàu tình yêu thương và có nội tâm phong phú, phức tạp.

Nếu ai đã từng đọc qua giọng văn Ngô Tất Tố, Nam Cao, chúng ta sẽ thấy đồng cảm với cuộc sống cơ cực của những người dân lao động. Họ bị bần cùng và bức bách khiến họ bị tha hoá về nhân phẩm. Nhưng có những con người trong nỗi cơ cực ấy vẫn liều lĩnh chấp nhận thêm những khốn khổ cùng cực, vì tình yêu, tình người, lòng nhan hậu. Đó là chị Dậu, là cụ Tứ, là anh cu Tràng.

Trong những tháng ngày u ám vì nạn đói, cái chết có thể rơi xuống bất kì ai thì anh cu Tràng lại làm một việc tưởng như bị "điên" đó là lấy vợ, tuy nhiên chỉ có mẹ anh- bà cụ Tứ mới là người thấm thía hết cơ sự.

Bà cụ Tứ là mẹ anh cu Tràng. Hình ảnh bà được khắc hoạ trong tác phẩm đó là trong bóng hoàng hôn chiều, người mẹ nghèo khổ "húng hắng ho". Trước mái tranh nghèo trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, người mẹ nghèo lại càng thêm cơ cực.

Vốn dĩ việc làm nhà, cưới vợ là một chuyện hệ trọng trong cuộc đời mỗi con người, cần có sự đóng góp ý kiến của cha mẹ - những người đi trước. Thế nhưng sự kiện Tràng lấy vợ lại đi ngược lại với những lẽ hiển nhiên đó, việc Tràng lấy vợ được thông báo đột ngột khiến bà cụ Tứ ngạc nhiên, ban đầu chỉ là sự thắc mắc thái độ sốt sắng của thằng con trai, bà cụ Tứ hấp háy hai con mắt nhìn Tràng chậm chạp hỏi: Có việc gì thế vậy? Khi Tràng vẫn thong thả chưa trình bày câu chuyện, bà cụ phấp phỏng bước theo con vào nhà. Kim Lân đã rất khéo léo khi dùng hai từ "phấp phỏng" để diễn tả sự lo lắng và sự nhẫn nại chờ đợi của bà cụ. Hành động "đứng sững lại" thể hiện sự ngạc nhiên đã lên cao trào, nhà văn đã thấu suốt những nỗi băn khoăn của nhân vật, rất nhiều câu hỏi đang xoay quanh bà: Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà ai thế nhỉ? Những câu hỏi cứ dồn dập được đặt ra mà không có câu trả lời. Mọi thắc mắc xoay quanh sự xuất hiện của người đàn bà trong ngôi nhà vốn dĩ chỉ có hai mẹ con bà sống. Đáng thương hơn bà cụ lại tưởng mình nhầm lẫn: bà cụ hấp háy mắt cho đỡ cay, nỗi băn khoăn của bà vẫn không được giải bày, bà lão quay sang nhìn con ra chiều không hiểu. Điều này thật dễ hiểu, trong sự việc này bà cụ hoàn toàn bị động, mọi việc đã rồi mà bà không hay biết điều gì cả.

Khi con trai bà vẫn trì hoãn bí mật, mời mẹ vào nhà ngồi, bà cụ "lập cập" bước vào nhà. "Lập cập" là sự run rẩy của người già hay là sự thấp thỏm, lo sợ những điều không hay xảy đến. Với một người mẹ cả đời lam lũ này còn gì khủng khiếp sẽ xảy đến với bà nữa đây. Kim Lân đã khơi dậy lên trong lòng người đọc một sự cảm thương sâu sắc với hai từ "lập cập".

Có lẽ bà cụ Tứ không nghĩ được rằng người đàn bà đang ngồi kia chính là vợ của con trai, là con dâu của bà. Có lẽ cảm thấy sốt ruột trước thái độ của bà cụ mà Tràng phải lên tiếng: "kìa nhà tôi nó chào u". Vậy mà bà cụ vẫn không hiểu được đầu đuôi câu chuyện, làm sao một người mẹ nghèo khốn khổ ấy có thể tin rằng con trai mình có vợ. Bà cũng hiểu rõ hoàn cảnh đáng thương của con trai mình, vừa nghèo, vừa xấu, vừa cục mịch, làm gì có ai để ý tới chứ đừng nói lấy vợ, trong giai đoạn nghèo khó "ốc chẳng mang nổi mình ốc mà còn mang cọc cho rêu" ai có thể nghĩ tới chuyện cưới xin được. Nỗi băn khoăn của bà cụ từ đầu tới giờ mới được gỡ khi Tràng dõng dạc vắn tắt trình bày cơ sự :" nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau. Chẳng qua nó cũng là cái số cả. Và thế là bà cụ cúi đầu nín lặng. Không phải là im lặng mà là im lặng nín nhịn không thể nói được điều gì. Lúc này bà đã hiểu hết sự tình. Nhà văn Kim Lân đồng cảm với những suy tư, những tủi hờn xót xa trong lòng bà cụ: "lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con của mình. Những nỗi ai oán, xót thương, những thổn thức trong lòng bà chỉ nhà văn Kim Lân mới hiểu được. Thì ra suy nghĩ của bà cụ không đơn giản như chúng ta nghĩ, cái nghèo đói không làm bà cụ chấp nhận cuộc sống buông tuồng, bà đau đá trong lòng vì không thể hoàn thành trách nhiệm của người mẹ đó là chăm lo cho hạnh phúc của con trai mình một cách chu đáo. "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này". Còn bản thân cụ Tứ, khi đứa con độc nhất của mình cưới vợ là những lời tự trách, là tiếng khóc nghẹn ngào của người mẹ nghèo khổ. Tuổi già hạt lệ như sương, nhưng trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ vẫn rỉ xuống hai dòng nước mắt. Đó là những giọt nước mắt tủi phận cùng cực, đó là những giọt nước mắt xót thương cho sự khốn khó của chính mình. Đó đồng thời cũng chính là giọt nước mắt của lòng tự trọng, những giọt nước mắt giữ nhân cách của con người, những giọt nước mắt ấy là minh chứng thể hiện tình yêu của mẹ đối với các con.

Bà cụ Tứ hết sức lo lắng cho cuộc sống của các con. Chỉ một câu đáp: Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Băn khoăn ấy có cơ sở cả, xóm ngụ cư của cụ đang sống trong những tháng ngày lầm than do cơn đói hoành hành, việc giữ cho mình được mạng sống còn khó huống chi cu Tràng còn đèo bòng. Ở cái tuổi gần đất xa trời, đáng lẽ bà đã được nghỉ ngơi, nhưng vì cái nghèo đói, khổ cực mà trong lòng bà vẫn đau đáu một nỗi niềm lo lắng cho các con.

Hình ảnh bà cụ Tứ chỉ xuất hiện nửa sau tác phẩm, có thể người ta sẽ nghĩ bà cụ xuất hiện với dáng vẻ cay nghiệt thường thấy ở các bà mẹ chồng, nhưng cụ xuất hiện với sự nhã nhặn trong cách cư xử đặc biệt là chuỗi diễn biến tâm trạng nhân vật khắc hoạ nhân cách cao đẹp của người phụ nữ. Trước mắt chúng ta đó là hình ảnh một người mẹ thương con vô bờ bến, những nỗi lo, những suy nghĩ trong lòng cụ được nhà văn ghi lại một cách chân thật, xúc động.

Qua hình tượng nhân vật bà cụ Tứ với biết bao tâm trạng xen lẫn với các tình huống con trai "nhặt được vợ", nhà văn Kim Lân đã làm nổi bật lên tấm lòng của người mẹ nghèo khổ nhưng giàu lòng vị tha, nhân hậu. Với những tình cảm mà bà cụ đã dành cho con trai và con dâu, chúng ta càng thấu hiểu hơn về tấm lòng của người mẹ và cũng chính điều đặc biệt này khiến nhân vật bà cụ Tứ hiện lên chân thật và cảm động hơn đối với người đọc. Hình ảnh người mẹ với tình yêu thương con ấy, như một ngọn nến thắp sáng cuộc đời tối tăm của những kiếp người nghèo khổ bị cùng cực.

3. Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 3

Kim Lân không sáng tác nhiều, thế nhưng hầu hết các tác phẩm của ông đều để lại tiếng vang, đưa ông trở thành một trong mười nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện thực trước cách mạng. Với cuộc đời gắn bó với làng quê, tấm lòng thấu hiểu sâu sắc về cuộc đời của những người nông dân lầm lũi, Kim Lân đã tạo dựng nên bức tranh hiện thực đặc sắc, chân thật về con người của thế kỷ trước, đặc biệt là trong những giai đoạn khó khăn nhất của đất nước. Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những tác phẩm thành công và xuất sắc nhất của Kim Lân, truyện không chỉ phản ánh số phận con người, hiện thực thảm khốc trong nạn đói năm 1945 mà quan trọng hơn trong tác phẩm của mình, tác giả đi sâu vào các giá trị nhân đạo, bộc lộ những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn người nông dân, dù thực tại có tàn khốc, bị cái đói hành hạ, cái chết luôn cận kề, nhưng ở họ ta vẫn thấy sáng lên vẻ đẹp của niềm tin, hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp, tấm lòng bao dung, thông cảm, vẻ đẹp của tình mẫu tử đong đầy. Trong tác phẩm Vợ nhặt người thể hiện rõ những vẻ đẹp này chính là nhân vật bà cụ Tứ, dù không có nhiều phân cảnh, thế nhưng bà vẫn thể hiện được những vẻ đẹp tiềm ẩn mà Kim Lân muốn truyền tải.

Bà cụ Tứ là một điển hình của người nông dân thế kỷ trước, sống một đời với những gánh nặng mưu sinh vất vả lại phải vật lộn với cái đói khủng khiếp những năm 1944-1945. Bà cụ Tứ là người đàn bà góa chồng, sống trong một căn “nhà” rách nát trong xóm Ngụ Cư. Hình ảnh bà cụ xuất hiện trong truyện cũng chỉ vỏn vẹn mấy từ, nhưng in đậm trong tâm trí người đọc bức chân dung của một người phụ nữ trải qua gần hết đời người với những nhọc nhằn, tủi khổ, đó là một bóng dáng gầy yếu, bệnh tật miệng “húng hắng ho”, dáng người “lọng khọng”, luôn “lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Nhìn vào cảnh ấy, tức thời trong trí óc người đọc đã hiện lên cái số phận khốn khổ của bà, khi mà cả đời cụ Tứ có lẽ đã chịu nhiều đau thương vất vả, hoàn cảnh neo đơn, cố sức nuôi lớn con cái, rồi đến khi đã tuổi gần đất xa trời, bà vẫn không được hưởng cuộc sống an nhàn, mà vẫn phải chịu cảnh khốn khổ, gồng mình chống chọi với cơn đói khủng khiếp.

Không chỉ vậy cả cuộc đời bà cụ Tứ vẫn luôn phải chịu những dày vò, day dứt về chuyện không thể lo nổi cho cậu con trai duy nhất một người vợ, chỉ vì bà nghèo quá. Nhưng càng trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, khốn khó, thông qua cách miêu tả diễn biến tâm lý tinh tế từ ngòi bút Kim Lân, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ này lại càng hiện lên rõ nét, đó là vẻ đẹp thiêng liêng của tình mẫu tử, niềm hy vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn và tấm lòng bao dung, cảm thông cho những số phận bất hạnh.

Câu chuyện bắt đầu từ việc anh cu Tràng bất ngờ dẫn về một người vợ nhặt, Tràng lấy vợ ngay giữa cơn đói ngặt nghèo nhất, một đám cưới không hoa, không đèn, không có mâm bàn. Thị theo không Tràng về nhà chỉ với 4 bát bánh đúc, về ở với Tràng bằng hi vọng rằng sẽ có một cuộc sống tốt hơn, tránh khỏi cái nạn đói khủng khiếp đang bủa vây khắp xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy, khi bà cụ được con trai giới thiệu cho người con dâu mới cưới, thoạt tiên bà chẳng hiểu đầu đuôi cớ sự, sự chậm rãi của một người già cả, cùng với sự kiện lạ lùng khiến bà cụ trong tức thời không thể lý giải, lòng bà có biết nhau nhiêu cớ sự thắc mắc. Tuy nhiên bà không vội vã hỏi dồn, hay tỏ ra hoang mang, mà trái lại bà im lặng nhìn con, ra ý để con trai mình từ từ giải thích đầu đuôi câu chuyện. Đó là biểu hiện của sự từng trải, của tấm lòng biết lắng nghe, chia sẻ, cũng là tấm lòng tin tưởng, yêu thương con của một người mẹ hiểu lý lẽ.

Sau khi nghe anh Tràng giải thích hết câu chuyện cưới vợ lạ lùng, bà bỗng “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự”, rồi thì người mẹ ấy im lặng với biết bao nhiêu suy nghĩ ngổn ngang trong lòng, bao nhiêu những lo âu cùng dồn về tấm lòng của người mẹ thương con tha thiết. Bà “ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình”, đến cưới một tấm vợ cũng phải tự thân lo lấy, mà lại cưới ngay giữa cảnh đói kém, cái chết đang rình rập khắp nơi, trong đó có cả bà, con trai và người đàn bà xa lạ. Càng nghĩ bà cụ Tứ càng thấy xót xa, tủi cho phận mình, phận con, nỗi xúc động ấy khiến“trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt”. Thế nhưng sống ở đời đã mấy chục năm, có chuyện lạ nào, sự kiện nào mà bà chưa từng trông thấy, bà nhanh chóng thoát ra khỏi những nỗi buồn rầu trong lòng, nhìn đến người đàn bà sẽ là con dâu trong nhà nay mai, người sẽ bầu bạn với con trai, bà nhanh chóng vực lại tinh thần, chấp nhận mối hôn sự chớp nhoáng của cậu con trai. Bà cụ hiểu rằng Tràng cũng đã đến tuổi lấy vợ từ lâu, nay Tràng và thị đã phải duyên phải kiếp với nhau thì bà cũng bằng lòng, bà chỉ trăn trở mãi một mối lo “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”. Khi ấy tình thương của người mẹ lại càng hiện rõ, bà không trách con trai tự ý làm chủ hôn nhân, cũng không dò hỏi về câu chuyện cưới xin lạ lùng này mà bà chỉ có một ý nghĩ, sợ rằng vợ chồng Tràng không gồng gánh nổi nhau qua cơn đói khát khủng khiếp này, để mà xây dựng một mái ấm hạnh phúc. Bà thương cho số phận con trai mình thiếu thốn đủ điều, đến cuộc sống vợ chồng cũng bấp bênh chẳng thể đoán được tương lai phía trước. Thế nhưng trong ngày trọng đại, ngày vui của cuộc đời con trai, bà đã không để bản thân buồn rầu quá lâu, cũng không muốn phá hỏng buổi tân hôn, bà cụ nhanh chóng vực lại tinh thần với những điều tự nhủ thật lạc quan“Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”. Rồi nhanh chóng trò chuyện, săn sóc với thị, kéo thị ra khỏi cảnh ngượng ngùng của người dâu mới về nhà chồng. Đồng thời nói những lời an ủi động viên, vun vén cho cuộc hôn nhân mới bằng những lời của cha ông rằng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?. Đồng thời bà cũng nhanh chóng giấu nhẹm vào lòng những lo toan, sầu khổ đang bộn bề trong lòng, để mở ra cho các con một cuộc sống đầy hy vọng và tốt đẹp phía trước, dẫu rằng ngoài kia là hoạt cảnh thực tối tăm, đầy chết chóc, đau thương. Tấm lòng người mẹ của bà cụ Tứ quả thực ấm áp và đầy sự thấu hiểu, bao dung.

Không chỉ ở tấm lòng yêu thương, lo nghĩ cho con mà hình ảnh cụ Tứ còn hiện lên là một con người có tấm lòng bao dung, thấu hiểu và cảm thông sâu sắc với những số phận con người bất hạnh, mà điển hình ở đây là thị. Trước cảnh tượng con trai dẫn về một người đàn bà không lai lịch, rách rưới, tàn tạ, giới thiệu là vợ bà cụ Tứ không hề tỏ ý không hài lòng hay cự tuyệt trái lại bà chỉ im lặng nghe con trai kể chuyện rồi thầm quan sát người đàn bà. Sau khi đã rõ đầu đuôi câu chuyện bà nhanh chóng chấp nhận cuộc hôn nhân chớp nhoáng đồng thời tỏ ra thấu hiểu cho cái khó của thị “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà cũng thương cho người đàn bà khốn khổ, phải đến bước đường cùng, bị cái đói hành hạ đến mức nào thì mới chấp nhận kiếp làm vợ theo không của Tràng. Ánh nhìn đăm đăm vào thị, là cái nhìn của sự thấu hiểu, xót xa cho một kiếp người tàn tạ, thương cảm cho phận một người phụ nữ không được cưới hỏi đàng hoàng, không có mâm cao cỗ đầy, lầm lũi trở thành vợ người ta mà không một đồng sính lễ. Nghĩ đến đấy dường như bà lão càng thông cảm hơn cho thị bởi lẽ cũng may có thị xuất hiện thì con trai bà mới có được tấm vợ, có được cuộc sống gia đình điền viên.

Chính những suy nghĩ thấu đáo, hiểu lý lẽ như vậy, bà cụ đã nhanh chóng thấy thân thiết với người con dâu mới, nhẹ nhàng săn sóc thị “Con ngồi xuống đây, ngồi xuống cho đỡ mỏi chân”, để khiến cho thị đỡ ngại ngùng bỡ ngỡ trước tổ ấm mới. Rồi khi nhìn thấy sự rụt rè của thị, lòng bà lại tràn đầy thương xót, tội nghiệp cho một kiếp đàn bà, sinh ra vốn đã khổ, vào cảnh đói nghèo lúc này lại càng khổ cực hơn, có lẽ rằng cuộc đời thị cũng sẽ lại giống như cuộc đời bà mấy mươi năm trước. Nghĩ thế bà lại càng thương yêu thị hơn, nhẹ nhàng mà bảo ban, thân mật, giải thích cho thị về chuyện không có cỗ bàn đám cưới, lòng hy vọng thị sẽ không trách cho cái nghèo khó của mẹ con bà, mà cùng yêu thương vun vén hạnh phúc với Tràng, đồng thời cũng để thị đỡ tủi thân trước cảnh theo không về làm dâu nhà người. Rồi bà cũng thỉ thỉ tâm sự “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Nam nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”, ấy là tấm lòng yêu thương con trai, con dâu, sự xót xa của người làm mẹ trước cảnh khổ cực của con cái. Có thể nói rằng dù ít học, nghèo khó thế nhưng cụ Tứ lại có một tấm lòng thấu hiểu lý lẽ, đồng cảm, yêu thương con người sâu sắc, làm câu chuyện càng thêm ấm áp tình người, xua tan đi cái lạnh lẽo của nạn đói khủng khiếp đang hoành hành ngoài kia.

Không chỉ ấn tượng ở tình mẫu tử sâu sắc, lòng bao dung, thấu hiểu, bà cụ Tứ còn bật lên với vẻ đẹp của niềm tin, niềm hy vọng mãnh liệt vào cuộc sống, vào một tương lai tốt đẹp phía trước, dù đang ở trong cảnh tượng khốn khổ, kinh hoàng nhất của nạn đói năm 1945. Cụ Tứ đã ở cái tuổi gần đất xa trời, cũng chẳng thể sống thêm mấy mươi năm nữa, thế nhưng trong lòng bà lúc nào cũng ngập tràn niềm tin về một tương lai sáng sủa, về chuyện một ngày nạn đói qua đi, gia đình bà sẽ lại có những ngày sống không phải lo bữa đói bữa no, cuộc sống sẽ đỡ bấp bênh vất vả hơn. Đồng thời cụ cũng gieo niềm tin, niềm hy vọng ấy vào tâm trí con trai con dâu mình bằng những lời thủ thỉ tâm tình rằng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?. Rồi trong bữa cơm sau đêm tân hôn của vợ chồng Tràng, bà cụ luôn nói đến những chuyện vui vẻ, gợi cho các con những dự định tốt đẹp trong tương lai, nào là chuyện nuôi gà đẻ trứng, chuyện làm ăn. Những lời nói đầy ắp hy vọng, niềm tin vào một tương lai khấm khá hơn khiến bữa cơm sáng chỉ “có độc một lùm rau chuối thái rối, một dĩa muối ăn với cháo”, dù khắc khổ, đạm bạc nhưng cũng thật vui vẻ và ấm áp. Trong bữa cơm sáng, bà cụ Tứ còn chiêu đãi các con bằng nồi chè khoán nấu từ cám đắng ngắt và nghẹn bứ nơi cổ họng, nó không chỉ thể hiện tấm lòng của người mẹ già nghèo khổ yêu thương con sâu sắc, mà còn bộc lộ ý tứ sâu xa của bà cụ về cuộc sống nhiều khó khăn sao này. Bà hy vọng rằng các con mình sao này dù gặp nhiều khó khăn, vất vả hơn nữa, cũng phải cố gắng mà vượt qua, cũng giống như ngày hôm nay họ cố nuốt xuống miếng cháo cám đắng nghét, khó ăn, để bắt đầu cuộc sống mới vậy. Có thể nói rằng dù già cả nhất, nhưng cụ Tứ lại chính là người có sức sống và niềm tin mãnh liệt nhất, trở thành người truyền cảm hứng, gieo vào lòng Tràng và thị những hy vọng, những khao khát vượt qua số phận, xây dựng một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, hướng tới một tương lai tươi sáng, không còn sợ cảnh đói rách hành hạ.

Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm phản ánh rõ nét tính kinh hoàng, thảm hại của người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Thế nhưng bên cạnh những cái tàn tạ, ghê gớm của cảnh đói rét, hiện thực tối tăm, Kim Lân cũng đồng thời thể hiện những giá trị nhân đạo sâu sắc khi thông qua hiện thực để làm bật lên vẻ đẹp của con người trong cảnh bần hàn, khốn khổ. Bà cụ Tứ giữa cái đói nghèo, tủi phận, giữa cảnh con trai mang về một người vợ nhặt, bà đã hiện lên với hình ảnh một người mẹ thấu hiểu và yêu thương con sâu sắc, một người đàn bà biết cảm thông, chia sẻ và bao dung với những kiếp người khốn khổ như thị, và cuối cùng là hình ảnh của một con người có niềm tin, sức sống mãnh liệt, là người gieo rắc vào thế hệ sau những tư tưởng tốt đẹp, tạo lập cho các con hy vọng vào cuộc sống, vượt qua nghịch cảnh để tiến tới tương lai tươi sáng hơn.

Đánh giá bài viết
1 952
Sắp xếp theo

    Học tốt Ngữ Văn lớp 12

    Xem thêm