Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương

Văn mẫu lớp 11: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương dưới đây được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 11 hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra môn Ngữ văn 11 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

I. Dàn ý Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương

Dàn ý Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Trần Tế Xương và dẫn dắt vào bài thơ Thương vợ.

Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn cách dẫn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân.

2. Thân bài

a. Hai câu đề

Quanh năm buôn bán ở mom sông: công việc buôn bán thường xuyên, liên tục trong môi trường khó khăn, vất vả của bà Tú được hiện lên. Công việc ấy thường xuyên xảy ra hết ngày này sang ngày khác trở nên quen thuộc như một lẽ thường tình.

Nuôi đủ năm con với một chồng: sự lam lũ, vất vả của bà Tú không chỉ để nuôi năm người con mà còn phải nuôi luôn cả ông chồng vốn là trụ cột trong gia đình, nỗi vất vả của bà như được nhân lên nhiều lần khi mà bà phải cáng đáng, là thành viên kiếm cơm duy nhất trong gia đình.

→ Thể hiện sức mạnh lớn lao của bà Tú cũng như nỗi hổ thẹn của ông Tú khi không lo được cho vợ con, để vợ mình phải lam lũ, vất vả.

b. Hai câu thực

Lặn lội thân cò khi quãng vắng: ông Tú liên tưởng hình ảnh của vợ mình với con cò lam lũ đi kiếm ăn sớm tối càng làm nổi bật nỗi vất vả của bà Tú, tình yêu thương của ông Tú dành cho bà Tú cũng như sự than trách, bất lực của ông Tú khi không giúp ích được cho bà Tú, cho cuộc sống gia đình.

Eo sèo mặt nước buổi đò đông: dù là lúc vắng người hay lúc đông người thì bà Tú vẫn luôn vất vả một nắng hai sương, chịu thương chịu khó kiếm sống giúp cho gia đình có đủ miếng ăn.

c. Hai câu luận

Một duyên, hai nợ, âu đành phận: những khó khăn, vất vả mà bà Tú phải chịu đều do duyên phận, do số kiếp cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy mà không dám một lời oán than. Người phụ nữ trong xã hội cũ phải nghe theo lời sắp đặt của cha mẹ, không được tự lựa chọn cuộc đời người đàn ông cho mình nên những khó khăn này cũng phải tự gánh chịu mà không một lời oán trách.

Năm nắng, mười mưa, dám quản công: những khó khăn, gian khổ của bà Tú được ông Tú nhìn thấu, thấu hiểu và ông cũng biết rằng vợ mình không bao giờ kêu cam than vãn. Chính những đức tính tốt đẹp này của bà Tú càng làm cho ông Tú thêm yêu thương người vợ tần tảo của mình hơn.

d. Hai câu kết

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc: Tiếng chửi của ông Tú cất lên, ông chửi thói đời bạc bẽo khiến vợ mình phải chịu khổ. Ông chửi cái xã hội thối nát khiến cho số phận người phụ nữ chịu nhiều bi thương. Hơn hết, tiếng chửi ấy là tiếng chửi chính bản thân mình vì là trụ cột trong gia đình mà không giúp đỡ được vợ.

Có chồng hờ hững cũng như không: ông Tú thay lời bà Tú nói lên tâm tư, là một lời tự trách mình đã không làm tròn bổn phận người chồng để cho vợ phải chịu nhiều đau khổ.

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ, đồng thời nêu cảm nghĩ của bản thân.

Dàn ý Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương mẫu 2

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Trần Tế Xương và bài thơ Thương vợ.

2. Thân bài

a. Bốn câu thơ đầu

“quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm khác.

“mom sông”: phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.

→ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định, bà không những phải nuôi con mà còn phải nuôi chồng.

“nuôi đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải lặn lội nuôi cả gia đình → người đảm đang, chu đáo với chồng con.

“Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng

“thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn; thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu.

→ Nhấn mạnh sự vất vả gian truân của bà Tú.

“Buổi đò đông”: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu.

Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.

→ Thực cảnh mưu sinh của bà Tú: Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đầy vất vả, gian nan đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.

b. Bốn câu thơ cuối

“Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên không than vãn, trách móc.

“Năm nắng mười mươi”: Đức hi sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.

→ Cuộc sống vất vả gian truân nhưng càng làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của bà Tú: đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú. Đó cũng là vẻ đẹp chung cho nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

II. Văn mẫu Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương mẫu 1

“Thương vợ” là bài thơ nổi tiếng, tiêu biểu cho sáng tác của Trần Tế Xương. Bài thơ phản ánh hình ảnh bà Tú vất vả, đảm đang, lặng lẽ hi sinh vì chồng vì con, đồng thời thể hiện tình thương yêu, quý trọng và biết ơn của Tú Xương đối với người vợ của mình.

Mở đầu bài thơ, Trần Tế Xương giới thiệu hoàn cảnh làm việc của vợ:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”

Chân dung của bà Tú hiện lên không phải từ dáng vóc, hình hài mà từ không gian và thời gian công việc. "Quanh năm" không chỉ là độ dài thời lượng mà còn gợi ra cái vòng vô kì hạn của thời gian, nó chứng tỏ cuộc mưu sinh không có hồi kết thúc. Không gian "mom sông" gợi lên không gian sinh tồn bấp bênh, chông chênh. Biết bao hàm ý toát lên trong cụm từ "nuôi đủ", nó vừa thể hiện sự chăm lo tận tụy chuyện cơm ăn áo mặc lại vừa hàm chỉ sự chịu đựng. Cách nói của nhà thơ đầy ý vị "năm con với một chồng". Nhà thơ đã tự hạ mình ngang hàng với các con khi cay đắng, tủi hổ, xót xa nhận ra mình cũng là một thứ con trong gánh nặng của vợ.

Ngoài không gian làm việc khó khăn mà điều kiện làm việc cũng vô cùng khắc nghiệt:

"Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông"

Tú Xương dùng một hình tượng quen thuộc trong văn chương dân gian nói về người phụ nữ lao động: Con cò lặn lội bờ sông... Tấm thân mảnh dẻ, yếu đuối của bà Tú mà phải chịu dãi nắng dầm sương thì đã là gian nan, tội nghiệp, vậy mà bà còn phải lặn lội sớm trưa. Nghĩa đen của từ này cũng gợi ra đầy đủ cái vất vả, khó nhọc trong nghĩa bóng. Tấm thân cò ấy lại lặn lội trên quãng vắng đường xa. Nói quãng vắng là tự nhiên nổi lên cái lẻ loi, hiu quạnh, lúc cần không biết nương tựa vào đâu, chưa nói đến những hiểm nguy bất trắc đối với thân gái dặm trường.

Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.

Ông Tú mượn tâm tư bà Tú mà suy ngẫm để cảm thông sâu sắc hơn: lấy chồng như thế này thì cũng là duyên hoặc nợ thôi, số phận đã thế thì cũng đành thế. Cho nên có khổ cực bao nhiêu, năm nắng mười mưa cũng phải chịu, phải lo, nào dám quản công. Chẳng còn là chuyện thân nữa, dù là thân cò, mà đã là chuyện phận rồi, chuyện số phận. Lại thêm nghĩa của “âu đành, dám quản”. “Âu đành” là một sự bất đắc dĩ, xếp lại, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục. “Dám quản “tức là không dám kể gì đến công lao, là thái độ chấp nhận gánh chịu mọi sự nhọc nhằn. Thêm âm thanh nặng nề của từ phận ở cuối câu khép lại càng làm cho câu thơ phù hợp với cảm xúc bị dồn nén vào trong.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.”

Hai câu kết là một tiếng chửi đổng cái thói đời ăn ở bạc. Lời chửi tuy có ném thẳng vào đời, nhưng trước hết là ném vào mình. Để tự trách mình thì ông phải chửi. Đối với ông Tú thì tự trách đến mức phải bật ra tiếng chửi như thế là rất giận mình. Bài thơ ông viết ra cốt để bày tỏ tình thương yêu, quý trọng người vợ đảm đang và tự trách mình là đồ tầm thường, vô tích sự. Bà Tú không hề coi chồng là ăn ở bạc, nhưng ông Tú thì gọi đích danh tội lỗi của mình ra như vậy, vợ chồng với nhau mà như thế thì còn gì mà không ông Tú lại không nói trực tiếp là mình ăn ở bạc mà khái quát nó lên thành thói đời. Thói đời đen bạc tượng trưng cho bản chất của xã hội kim tiền dưới thời thực dân phong kiến, ở thành thị điều đó càng tệ hại hơn.

Có thể nói với "Thương vợ", Tú Xương đã khắc hoạ rõ nét và sống động hình ảnh người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Đằng sau tiếng thơ là tiếng lòng tri ân trân trọng, cảm thông đồng thời là nỗi day dứt khôn nguôi của nhà thơ đối với người vợ thảo hiền.

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương - Bài làm 2

Trần Tế Xương là một nhà thơ trào phúng thời kỳ trung đại, thơ của ông mang nhiều nét trào phúng khá đặc biệt, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Nó thường thể hiện sự sâu cay mỉa mai trước những sự việc lố bịch, những điều bất công trong cuộc sống.

Nhan đề của bài thơ “Thương vợ” gợi lên cho người đọc cảm nhận về tình cảm của nhà thơ dành cho người vợ thân thương của mình, về người phụ nữ đầu ấp má kề. Nhưng khi đọc bài thơ chúng ta hiểu được rằng đó là một bài thơ trào phúng, thể hiện sự châm biếm của tác giả với những người đàn ông vô dụng trong xã hội.

Khi những người đàn ông sức dài vai rộng, khỏe mạnh nhưng lại chẳng làm nên cơm cháo gì, để cho người phụ nữ của mình phải làm trụ cột trong gia đình, thay chồng nuôi con rồi nuôi luôn cả ông chồng vô dụng.

Bài thơ thể hiện nỗi khổ của người phụ nữ, khi lấy phải một ông chồng chẳng tích sự gì, thể hiện nỗi lòng của người đàn ông không may trong sự nghiệp phải nhìn người vợ của mình tần tảo sớm hôm gánh vác việc nhà, mưu sinh.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”

Hình ảnh người vợ của tác giả xuất hiện trong hai câu thơ với sự tần tảo sớm khuya. Người phụ nữ với hình dáng chăm chỉ miệt mài khuya sớm, làm nghề buôn thúng bán bưng, đầu tắt mặt tối từ nửa đêm gà gáy, mong kiếm được ít tiền nuôi đàn con thơ dại.

Hình ảnh người phụ nữ xưa hiện ra giản dị, nhưng chăm chỉ, hay lam hay làm khiến cho người đọc vô cùng xúc động. Đó chính là hình ảnh người phụ nữ áo nâu sòng, váy đụp màu đen, gánh tất cả những nhọc nhằn của cuộc đời trên đôi quang gánh của đời mình.

Người vợ của tác giả Trần Tế Xương cũng hiện lên với hình ảnh tần tảo đó. Đặc biệt công việc ấy thường xuyên xảy ra hết ngày này sang ngày khác trở nên quen thuộc.

Trước sự vất vả của người vợ, tác giả vô cùng suy nghĩ cảm thấy thương người vợ sớm hôm tần tảo và tự trách bản thân mình sao quá vô dụng khi không lo được cho vợ con, để vợ mình phải lam lũ, vất vả.

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Hình ảnh người phụ nữ trong câu thơ này khiến người đọc liên tưởng tới hình ảnh con cò, một mình lặn lội thân cò đi làm, đi kiếm ăn từ nửa đêm gà gáy. Trong khi đó ông chồng được coi là trụ cột trong gia đình nhưng lại không làm được gì cho vợ con bớt vất vả trong cuộc sống mưu sinh. Khiến cho vợ mình phải lặn lội khuya sớm với biết bao nguy hiểm rình rập.

Hình ảnh người phụ nữ trong câu thơ này giống với hình ảnh con cò xưa, người phụ nữ nghèo khổ được nhà thơ sử dụng trong bài thơ vô cùng tinh tế sâu sắc, gợi lên những nỗi niềm xúc động vô bờ bến.

“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công. ”

Thời xưa người ta thường quan niệm vợ chồng lấy nhau đều có duyên nợ và căn tu từ kiếp trước “Tu trăm năm mới ngồi chung thuyền, tu nghìn năm mới nên duyên chồng vợ”. Chính vì vậy, vợ chồng phải có duyên phận thì mới thành đôi, không phải ai cũng có thể thành vợ thành chồng của nhau được. Vì vậy, mỗi người phải trân trọng người bạn đời của mình.

Trong hai câu thơ này tác giả Trần Tế Xương sử dụng chữ duyên để lột tả cho việc cam phận của người phụ nữ khi gặp một người chồng không thể mang lại cho mình sự an nhàn sung sướng, khiến cho cuộc sống của mình long đong, khổ sở, những người phụ nữ vẫn cam phận với một chữ duyên số.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không!”

Bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương cũng như bản thân nhan đề của bài thơ, thể hiện sự thương vợ của tác giả. Đồng thời thể hiện những lời mỉa mai châm biếm, của tác giả với những ông chồng vô dụng, với chính bản thân của tác giả, khi không thể làm bờ vai vững chắc cho người phụ nữ của mình, để cho vợ phải lặn lội, sớm khuya tần tảo.

Tác giả tự cảm thấy bản thân mình ăn ở bạc, không thể giúp cho người phụ nữ yếu đuối của mình nhiều hơn. Có chồng mà cũng như không, một người chồng không giúp được gì cho vợ thì thật đáng trách.

Bài thơ là lời tự sự, tự vấn lương tâm của tác giả, thể hiện sự thương vợ sâu sắc, thể hiện nỗi lòng cay đắng dằn vặt của tác giả khi không mang tới hạnh phúc cho người phụ nữ của đời mình.

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Thương vợ mẫu 3

Nhà thơ Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương là một trong những nhà thơ trào phúng của nền văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Bên cạnh những tác phẩm mang ý nghĩa trào phúng phê phán, lên án xã hội cũ ông còn những tập thơ trữ tình rất độc đáo. Một trong những tác phẩm tiêu biểu có giá trị lớn là bài thơ “Thương vợ”.

Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vẵng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không!

Có thể nói ông là một trong những nhà văn, nhà thơ có cuộc đời lận đận trong đường công danh, mặc dù là người thông minh nhưng ông đi thi đến lần thứ tám mới đậu được cái tú tài. Nhà nghèo lại động con, nghề dạy học lại bấp bênh trong xã hội suy tàn lúc bấy giờ, chính vì thế bà Tú lại chính là người trụ cột trong gia đình lo cái ăn, cái mặc cho chồng con. Người vợ hiền đảm đang ấy đã cho ông cảm hứng sáng tác bài thơ “Thương vợ”. Đây cũng là nỗi lòng của chính ông muốn nói với người vợ đảm đang, tần tảo sớm hôm không một lời oán thán. Mở đầu bài thơ Tú Xương đã khái quát phần nào nghề nghiệp của bà Tú và hoàn cảnh gia đình mình:

“Quanh năm buôn bán ở mom sống,

Nuôi đủ năm con với một chồng”.

Ông là trụ cột trong gia đình thế nhưng cuộc sống của gia đình lại dự vào việc buôn bán chạy chợ của vợ. Tác giả dùng từ “mom” bao hàm tính chân thực rất rõ, đây là từ gợi hình ảnh rõ nét để người đọc thấy được nỗi gian truân của bà Tú buôn bán quanh năm bên bờ sông Vị, nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh, nhiều nguy hiểm. Câu thơ đầu tác giả cho chúng ta thấy tấm lòng của nhà thơ đối với việc buôn bán khó nhọc của vợ. Thế nhưng công việc buôn bán vất vả ấy lại:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”

Câu thơ tả hoàn cảnh rõ dàng “ năm con với một chồng” không phải ngẫu nhiên mà ông lại sử dụng số đếm trong thơ. Mà ông đếm ở đây với mục đích vừa tăng thêm gánh nặng, sự vất vả tần tảo của bà Tú vì gia đình. Và đến ngay cả chồng cũng thành số đếm như một nghịch lý tức cười thay vì ít nhất chồng cũng phải nuôi đủ bản thân mình nhưng thực tế bà Tú lại là người nuôi chồng. Hoàn cảnh gia đình đã thế mà bà Tú gánh trên vai năm đứa con đã là vất vả, lại thêm một ông Tú trong nhà nữa. Câu thơ ẩn chứa nỗi niềm chua chát của tác giả về một gia cảnh gặp nhiều khó khăn: đông con và mọt ông chồng không làm được gì quanh năm chỉ đèn sách với thi cử. Để từ đó:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Hai câu thơ tiếp theo ngôn ngữ thơ đã tăng lên cấp độ mới, càng tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Từng chứ trong câu như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, hòa quyện và cùng bổ trợ làm gia tăng nỗi cực nhọc của bà Tú. Người vợ của tú Xương đã “lặn lội” nhưng lại mang “thân cò”, rồi có lúc trong hoàn cảnh “quãng vắng”. Nỗi cực nhọc kiếm sống mưu sinh ở “mom sông” tưởng như không thể nào nói hết được! Nhà thơ lấy hình ảnh “con cò” trong ca dao cổ: “Con cò lặn lội bờ sông…”, “Con cò đi đón cơn mưa…”, để tái hiện hình ảnh “thân cò” lầm lũi, đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội thời bấy giờ.

Hình ảnh lặn lội thân cò được tác giả mô phỏng trong thi ca dân:

“Con cò lặn lội bờ sông

Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”

Hai câu thơ tuy ngắn nhưng lại mang ý nghĩa gợi hình ảnh chân thực về bà Tú: Với tấm thân mảnh dẻ, yếu đuối bà Tú chịu dãi nắng dầm sương, bà còn phải lặn lội sớm trưa tất cả cũng chỉ vì miếng cơm manh áo. Tấm thân cò trong cái phản chiếu của nắng chiều là hình ảnh lẻ loi, hiu quạnh, lúc cần không biết nương tựa vào đâu, chưa nói đến những hiểm nguy bất trắc đối với thân gái dặm trường. Câu thơ mang lại cho độc giả nhiều suy ngẫm, sự đồng cảm đến xót xa, tội nghiệp! Hình ảnh bà Tú đại diện cho những người phụ nữ trong xã hội thối nát bấy giờ.

Những người phụ nữ ấy chỉ biết lặng lẽ hi sinh cho chồng cho con, họ cam chịu sự xô đẩy của xã hội, để rồi Tú Xương lại chính là người nói lên tâm tư của vợ:

“Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công”

Hai người nên duyên với nhau được là do duyên phận trời xe, vì thế mà bà “âu đành phận”. Đành phận lại như một sự bất đắc dĩ, xếp lại, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục của bản thân mình đã và đang từng ngày phải trải qua. Câu thơ khép lại bằng âm thanh nặng nề của từ phận lại càng làm cho câu thơ phù hợp với cảm xúc bị dồn nén vào trong. Bà Tú vất vả là thế, dầm mưa dãi nắng nhưng nào dám kể công lao với chồng, với con, mà luôn lặng lẽ dồn nén cam chịu.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không”

Tình cảm của tác giả thương vợ chất chứa trong lòng đến nghẹn thở, lại không thể giúp được người vợ hiền mà nhà thơ tự trách mình. Bản thân ông trở thành một miệng ăn cho vợ nuôi, điềm nhiên hưởng thụ trong khi vợ phải ngược xuôi tần tảo, nghe cũng đã có cái gì đó bất nhẫn. Tất cả tâm tư tình cảm ấy bùng nổ ở hai câu thơ kết “Cha mẹ thói đời…” như một lời chửi đổng với đời và cũng chính là lời xỉ vả mình. Câu thơ thất chua chát, đắng cay ông trách mình, hận mình đã để vợ vất vả, sống khổ cực luôn chạy đôn, chạy đáo lo cho gia đình. Nhưng thực tế bà Tú lại không hề oán trách chồng con một lời nào. Cũng chính sự cam chịu, chịu thương chịu khó mà ông lại càng thấy mình có lỗi, càng thấy oán trách bản thân hơn. Ở vào hoàn cảnh như thế ông coi mình là người ăn ở bạc bẽo với vợ. Bà Tú có chồng mà cũng như không vì bà chính là người nuôi sống gia đình.

Bằng tình cảm chân thành, nghệ thuật sống động, Tú Xương đã miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú là đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam xưa. Bao nhiêu công lao trong gia đình, ông Tú giành cho bà, ông chỉ nhận về cho mình một chữ “không”.

Bài thơ xuyên suốt là tình cảm của tác giả dành cho người vợ hiền, ông dành sự kính trọng, mọi công lao, những gì tốt nhất dành cho bà Tú. Ngôn ngữ thơ dung dị, đời thường, sử dụng nhiều yếu tố dân gian, bài thơ có giá trị nhân văn sâu sắc.

-----------------------

Trên đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài viết rồi đúng không ạ? Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu để học tập nhé. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 11 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 11 và biết cách soạn bài lớp 11 các bài trong sách Văn tập 1 và tập 2. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.

Các bài liên quan đến tác phẩm:

Đánh giá bài viết
7 23.402
Sắp xếp theo

    Văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức

    Xem thêm