Soạn bài Chữ người tử tù

Soạn bài lớp 11: Chữ người tử tù do Nguyễn Tuân sáng tác thuộc môn Ngữ văn lớp 11 học kỳ 1. Bài soạn dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo về cuộc tương phùng kỳ ngộ của những tri kỷ giữa chốn ngục tù xoay quanh việc xin chữ và cho chữ của tử tù, quản ngục và thầy thơ lại giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 11 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình.

Mời các em tham khảo:

Về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả Nguyễn Tuân

a. Tiểu sử tác giả Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987 trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã suy tàn.

Quê thuộc làng Mộc, nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.

Từ năm 1948 đến năm 1968, ông là Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam

Năm 1996, ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

b. Quan điểm sáng tác và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có vị trí to lớn và vai trò không nhỏ đối với nền văn học Việt Nam.

Ông là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cách tuyệt mĩ,… Kho từ vựng phong phú, tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, có phối âm, phối thanh linh hoạt, tài ba…

Phong cách nghệ thuật: phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân có sự thay đổi trong những sáng tác ở thời kì trước và sau cách mạng tháng Tám song có thể thấy những điểm nhất quán sau: Phong cách của Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”, trong mỗi trang viết của mình, Nguyễn Tuân luôn muốn thể hiện sự tài hoa, uyên bác của bản thân.

- Trước Cách mạng tháng Tám: ông đắm chìm trong quá khứ, đi tìm cái đẹp ở quá khứ, những cái đẹp đã qua đi, bỏ rơi thực tại mục nát, thối rữa. Đây là thời Nguyễn Tuân sáng tác được nhiều tác phẩm gây ấn tượng: Vang bóng một thời…

- Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945: tâm hồn ông hòa cùng đất nước, cùng cuộc sống con người, Nguyễn Tuân thức tỉnh khỏi những vang âm của quá khứ, ra đi tìm cái đẹp trong chính cuộc sống đời thường, đi tìm thứ “vàng mười đã qua thử lửa” và ông cũng có nhiều tác phẩm gây tiếng vang ở giai đoạn này: Sông Đà, một chuyến đi…

2. Tác phẩm Chữ người tử tù

Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in năm 1938 trên tạp chí Tao đàn, sau đó được tuyển in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù khi in lần đầu (1940).

Tác phẩm được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét là “một văn phẩm đạt tới sự toàn thiện, toàn mĩ”.

Soạn bài Chữ người tử tù mẫu 1

1. Kiến thức cơ bản

Nguyễn Tuân (1910-1987), quê làng Mọc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Nguyễn Tuân là nhà văn có tài năng và tài hoa đặc biệt của văn học Việt Nam. Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình nhà Nho vào thời buổi Hán học đã lụi tàn. Ông chịu ảnh hưởng từ người cha là một nhà Nho tài hoa bất đắc chí là ông tú Nguyễn An Lan. Nhiều tác phẩm của Nguyễn Tuân thể hiện sự hoài niệm về những nét đẹp văn hoá cổ truyền đã mất đi. Trong đó, tiêu biểu nhất là tập truyện "Vang bóng một thời".

Chữ người tử tù là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trước cách mạng. Truyện ngắn có một tình huống truyện rất độc đáo. Huấn Cao là một tử tù nhưng lại là người đại diện cho thiện lương, là một nghệ sĩ ban phát cái đẹp. Viên quản ngục là người đại diện cho chính quyền nhưng lại là người được nhận cái đẹp từ người tử tù.

Qua truyện ngắn này, nhà văn muốn thể hiện quan niệm của mình về cái đẹp, về thiên lương. Đó là: cái đẹp, thiện lương có sức mạnh cảm hóa con người. Người biết thưởng thức cái đẹp là người tốt, là người có thiên lương và họ là một người nghệ sĩ.

2. Tóm tắt tác phẩm

Truyện được dựng trên một tình huống oái ăm, đầy kịch tính xoay quanh việc xin chữ và cho chữ của tử tù, quản ngục và thầy thơ lại. Quản ngục và thầy thơ lại lại rất yêu cái đẹp, trọng cái tài. Khi nghe tin Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp mà cả đời quản ngục ngưỡng mộ nhưng cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình đã bao lần "bẻ khoá vượt ngục", sẽ được đưa đến nhà lao chờ ngày lĩnh án, viên quản ngục mong muốn xin chữ. Quản ngục chờ đợi trong những trăn trở suy nghĩ. Ông Huấn Cao được đưa đến nhà lao. Ông xuất hiện trong tư thế hiên ngang. Nhà tù đón tù nhân rất nhã nhặn, khác những lần trước.

Quản Ngục bất chấp phép nước đối xử rất tận tình, chu đáo và đặc biệt với Huấn Cao ngay cả khi Huấn Cao tỏ ra lạnh lùng, khin. Sự kiên trì, chờ đợi, hi vọng được gặp và cậy nhờ xin chữ Huấn Cao của Quản Ngục cứ khắc khoải nặng nề một ngày dài tựa thiên thu. Ông "khổ tâm nhất là có Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết thế nào mà xin được chữ", ông cũng "không can đảm giáp mặt một người cách xa nhiều quá". Ông phập phồng lo lắng "mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời". Và "Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt người đi sau khi tiếp nhận công văn của Quan Hình Bộ Thượng thư bắt giải ông Huấn.... vào Kinh" để ra pháp trường. Viên thơ lại giúp ông bày tỏ nỗi lòng với Huấn Cao. Huấn Cao thực sự xúc động trước "sở thích cao quý" của quản ngục, cảm cái tấm ''lòng biệt nhỡn liên tài" mà chủ động cho chữ. Cảnh cho chữ diễn ra trong căn phòng giam chật hẹp, ẩm thấp được Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thành một "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có".

3. Rèn kĩ năng

a. Có thể chia tác phẩm thành ba phần:

  • Phần 1 (đoạn 1): Tâm trạng và nỗi lòng của viên quản ngục khi nhận được trát báo tử tù Huấn Cao, một người có tài viết chữ đẹp nổi tiếng vùng tỉnh Đông sẽ được đưa đến giam tại nhà ngục do ông ta quản lí. Nhân vật viên quản ngục được miêu tả là một người có tấm lòng, "tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ".
  • Phần 2 (đoạn 2): Huấn Cao được đưa đến, viên quản ngục tiếp đón đoàn tù binh khác ngày thường. Huấn Cao hiên ngang giữa chốn ngục tù, thản nhiên đón nhận sự biệt đãi của viên quản ngục. Viên quản ngục mong chờ ngày xin được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà.
  • Phần 3 (đoạn 3): Cảnh cho chữ. Huấn Cao viết chữ tặng viên quản ngục giữa căn phòng giam chật trội, tối tăm. Khi cho chữ, Huấn Cao khuyên viên quản ngục nên từ bỏ công việc cai ngục để giữ vững thiện lương.

b. Nhân vật Huấn Cao là hình tượng nghệ thuật đẹp, tiêu biểu cho thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân.

Huấn Cao mang vẻ đẹp của tài năng, khí phách và thiện lương. Ông là người có tài viết chữ đẹp nổi tiếng khắp vùng. Đó là tài của người nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp. Khí phách của ông cũng khiến người ta phải kính nể. Huấn Cao không sợ cường quyền, không sợ tù ngục và cái chết, ông luôn ngẩng cao đầu. Ông đã dám đứng lên chống lại triều đình. Hơn nữa, Huấn Cao còn là biểu tượng của thiên lương. Thiên lương ấy thể hiện ở bản lĩnh, ở thái độ biết trọng người hiền của ông. Tài năng, khí phách và thiên lương của Huấn Cao không chỉ làm toả sáng vẻ đẹp của con người ông mà còn có khả năng cảm hoá người khác. Nguyễn Tuân là một nhà văn có cá tính sáng tạo độc đáo. Ông thường tiếp cận và khai thác đối tượng từ phương diện văn hoá thẩm mĩ, phương diện phi thường. Huấn Cao là nhân vật tiểu biểu cho quan niệm nghệ thuật ấy. Người tử tù ấy là một người nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp. Và cái đẹp đã chiến thắng bạo lực, cái đẹp toả sáng giữa chốn ngục tù và làm toả sáng vẻ đẹp thiên lương của con người.

Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo thành công và tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp nghệ sĩ ở viên quản ngục, một kẻ gần cả đời người gắn với tội ác và chết chóc. Dù làm cái nghề cai ngục trong xã hội cũ, nhưng viên quản ngục là người biết trọng tài năng và cái đẹp. Nhà văn đã dùng một hình ảnh so sánh rất độc đáo để viết về viên quản ngục, "là thanh âm trong trẻo giữa bản đàn mà nhạc luật đều đã xô bồ". Nhân vật viên quản ngục đã chứng tỏ rằng cái đẹp có khả năng cảm hoá con người, giúp con người biết sống tốt hơn.

c. Truyện được dựng trên một tình huống oái ăm, đầy kịch tính đó là cuộc tương phùng kỳ ngộ của những tri kỷ giữa chốn ngục tù xoay quanh việc xin chữ và cho chữ của tử tù, quản ngục và thầy thơ lại.

Là người nắm giữ quyền lực nơi đề lao tăm tối, quản ngục và thầy thơ lại lại rất yêu cái đẹp, trọng cái tài. Là người có tài viết chữ đẹp mà cả đời quản ngục ngưỡng mộ nhưng cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình đã bao lần "bẻ khoá vượt ngục", Huấn Cao xuất hiện giữa đề lao trong vai một tử tù đang chờ ngày lĩnh án. Cuộc gặp gỡ của những nhân cách cao đẹp này trở thành cuộc đối đầu giữa tử tù và cai ngục. Các tình tiết sự kiện cảm xúc cứ dồn nén như thắt lại ở cao trào để tạo hứng thú nghệ thuật ở cuối truyện: cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong nhà giam vào đêm trước ngày ra pháp trường - "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có".

d. Thành công của tác phẩm tập trung ở cảnh cho chữ. Trong cảnh này, vẻ đẹp của cả hai nhân vật đều toả sáng và đây là cảnh tượng khẳng định sự lên ngôi của tài năng và cái đẹp.

Cảnh cho chữ là cảnh tượng xưa nay chưa từng có, cuộc tương phùng kỳ ngộ của những người tri kỷ giữa chốn ngục tù xoay quanh việc xin chữ và cho chữ của tử tù, quản ngục và thầy thơ lại.

Đây là một tình huống độc đáo: cái đẹp được sáng tạo trong tù ngục. Người cho chữ là tử tù, người nhận chữ là quản ngục. Cái ác cúi đầu trước thiên lương, cái thiên lương được tôn vinh nơi cái ác ngự trị. Vẻ đẹp của tài năng và thiên lương đã toả sáng nơi tăm tối nhất. Đó là sự vững bền và bất khuất của chân lí.

e. Nhà văn đã sử dụng rất thành công thủ pháp nghệ thuật đối lập khi dung cảnh cho chữ của Huấn Cao giữa chốn ngục tù.

Một công việc thanh cao được thực hiện giữa chốn tăm tối, một ngọn đuốc sáng, một vuông lụa trắng tính giữa căn phòng ẩm thấp đầy mạng nhện, người tử tù cổ đeo gông là người nghệ sĩ hiên ngang sáng tạo cái đẹp, viên quan cai ngục vốn là chủ của ngục tù khúm núm cúi đầu trước cái đẹp và trước tài năng... Đó là những hình ảnh tương phản. Những hình ảnh tương phản ấy đã tôn vinh vẻ đẹp của tài năng, khí phách, thiên lương. Cái đẹp đã tỏa sáng và được tôn vinh giữa nơi mà tội ác, sự tối tăm từng ngự trị.

f. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện ở chỗ nhà văn luôn tiếp cân đối tượng từ phương diện văn hóa thẩm mĩ. Ông đặc biệt chú ý đến cái tài và cái tâm của nhân vật.

Trước cách mạng, nhà văn đặc biệt chú ý đề cao cái đẹp, nhất là những nét đẹp văn hóa truyền thống ẩn trong Chữ người tử tù, quan điểm nghệ thuật của nhà văn được tập trung thể hiện ở nhân vật Huấn Cao. Qua nhân vật này nhà văn đề cao vẻ đẹp của tài năng, thiên lương và khí phách. Huân Cao là sự kết hợp hoàn mĩ giữa tài và tâm. Còn nhân vật viên quản ngục là một chúng minh của nhà văn về sức mạnh cảm hóa của cái đẹp. Người sáng tạo ra cái đẹp là người tốt và người biết thưởng thức cái đẹp cũng là người có thiên lương.

4. Tư liệu tham khảo

a. Về tác giả

... "Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩa đến cái gọi là chủ nghĩa xê dịch. Con người thích chơi ngông ấy rất khoái khi ném ra được những nghịch lý, nghịch thuyết. Chủ nghĩa xê dịch cũng là một thứ nghịch thuyết. Đi không cần mục đích, không cần nơi đến, cốt là cứ được lăn cái vỏ mình mãi mãi trên mặt đất này, dù bằng phương tiện nào, dù đi nhanh hay đi chậm, thậm chí ngồi trên xe hồ lô lăn đường cũng được. Thứ lý thuyết này thực ra chẳng phải do Nguyễn Tuân sáng tạo ra. Ông vay mượn nó ở phương Tây. Người đầu têu ra hình như là nhà triết học Nitso, kế đó là những Angđrê Giđơ, Pôn Môrăng v.v.. Cái lý thuyết nghe có vẻ vớ vẩn như thế thôi ấy vậy mà có một thời cũng hấp dẫn đáo để...

... Người ta còn gán cho Nguyễn Tuân một nghịch thuyết khác: Chủ nghĩa ẩm thực. Chính Nguyễn Tuân cũng có lúc tự thấy mình có một cái nhìn sự vật riêng gọi là "Nhỡn quan ẩm thực".

Thực ra nói nhiều về cái ăn, về miếng ăn, đâu có riêng gì Nguyễn Tuân? Ngày xưa có ai đó đã biên soạn cuốn Tản Đà thực phẩm. Ông bạn vong niên này của Nguyễn Tuân vẫn nổi tiếng là người ăn uống sành sỏi và cầu kỳ lắm. Thế hệ sau thì có Thạch Lam, tác giả Hà Nội băm sáu phố phường. Nguyên Hồng cũng hay tả tỉ mỉ những bữa ăn, những món ăn. Nam Cao thì hay triết lý về miếng ăn đối với người nghèo. Vũ Bằng thường viết lối phóng sự tả chân sau này bỗng chuyển sang giọng văn trữ tình khi nhớ lại những miếng ngon Hà Nội (Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội)...

Chung quanh miếng ăn, vậy mà cũng đã phân hóa lắm phong cách nghệ thuật khác nhau. Ví như Nguyên Hồng cũng là một cây bút viết rất hay về miếng ăn. Nhưng nhìn chung ông thành công hơn cả vẫn là khi tiếp cận miếng ăn từ khẩu vị của những người nghèo khổ. Miếng ăn trong văn Thạch Lam, Vũ Bằng thì lại được tiếp cận từ khẩu vị của những lớp thị dân Hà Nội. Nam Cao cũng hay viết về vấn đề miếng ăn và viết với tất cả tâm huyết của mình (Một bữa no, Trẻ con không biết ăn thịt chó, Quên điều độ, Sống mòn...). Nhưng ông không bàn luận về miếng ăn như là một thứ thực phẩm. Ông đau đớn đề cập đến cái phương diện: miếng ăn là miếng nhục. Nhân vật của Nam Cao thường bị cái đói, cái nghèo đẩy tới chỗ phải vứt bỏ nhân cách, phải chịu bị lăng nhục vì miếng ăn.

Nguyễn Tuân cũng viết rất hay về miếng ăn, nhưng lại có một cách tiếp cận riêng không lẫn với ai. Đọc văn Nguyễn Tuân thấy con người trước miếng ăn chẳng những không hèn đi mà còn trở nên sang trọng hơn. Chẳng những không bị phàm tục hóa mà còn trở nên có tư cách hơn, có văn hóa, có thẩm mĩ hơn, có tâm hồn hơn, ấy là vì Nguyễn Tuân không nhấm nháp miếng ăn bằng vị giác, nghĩa là tiếp cận nó chỉ như một của ngon. Ông tìm hiểu và đánh giá chén trà buổi sớm, hạt cốm mùa thu, bát phở mùa đông, miếng giò ngày Tết v.v.. ở bình diện văn hóa- lịch sử và thưởng thức những mĩ vị ấy một cách đầy tự hào như những công trình nghệ thuật tuyệt vời mà ông gọi là "đỉnh cao của một dạng văn hóa dân tộc"... (Giò lụa)

(Nguyễn Đăng Mạnh, Cảnh sắc và hương vị đất nước qua văn Nguyễn Tuân. Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Sđd, tr.154-159)

b. Tập Vang bóng một thời

... "Vang bóng một thời viết về một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng, song chưa phải là xa lắm: thời Tây vừa mới đặt xong ách đô hộ lên đất nước, phong trào Cần Vương đã thất bại, những nhà nho lủi thủi dự "khoa thi cuối cùng" trong không khí loạn lạc đầy lo âu... Viết về cái thời xã hội phong kiến suy tàn ấy, nhà văn hầu như chỉ đi vào những nét sinh hoạt tài hoa, cầu kỳ của lớp nho sĩ cuối mùa. Nhân vật trong Vang bóng một thời thuộc loại tài hoa, tài tử và mỗi truyện tập trung nói về một cái "tài" một kiểu ăn chơi "phong lưu" của họ. Đó là ông Huấn Cao có "cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp" (Chữ người tử tù), là cụ Sáu, ông Đốc học, sư cụ chùa Đồi Mai... những người thưởng thức một ấm trà mà thành kính, thiêng liêng, pha trà bằng nước giếng gánh tận trên đồi cao, hoặc nước đọng trên lá sen mặt hồ một buổi sớm..."

(Nguyễn Hoành Khung, Từ điển văn học, tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1964)

c. Về tác phẩm

"Những nhà văn có phong cách đều tạo ra cho mình một thế giới nhân vật riêng. Thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân, nói chung gồm hai loại người đối lập nhau: Loại người tài hoa nghệ sĩ, có nhân cách, có "thiên lương", tự đặt mình lên trên hạng người thứ hai gồm những kẻ tiểu nhân phàm tục, bằng thái độ ngạo đời, khinh bạc. Loại người thứ nhất, theo Nguyễn Tuân, thường là những linh hồn đẹp còn sót lại của một thời gian đã qua, nay chỉ còn "vang bóng". Loại người ấy cố nhiên là hiếm hoi. Còn kẻ tiểu nhân phàm tục thì đầy rẫy trong thiên hạ.

Chữ người tử tù dựng lên một thế giới tối tăm, tù ngục, trong đó kẻ tiểu nhân, bọn độc ác bất lương làm chủ. Trên cái tăm tối ấy, hiện lên ba đốm sáng lẻ loi, cô đơn: Huấn Cao, người quản ngục và viên thơ lại - những con người có tài và biết trọng tài, có nghĩa khí và biết trọng nghĩa khí. Họ tình cờ gặp nhau trong một tình thế oái oăm, từ chỗ ngờ vực nhau, đối địch nhau, dần dần đi đến hiểu nhau và trở thành tri kỷ.

Ba đốm sáng cô đơn ấy cuối cùng tụ lại, tạo thành ngọn lửa ngùn ngụt rực sáng giữa chốn ngục tù- "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có". Cái đẹp, cái tài, sự trong sạch của tâm hồn đã tập hợp họ lại giữa cái nơi xưa nay chỉ có gian ác, thô bỉ và hôi hám: "ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi trên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ".

Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái tài, cái đẹp đối với cái nhem nhuốc, tục tằn, của thiên lương đối với tội ác..."

(Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Sđd, tr.168-169)

Soạn bài Chữ người tử tù mẫu 2

1. Câu 1 - Trang 114 SGK

Tình huống truyện của tác phẩm Chữ người tử tù là gì? Tác dụng của tình huống này đối với việc thể hiện tính cách nhân vật và kịch tính của truyện?

Trả lời:

- Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra tình huống truyện độc đáo: Cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác thường: viên quản ngục – kẻ đại diện cho bạo lực tăm tối nhưng lại rất khát khao ánh sáng của chữ nghĩa với Huấn Cao – người tử tù đang chờ ngày ra pháp trường nhưng có tài viết chữ đẹp nổi tiếng.

+ Hai nhân vật: Huấn Cao và Quản ngục, trên bình diện xã hội hoàn toàn đối lập nhau, nhưng hai nhân vật này đều là những người có tâm hồn nghệ sĩ. Trên bình diện nghệ thuật, họ là những người tri âm, tri kỉ với nhau.

+ Tác giả đã đặt những nhân vật này vào tình thế đối địch: tử tù và quản ngục, tạo nên cuộc gặp gỡ kì lạ trong chốn ngục tù tối tăm, dơ bẩn.

=> Mối quan hệ đặc biệt éo le, đầy trớ trêu giữa những những tâm hồn tri âm, tri kỉ. Từ đây nảy sinh nhiều kịch tính: người tử tù thành người mà viên quản ngục nhờ vả muốn xin chữ; đồng thời lại là người mở đường hướng thiện cho cuộc sống về sau của viên quản ngục. Chính tình huống độc đáo này đã giúp làm nổi bật trọn vẹn, tự nhiên vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao và làm sáng tỏ tấm lòng biệt đãi người tài của viên quản ngục.

- Tác dụng của tình huống truyện đối với việc thể hiện tính cách nhân vật:

+ Tính cách của mỗi nhân vật mỗi lúc thêm đầy đủ, rõ nét và trọn vẹn hơn.

+ Từ tình huống truyện này mà Huấn Cao đã hiểu thêm về viên quản ngục.

+ Tình huống truyện đã tạo nên kịch tính cho thiên truyện.

2. Câu 2 - Trang 114 SGK

Phân tích vẻ đẹp độc đáo của hình tượng Huấn Cao. Qua nhân vật Huấn Cao, anh (chị) có nhận xét gì về quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp ?

Trả lời:

* Vẻ đẹp tài hoa của Huấn Cao

- Qua lời nói:

+ Của quản ngục với thơ lại: người mà khắp vùng….rất đẹp đó không?

+ Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm

+ Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật ở đời.

+ Nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời con người.

- Qua thái độ và hành động: quản ngục liều chết biệt nhỡn Huấn Cao (nói năng lễ phép, đãi Huấn Cao rượu thịt), từng bước bày tỏ khát vọng xin chữ.

* Vẻ đẹp khí phách

- Lý tưởng sống cao cả: dám phất cờ dấy binh chống lại triều đình, hi sinh hạnh phúc riêng vì sự nghiệp lớn, đi tù và chịu án tử hình.

- Tư thế, hành động:

+ Có tài bẻ khóa vượt ngục, vào tù ra tội, từng trải

+ Ung dung, đường hoàng:

=> Vẻ đẹp của Huấn Cao là vẻ đẹp của khí phách bất khuất, anh hùng. Đó là hình mẫu tiêu biểu đẹp đẽ của bậc hào kiệt “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.

* Vẻ đẹp thiên lương

- Thiên lương tự tỏa sáng từ con người Huấn Cao.

+ Tỏ rõ thái độ lạnh lùng, kiêu bạc, thậm chí coi thường những trò “tiểu nhân thị oai” của bọn lính lệ cũng như hành động kì lạ của viên quản ngục.

+ Sau khi hiểu tấm lòng của quản ngục:

+) “mỉm cười với thầy thơ lại” -> chân thành, cởi mở

+) “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”

=> Câu nói vừa thoáng một chút ân hận vì đã đối xử khinh bạc với quản ngục, lại vừa rưng rưng niềm cảm động.

- Thiên lương có khả năng làm bừng sáng vẻ đẹp của người khác

+ Lời khuyên với quản ngục: "Ở đây lẫn lộn…mất cái đời lương thiện đi" -> Lời khuyên khuyến khích con người hướng thiện.

=> Bằng chứng rõ nhất về khả năng cảm hóa và làm bừng sáng thiên lương ở người khác của nhân vật Huấn Cao. Điều mà con người này ban tặng cho cuộc đời không chỉ là cái đẹp của nghệ thuật thư pháp mà còn là khả năng cứu rỗi những cuộc đời khác.

=> Huấn Cao là người vừa có tài vừa có tâm, bất khuất trước cái ác cái xấu nhưng mềm lòng trước cái thiện, cái đẹp.

* Quan niệm thẩm mĩ và thái độ của nhà văn

- Quan niệm thẩm mĩ:

+ Cái đẹp và cái thiện không thể tách rời nhau

+ Một nhân cách đẹp bao giờ cũng là sự thống nhất giữa cái tâm và cái tài.

- Thái độ của nhà văn: Yêu mến, ca ngợi Huấn Cao, tiếc nuối những người như ông Huấn.

3. Câu 3 - Trang 114 SGK

Nhân vật quản ngục có phẩm chất gì khiến Huấn Cao cảm kích coi là "một tấm lòng trong thiên hạ", và tác giả coi đó là "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ".

Trả lời:

* Phẩm chất của nhân vật viên quản ngục

+ Dù là cai tù, chứng kiến bao điều dễ đẩy con người vào chốn bùn nhơ nhưng ông có thú chơi chữ. Có thể thấy viên quản ngục là một người có tâm hồn nghệ sĩ.

+ Là một người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”, cảm phục tài năng và nhân cách Huấn Cao.

+ Quản ngục suy nghĩ về nghề của mình và cho rằng “chọn nhầm nghề”. Một lòng tâm phục, khẩu phục, nghẹn ngào “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu: “ kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. “quản ngục” hai tiếng ấy để chỉ công việc chức trách. Đó chỉ là cái áo khoác phủ ngoài một tâm hồn đẹp.

=> Đây chính là những phẩm chất khiến Huấn Cao cảm kích, coi là “một tấm lòng trong thiên hạ”.

* Quan niệm nghệ thuật của nhà văn

+ Trong mỗi con người đều có một người nghệ sĩ, đều ẩn chứa tâm hồn yêu cái đẹp, cái tài.

+ Có khi cái đẹp tồn tại trong môi trường của cái ác, cái xấu nhưng không vì thế mà nó lụi tàn, trái lại nó càng mạnh mẽ và bền bỉ giống như hoa sen mọc trên đầm lầy.

=> Tác giả xem ngục quan là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.

4. Câu 4 - Trang 114 SGK

Phân tích đoạn văn tả cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong nhà lao. Vì sao tác giả lại coi đây là "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có"?

Trả lời:

* Địa điểm cho chữ đặc biệt:

- Thông thường người ta cho chữ và xin chữ ở những nơi sạch sẽ, yên tĩnh, tôn nghiêm, trang trọng.

- Cảnh cho chữ và xin chữ trong tác phẩm diễn ra ở nhà tù tối tăm, bẩn thỉu, xưa nay chỉ tồn tại cái xấu và cái ác.

* Thời điểm cho chữ đặc biệt:

- Thông thường người ta cho chữ khi tâm trạng thoải mái, thư thái, thanh thản, tâm tĩnh.

- Thời điểm cho chữ ở tác phẩm là đêm trước khi Huấn Cao đi chịu án tử hình, dành trọn những phút cuối đời để tặng lại cái đẹp cho đời, cho tấm lòng ở đời.

* Vị thế của người cho chữ và xin chữ

- Người cho chữ là người nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp lại ở vị thế của tử tù; vốn là đối tượng cần được giáo dục, cảm hóa lại ban phát những lời khuyên chí tình cho quản ngục.

- Người xin chữ ở vị thế quản ngục, cai quản tử tù, tiếp nhận, bái lĩnh những lời khuyên của tử tù.

-> Vị thế trên bình diện xã hội khác, trên bình diện nghệ thuật lại khác.

=> Giữa chốn ngục tù tàn bạo, không phải kẻ thống trị làm chủ mà là người tù làm chủ. Cái thiện vẫn hiện lên mạnh mẽ chiến thắng được cái ác. Đó là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối; là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện và nhân cách cao cả của con người.

5. Câu 5 - Trang 114

Anh (chị) có những nhận xét gì về bút pháp xây dựng nhân vật, bút pháp miêu tả cảnh vật, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù?

Trả lời:

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhân vật được xây dựng bằng bút pháp lí tưởng hóa cảm cảm hứng lãng mạn.

- Cảnh trong tác phẩm được xây dựng bằng nghệ thuật tương phản, làm nổi bật sự đối lập gay gắt giữa cái đẹp và cái xấu, cái thiện và cái ác, tính cách và hoàn cảnh.

- Ngôn ngữ: giàu tính tạo hình, sử dụng nhiều từ Hán Việt, từ cổ để tạo không khí thời đại và của người vang bóng. (Cảm thấu được sống lại một cảnh tượng cổ kính, thiêng liêng về viết câu đối của cha ông ngày xưa).

Mời các em tham khảo thêm một số tài liệu khác có liên quan đến tác phẩm Chữ người tử tù:

Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu Soạn bài Chữ người tử tù. Để có kết quả cao hơn trong học tập mời các bạn tham khảo thêm các tài liệu khác tại mục Tài liệu học tập lớp 11 do VnDoc tổng hợp và đăng tải. Chúc các bạn học tập tốt!

Đánh giá bài viết
6 13.588
Sắp xếp theo

    Soạn bài lớp 11

    Xem thêm