Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 môn Ngữ văn năm 2015 - 2016 - Đề số 4

Đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn có đáp án

VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh lớp 9 bài test Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 môn Ngữ văn năm 2015 - 2016 - Đề số 4. Tham gia làm bài để làm quen thêm nhiều dạng câu hỏi mới trong đề thi môn Ngữ văn nhé. Đừng quên tham khảo phần gợi ý, hướng dẫn giải phía cuối bài để đưa ra câu trả lời đúng nhất.

Mời các bạn tham khảo thêm bài test:

Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 môn Ngữ văn năm 2015 - 2016 - Đề số 3

Bạn cần đăng ký tài khoản VnDoc Pro để làm bài trắc nghiệm này! Tìm hiểu thêm
  • I. Trắc nghiệm

    Câu 1:
    Xét về phương diện biểu cảm, bài Đấu tranh cho một thế giới hòa bình thuộc kiểu văn bản:

  • Câu 2:

    Giá trị nghệ thuật của đoạn trích Chuyện người con gái Nam Xương được thể hiện ở những điểm nào?

  • Câu 3:

    Ngoài giá trị về nghệ thuật, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí còn có giá trị về mặt nào?

  • Câu 4:

    Trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du), bên cạnh vẻ đẹp về hình thức, Thúy Kiều còn có vẻ đẹp đặc biệt khác. Đó là vẻ đẹp nào?

  • Câu 5:

    Nội dung chính của đoạn trích Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du) là gì?

  • Câu 6:

    Qua đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga (trích Truyện Lục Vân Tiên), Nguyễn Đình Chiểu muốn thể hiện khát vọng gì?

  • Câu 7:

    Trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh nào?

  • Câu 8:

    Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được tác giả Huy Cận sáng tác trong hoàn cảnh nào?

  • Câu 9:

    Các câu: “Tha này! Tha này!” là:

  • Câu 10:

    Khái niệm nào sau đây nêu đầy đủ nhất về lời dẫn trực tiếp?

  • II. Tự luận
    Câu 1:
    Hãy tóm tắt và nêu tình huống truyện Bến quê của nhá văn Nguyễn Minh Châu?
    Trả lời: .................
    + Tóm tắt Nhân vật chính của truyện – Nhĩ – từng đi khắp mọi nơi trên Trái Đất – về cuối đời lại bị cột chặt trong giường bệnh bởi một căn bệnh hiểm nghèo, đến nỗi tự mình không thể dịch chuyển lấy vài mươi phân trên chiếc giường hẹp kê bên cửa sổ. Nhưng cũng chính vào thời điểm ấy, Nhĩ đã phát hiện ra vùng đất bên kia sông, nơi bến quê quen thuộc, một vẻ đẹp bình dị mà hết sức quyến rũ. Cũng như đến lúc nằm liệt giường, nhận sự săn sóc đến từng miếng ăn, ngụm nước của người vợ, Nhĩ mới cảm nhận hết nỗi vất vả, sự tần tảo, tình yêu thương và đức hi sinh thầm lặng của người vợ. Nhĩ vô cùng khát khao được một lần đặt chân lên bờ bãi bên kia sông, cái miền đất thật gần gũi nhưng đã trở nên rất xa vời đối với anh. Nhân vật đã chiêm nghiệm được cái quy luật đầy vẻ nghịch lí của đời người. -Tình huống truyện Truyện được trần thuật theo cái nhìn và tâm trạng của nhân vật Nhĩ, trong một hoàn cảnh đặc biệt. Căn bệnh hiểm nghèo khiến cho anh hầu như bị tê liệt toàn thân. Tát cả các sinh hoạt của anh đều phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác, chủ yếu là Liên, vợ anh. Tình huống truyện trớ trêu như một nghịch lí: Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không xót một xó xỉnh nào trên trái đất, và chắc hẳn cuộc đời anh là dành cho những chuyến đi liên tiếp dến mọi chân trời xa lạ. Nhưng ở cuối đời, căn bệnh quái ác lại buộc anh vào giường bệnh. Một buổi sáng, Nhĩ muốn nhích người đến bên cửa sổ nhưng chuyến ấy đối với anh khó khăn như phải đi hết vòng Trái Đất, và phải nhờ vào sự giúp đỡ của đám trẻ con hàng xóm. Tình huống nghịch lí ấy lại dẫn đến một tình huống khác trong truyện cũng đầy tính nghịch lí. Khi Nhĩ đã phát hiện cái vẻ đẹp lạ lùng của cái bãi bồi bên kia sông ngay phía trước cửa sổ nhà anh, nhưng anh biết sẽ không bao giờ có thể được đặt chân lên mảnh đất ấy, Nhĩ đã nhờ cậu con trai giúp mình thực hiện điều mong ước đó. Nhưng cậu con trai lại sa vào một đám chơi cờ và có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày.
  • Câu 2:
    Hãy trình bày cảm nghĩ của em sau khi đọc bài thơ Ánh trăng của tác giả Nguyễn Duy?
    Trả lời: ..............
    Cuộc kháng chiến trong quá khứ qua đi, người lính trong chiến tranh giờ đây đã trở về cuộc sống hằng ngày. Sự bận rộn hôm nay đã khiến người ta quên lãng quá khứ. Nhưng có một lúc nào đó trong đời thường những kỉ niệm trong chiến tranh lại như những thước phim quay chậm hiện về. Nguyễn Duy gửi tới bạn đọc thi phẩm Ánh trăng cũng chính là gửi tới bạn đọc thông điệp: không nên sống vô tình, phải biết thủy chung nghĩa tình cùng quá khứ. Hồi nhỏ sống với đồngVới sông rồi với bểHồi chiến tranh ở rừngVầng trăng thành tri kỉ. Hình ảnh những đồng, sông, bể, rừng nguyên sơ, thuần hậu trong khở thơ đầu này là nơi đã nuôi dưỡng, che chở cho tuổi thơ và năm tháng chiến tranh, cả một quãng đường dài sống trong tình yêu thương, gắn bó với thiên nhiên, với những miền quê ấy, vầng trăng thành tri kỉ. Trăng như mái nhà, như người bạn thân thiết của tâm hồn. Ở đó tâm hồn tình cảm của con người cũng đơn sơ thuần phát như chính thiên nhiên. Trăng và người đã tạo nên mối giao tiếp, giao hòa thủy chung tưởng như không bao giờ có thể quên được. Từ hồi về thành phốQuen ánh điện cửa gươngVầng trăng đi qua ngõNhư người dưng qua đường. Khi chiến tranh kết thúc, người lính trở về bị hấp dẫn bởi đô thị với ánh điện, cửa gương, những ánh sáng nhân tạo đã làm họ quên đi ánh sáng tự nhiên hiền dịu của ánh trắng. Cuộc sống hiện đại với nhiều tiện nghi đã làm cho con người thờ ơ, vô tình với những ngày gian khổ, cùng đồng đội, đồng chí chung một chiến hào mà trăng là biểu tượng. Vầng trăng đi qua ngõNhư người dưng qua đường. Từ hình ảnh vầng trăng “tri kỉ”, vầng trằng tình nghĩa trở thành “người dưng qua đường”, Nguyễn Duy đã diễn tả được cái thay đổi của lòng người, cái lãng quên, dửng dưng cùng thời gian “xa mặt cách lòng” đến phũ phàng. So sánh thật thấm thía: “như người dưng qua đường”. Cũng như dòng sông có khúc phẳng lặng,êm đềm, cũng có khúc ghềnh thác dữ dội. Cuộc đời vốn cũng nhiều biến động. Ghi lại một tình huống, cuộc sống nơi thị thành của những con người từ rừng về thành phố, Nguyễn Duy đặt con người vào bối cảnh. Thình lình đèn điện tắtPhòng buynh đinh tối omVội bật tung cửa sổĐột ngột vầng trăng tròn. Khi ánh trăng nhân tạo vụt tắt, bóng tối bao trùm hết không gian thì vầng trăng xuất hiện khiến con người ngỡ ngàng trước ánh trăng thân thương của tuổi thơ trên những nẻo đường ta sống và trong cuộc chiến gian khổ ác liệt. Cuộc sống hiện đại làm cho lòng người thay đổi… Trước người bạn vô tình ấy, trăng chẳng nói, chẳng trách khiến người lính cảm thấy có cái gì rưng rưng. Ánh trăng soi chiếu khiến người ta nhận ra độ lệch của nhân cách mình. Trăng cứ tròn vành vạchKể chi người vô tìnhÁnh trăng im phăng phắcĐủ cho ta giật mình. Ánh trăng trước sau vẫn vậy mộc mạc, giản dị và thủy chung. Trăng lặng lẽ tròn đầy một cách trong sáng, vô tư, mặc cho thời gian trôi, mặc cho bạn bầu xưa ai đó quay lưng dù trong quá khứ vốn là tri kỉ. Nhưng trăng cũng khơi gợi niềm xúc động, đánh thức lương tâm ở con người. Cái giật mình được diễn tả trong khổ thơ “vô ngôn” thể hiện sự thức tỉnh đáng quý này. Qua bài thơ, Nguyễn Duy đã khám phá ra vẻ đẹp không bao giờ kết thúc của lương tri. Dường như cuộc sống mới đầy đủ hơn khiến cho con người lãng quên ánh trăng. Hành trình đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người không bao giờ ngừng nghỉ và việc hoàn thiện mình của chính mỗi con người cũng không phải một sớm một chiều. Cuộc đấu tranh hướng thiện âm thầm mà khốc liệt, nó đòi hỏi lòng dũng cảm của con người. Người lính năm xưa ấy đã dành trọn quá khứ soi mình trong hiện tại để đấu tranh loại bỏ sự vô tình vô nghĩa của bản thân, hướng tới sự cao cả tốt đẹp. Ánh trăng là bài thơ không quên về quá trình hướng thiện, quá trình hoàn thiện mình của mỗi con người trong cuộc sống hôm nay.
  • Đáp án đúng của hệ thống
  • Trả lời đúng của bạn
  • Trả lời sai của bạn
Đánh giá bài viết
2 291
Sắp xếp theo

    Luyện thi trực tuyến

    Xem thêm