Đề thi giữa học kì 2 môn Ngữ văn lớp 11 trường THPT Dầu Giây, Đồng Nai năm học 2014 - 2015

Đề thi giữa học kì 2 môn Ngữ văn lớp 11

Đề thi giữa học kì 2 môn Ngữ văn lớp 11 trường THPT Dầu Giây, Đồng Nai năm học 2014 - 2015 được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo. Hi vọng rằng với tài liệu này sẽ giúp bạn có được kết quả cao trong kì thi học kì II sắp tới.

Đề thi học kì 2 môn Ngữ văn lớp 11 trường THPT Lê Lợi, Quảng Trị năm học 2015 - 2016

Bạn cần đăng ký tài khoản VnDoc Pro để làm bài trắc nghiệm này! Tìm hiểu thêm
  • Phần 1: (3 điểm)

    Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

    (...) Nhà em có một giàn giầu,
    Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
    Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
    Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

    (Nguyễn Bính – Tương tư)

  • Câu 1
    Theo anh (chị), hình ảnh "trầu" - "cau" trong văn bản trên có ý nghĩa gì?
    Hình ảnh "trầu – cau" thể hiện ước muốn được chung đôi, sánh duyên với nhau.
  • Câu 2
    Chỉ ra và nêu ý nghĩa của biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ thứ 3.
    Biện pháp hoán dụ "Thôn Đoài": người thôn Đoài. "Thôn Đông": người thôn Đông. Chàng trai sử dụng cách nói bóng gió để bày tỏ nỗi nhớ mong.
  • Câu 3
    Hoài Thanh cho rằng, trong thơ của Nguyễn Bính có "hồn xưa của đất nước". Qua văn bản trên, anh (chị) có đồng ý với nhận xét đó không? Vì sao?
    "Hồn xưa của đất nước" thể hiện ở thể thơ lục bát truyền thống, hình ảnh trầu cau quen thuộc trong ca dao về tình yêu đôi lứa; vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân lao động trong tình yêu...
  • Phần 2: (7 điểm)

    Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu. Qua đó, hãy trình bày suy nghĩ của anh (chị) để những bạn thanh niên đang buồn chán nhận ra rằng cuộc sống thật đáng yêu, đáng sống.

    Tôi muốn tắt nắng đi
    Cho màu đừng nhạt mất;
    Tôi muốn buộc gió lại
    Cho hương đừng bay đi.
    Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
    Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
    Này đây lá của cành tơ phơ phất;
    Của yến anh này đây khúc tình si;
    Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
    Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;
    Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
    Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
    Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. (...)

    (Xuân Diệu - Vội vàng)

    1. Yêu cầu về kĩ năng: Biết cách làm bài văn nghị luận văn học kết hợp với nghị luận xã hội. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. 2. Yêu cầu về kiến thức: Trên cơ sở hiểu biết về tác giả, tác phẩm, học sinh phân tích sâu sắc để làm sáng tỏ nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. Từ đó, bàn luận về giá trị, ý nghĩa, vẻ đẹp của cuộc sống. Điều quan trọng để xác định chất lượng bài làm là ở chiều sâu của sự cảm nhận, của lí lẽ phân tích chứ không phải ở số lượng ý. Nội dung chính cần thể hiện: a) Mở bài: Nêu vấn đề nghị luận: Giới thiệu tác giả Xuân Diệu, tác phẩm Vội vàng, đoạn thơ cần phân tích. Từ đó, liên hệ thực tế: cuộc sống tươi đẹp, đáng yêu và đáng sống. b) Thân bài Nêu xuất xứ của bài thơ, vị trí và nội dung của đoạn trích. Phân tích đoạn thơ: Nội dung: Tình yêu cuộc sống mãnh liệt của Xuân Diệu thể hiện qua ước muốn "tắt nắng, buộc gió", vui sướng khám phá vẻ đẹp cuộc sống, vội vàng tận hưởng... Quan điểm thẩm mĩ mới mẻ của Xuân Diệu. Nghệ thuật: Phép điệp, liệt kê, thể thơ tự do, giọng điệu sôi nổi... Liên hệ vấn đề xã hội: Biểu hiện của vẻ đẹp, giá trị, ý nghĩa của cuộc sống từ những điều bình dị, thân thương. Thanh niên cần có lối sống đẹp, có lý tưởng, yêu đời, yêu cuộc sống, cống hiến tài đức để tô đẹp cho đời. Phê phán những thanh niên dễ nản lòng, buông xuôi trước khó khăn, thử thách trong cuộc sống. c) Kết bài: Nhận xét, đánh giá chung về vấn đề nghị luận
  • Đáp án đúng của hệ thống
  • Trả lời đúng của bạn
  • Trả lời sai của bạn
Đánh giá bài viết
1 202
Sắp xếp theo

    Ôn thi giữa kì 2 lớp 11 Online

    Xem thêm