Văn mẫu lớp 6: Phát biểu cảm nghĩ về truyện Buổi học cuối cùng

Văn mẫu lớp 6: Phát biểu cảm nghĩ về truyện Buổi học cuối cùng của tác giả An-phông-xơ Đô-đê được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các em học sinh tham khảo giúp học tốt môn Ngữ văn lớp 6 và chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình.

Bài văn mẫu 1: Cảm nghĩ về truyện Buổi học cuối cùng

An-phông-xơ Đô-đê là một cây bút truyện ngắn nổi tiếng của văn học Pháp. Truyện của ông thường giản dị nhưng rất đằm thắm, thể hiện một tấm lòng gắn bó tha thiết sâu nặng với quê hương đất nước. Buổi học cuối cùng là một tác phẩm như thế.

Truyện đưa chúng ta đến một ngôi trường làng vùng An-dát để chứng kiến một câu chuyện đầy xúc động: Buổi học Pháp văn cuối cùng.

Buổi học cuối cùng được diễn ra trong con mắt quan sát và cảm xúc, suy ngẫm của cậu học trò nhỏ Phrăng và được kể lại bằng chính lời kể của cậu bé.

Phrăng là học trò nghịch ngợm vừa lười học, thường trốn học để chơi ngoài đồng nội. Đối với cậu hé, bầu trời trong trẻo và tiếng sáo hót ven rừng trên đồng cỏ thường có sức cám dỗ hơn là những phân từ tiếng Pháp. Nhưng như có một linh cảm gì đó, hôm ấy Phrăng đã cưỡng lại sự cám dỗ và đến trường học. Dọc đường, cậu bé đã thấy một cái gì đó khang khác ngày thường. Khi vào lớp, cậu bé càng thấy ngạc nhiên hơn vì thấy thầy giáo không những chẳng giận dữ mà còn dịu dàng bảo cậu: Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà lại vắng mặt con; và phía cuối lớp, trên những dãy ghế bỏ trống, dân làng ngồi lặng lẽ; thầy Ha-men thì mặc một bộ lễ phục thật trang trọng.

Rồi những lời của thầy Ha-men vang lên: Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc-lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dét và Lo-ren...Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con khiến Phrăng choáng váng. Thì ra, để tôn vinh buổi học cuối cùng này mà thầy Ha -men đã vận y phục đẹp ngày chủ nhật và các cụ già trong làng lại đến ngồi ở cuối lớp học.

Phrăng bỗng tự giận mình về thời gian đã bỏ phí, về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt băng trên hồ. Cậu đau lòng khi nghĩ tới chuyện phải giã từ những quyển ngữ pháp, những quyển thánh sứ. Cậu quên cả nỗi giận thầy Ha-men vì những lần bị phạt.

Trong buổi học cuối cùng, Phrăng không đọc thuộc những quy tắc về phân từ, nhưng thầy giáo không trách mắng. Thầy giảng giải cho Phrăng và các cậu học trò hiểu hoãn việc học là một tai hoạ lớn. Bảo lỗi đó cũng là một phần do cha mẹ không thiết tha lắm với việc muốn các con có học thức, và lỗi đó cũng có một phần ở thầy...

Song điều làm Phrăng thấm thía và xúc động là khi thầy Ha-men giảng giải về tiếng Pháp, bảo rằng đó là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất thế giới và vững vàng nhất.

Bài học cuối cùngRằng phải giữ lấy nó trong mỗi người Pháp, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù...

Buổi học cuối cùng diễn ra trong không khí trang nghiêm và xúc động: Thầy say sưa giảng bài, trò chăm chú lắng nghe và cặm cụi học tập.

Buổi học cuối cùng kết thúc bằng câu nói nghẹn ngào của thầy Ha-men: Các bạn, hỡi các bạn, tôi..., tôi... và dòng chữ đậm của thầy trên bảng nước Pháp muôn năm.

Có thể nói, đây là câu chuyện xúc động về tình yêu Tổ quốc. Tình yêu ấy được biểu hiện cụ thể bằng tình yêu tiếng nói của dân tộc của thầy Ha-men, của những cậu học trò, của dân làng vùng An-dát. Để diễn tả tình yêu ấy, An-Phông -xơ Đô-đê đã chú ý tập trung vào miêu tả cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng và hành động của các nhân vật, đặc biệt là thầy Ha-men và cậu học trò Phrăng.

Thầy Ha-men là một thầy giáo dạy Pháp văn. Tình yêu Tổ quốc thiết tha và tình cảm yêu thương con trẻ đã cho thầy sức mạnh tinh thần để gắn bó với một ngôi trường làng vùng núi An-dát xa xôi, hẻo lánh suốt bốn mươi năm trời. Bốn mươi năm trời cặm cụi với nghề dạy học, thầy không chỉ đem lại cho những lớp học trò của mình một vốn học thức tiếng Pháp, mà cái chính đã đem lại cho chúng tình yêu đất nước qua việc yêu mến và giữ gìn tiếng nói của dân tộc.

Để tô đậm tình yêu tiếng Pháp của thầy Ha-men, tác giả đã chú ý đi sâu miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động, và nhất là cảm xúc, tâm trạng của thầy: Mặc lễ phục, dịu dàng nói với Phrăng, tự trách mình, say sưa giảng giải về tiếng Pháp, đứng lặng yên trên bục đăm đắm nhìn những đồ vật xung quanh, người tái nhợt khi nghe tiếng chuông nhà thờ điểm 12 giờ, nghẹn ngào khi chia tay học sinh, viết lên bảng dòng chữ Nước Pháp muôn năm, đứng tựa vào tường không nói được gì, giơ tay từ biệt học sinh...

Thầy Ha-men là một người thầy tận tụy với nghề, hết lòng thương yêu học sinh đồng thời lại yêu nước sâu sắc.

Tình yêu đất nước, yêu tiếng nói của dân tộc còn được bộc lộ qua tâm trạng Phrăng: Choáng váng khi nghe thầy Ha-men nói đây là buổi học Pháp văn cuối cùng, chăm chú học bài (khác hẳn mọi khi không chú ý học tập, hay trốn học), cảm thông với cõi lòng tan nát của thầy Ha-men.

Bên cạnh Phrăng là các bạn cùng lớp, dân làng, sự say sưa, cặm cụi học bài Pháp văn cuối cùng của họ là sự tôn vinh tiếng nói dân tộc, sự nuối tiếc quãng thời gian đã bỏ phí, và cả nỗi đau giã từ môn Pháp văn...

Ngòi bút An-Phông-xo Đô-đê đặc biệt tinh tế khi thể hiện tâm trạng và tình cảm của nhân vật.

Cũng qua truyện ngắn này, mượn lời thầy Ha-men, nhà văn muốn nêu lên một chân lí: Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù.

Với tất cả ý nghĩa như trên, Buổi học cuối cùng trở thành một truyện ngắn hay, được nhiều người yêu mến

Bài văn mẫu 2: Cảm nghĩ về truyện Buổi học cuối cùng

Alphonse Daudet (An-phông-xơ Đô-đê) sinh ngày 13 tháng 5 năm 1840 – mất ngày 16 tháng 12 năm 1897, là một nhà văn Pháp và là tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng. Gia đình đã rời quê lên Lyons khi xí nghiệp tơ vải của cha ông bị suy sụp và phải đóng cửa. Ông theo tiếp tục bậc trung học tại đây nhờ một học bổng, nhưng cuối cùng phải bỏ học hẳn khi cuộc hôn nhân của bố mẹ đổ vỡ. Daudet theo chân cha đến Paris và được nhận vào làm ký giả cho tờ Figaro vào năm 12 tuổi.

Truyện Buổi học cuối cùng được An-phông-xơ Đô-đê, một nhà văn Pháp nổi tiếng (1840 – 1897) viết từ cuối thế kỉ XIX. Nội dung kể về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp của lớp tiểu học ở một làng quê thuộc vùng An-dát, sau khi vùng này đã bị cắt về cho nước Phổ. (Vì nước Pháp thua trận trong cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870 – 1871). Truyện được kể qua lời của chú bé Phrăng – học sinh lớp thầy Ha-men phụ trách.

Việc dạy và học bằng tiếng Pháp trong nhà trường ở Pháp vốn là việc hết sức bình thường, như việc dạy và học bằng tiếng mẹ đẻ ở bất cứ nước nào. Nhưng điều không bình thường lại nằm ở chỗ: đây là buổi học cuối cùng mà thầy trò được dạy và học bằng tiếng Pháp. Sau buổi học này, các trường đều phải dạy bằng tiếng Đức và đó là một điều nhục nhã đối với người dân trong vùng bị quân thù chiếm đóng.

Từ thầy giáo đến học trò và cả những cụ già đến dự buổi học này đều cảm thấy ý nghĩa đặc biệt của nó. Họ thấm thía một điều hết sức quan trọng và thiêng liêng là phải biết yêu quý, trau dồi và giữ gìn tiếng Pháp, nhất là trong hoàn cảnh quê hương đang bị kẻ xâm lược cố tình đồng hóa, trước hết là bằng ngôn ngữ. Lòng yêu nước của mọi người đã được thể hiện qua thái độ quý trọng tiếng nói của dân tộc mình. Truyện nêu lên một chân lí qua lời thầy Ha- men: Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù.

Sáng nay, Phrăng định trốn học phần vì đã trễ giờ, phần vì sợ thầy hỏi bài phân từ mà chú chưa thuộc chữ nào. Nhưng chú đã nghĩ lại và vội vã chạy đến trường. Trên đường đi, thấy có nhiều người đứng lố nhố trước bảng dán cáo thị của quân Phổ, chú băn khoăn nghĩ: Lại có chuyện gì nữa đây? Khi bác phó rèn Oát-stơ khuyên Phrăng chẳng cần vội vã đến trường làm gì thì chú bé lại tưởng là bác chế nhạo mình. Quang cảnh lớp học mọi khi ồn ào như chợ vỡ mà giờ đây bình lặng y như một buổi sáng chủ nhật khiến chú ngạc nhiên. Mặc dù vào lớp muộn nhưng Phrăng không bị thầy Ha-men quở trách như mọi lần mà thầy dịu dàng nói: Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con. Tất cả những điều khác thường đó báo hiệu về một điều gì đó rất nghiêm trọng sắp xảy ra.

Diễn biến của buổi học cuối cùng và hình ảnh thầy Ha-men đã tác động sâu sắc đến nhận thức, tình cảm của Phrăng. Khi nghe thầy Ha-men nói rằng đây là buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp, Phrăng thấy choáng váng, sững sờ và chú đã hiểu ra nguyên nhân của mọi sự khác lạ trong buổi sáng hôm nay. Từ cảnh nhốn nháo trước trụ sở xã đến không khí yên ắng nặng nề ở lớp học và ở cả bộ y phục trang trọng của thầy Ha-men. Phrăng tiếc nuối và ân hận về sự lười nhác, ham chơi của mình bấy lâu nay. Chú bé đau xót thú nhận: Bài học Pháp văn cuối cùng của tôi!… Mà tôi thì mới biết viết tập! Vậy là sẽ chẳng bao giờ được học nữa ư, phải dừng ở đó ư!… Giờ đây tôi tự giận mình biết mấy về thời gian bỏ phí, về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ. Những cuốn sách vừa nãy tôi còn thấy chán ngán đến thế, mang nặng đến thế, quyển ngữ pháp, quyển thánh sử của tôi giờ đây dường như những người bạn cố tri mà tôi sẽ rất đau lòng phải giã từ.

Khi thầy Ha-men gọi đọc bài, Phrăng không thuộc chút nào về quy tắc phân từ trong tiếng Pháp. Đến đây thì sự ân hận đã trở thành nỗi xấu hổ và tự giận mình. Điều kì lạ là trong tâm trạng day dứt ấy, khi nghe thầy Ha-men giảng ngữ pháp, Phrăng lại thấy thật rõ ràng và dễ hiểu: Tôi kinh ngạc thấy sao mình hiểu đến thế. Tất cả những điều thầy nói, tôi thấy thật dễ dàng… Tôi cũng cho là chưa bao giờ mình chăm chú nghe đến thế… Chứng kiến cảnh các cụ già trong làng đến dự buổi học cuối cùng và được nghe những lời nhắc nhở tha thiết của thầy Ha-men, nhận thức và tâm trạng của Phrăng đã có những biến đổi lớn lao. Chú đã nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của việc học tiếng Pháp nhưng tiếc thay, chú không còn cơ hội để được tiếp tục học tiếng Pháp ở trường nữa.

Hình ảnh thầy Ha-men trong buổi học cuối cùng được nhà văn miêu tả thật xúc động qua trang phục, thái độ đối với học sinh, qua lời nói và hành động của thầy lúc kết thúc buổi học. Thầy Ha-men mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lỗ sen gấp nếp mịn và đội chiếc mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng. Với cách ăn mặc trang trọng như vậy, thầy Ha-men đã tôn vinh buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp.

Thái độ của thầy đối với học sinh cũng khác hẳn ngày thường. Thầy chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng chứ không trách mắng Phrăng khi chú đến lớp muộn và cả khi chú không thuộc bài. Thầy nhiệt tình và kiên nhẫn giảng bài như muốn truyền hết hiểu biết của mình cho học sinh. Điều tâm niệm tha thiết nhất mà thầy Ha-men muốn nhắn nhủ với mọi người là hãy yêu quý, giữ gìn và trau dồi cho mình tiếng nói của dân tộc, vì đó là biểu hiện của tình yêu nước. Ngôn ngữ không chỉ là tài sản quý báu của một dân tộc mà còn là “chìa khóa” để mở cửa ngục tù khi dân tộc rơi vào vòng nô lệ. Thầy Ha-men khẳng định tiếng Pháp là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất… Đây là biểu hiện cụ thể lòng yêu nước chân thành và sâu đậm của thầy.

Tiếng đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ và tiếng kèn của bọn lính Phổ đi tập về vang lên ngoài cửa sổ như báo hiệu kết thúc buổi học, cũng là kết thúc việc dạy và học bằng tiếng Pháp ở cả vùng An-dát. Vào thời điểm ấy, nỗi đau đớn, sự xúc động trong lòng thầy Ha-men đã lên tới cực độ và bộc lộ ra trong cử chỉ, hành động: thầy đứng dậy trên bục, người tái nhợt, nghẹn ngào không nói được hết câu tạm biệt và thầy quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: “Nước Pháp muôn năm!” Rồi thầy đứng đó, đầu dựa vào tường và chẳng nói, giơ tay ra hiệu cho chúng tôi: “Kết thúc rồi… đi đi thôi!” Chính vào giây phút ấy, chú bé Phrăng cảm thấy thầy giáo của mình thật lớn lao.

Các cụ già trong làng đến lớp và tập đánh vần theo học sinh không phải là do chưa biết chữ mà là để chứng kiến buổi học cuối cùng. Dường như đó cũng là một cách để tạ ơn thầy giáo chúng tôi về bốn mươi năm phụng sự hết lòng và để trọn đạo với Tổ quốc đang ra đi.. Cụ Hô-de (vốn là xã trưởng) và bác phát thư chắc chắn là đều biết đọc biết viết, nhưng cụ Hô-de vẫn đánh vần một cách chăm chú cùng với các học trò nhỏ. Cụ nâng cuốn sách vỡ lòng bằng hai tay và giọng cụ run run vì xúc động. Đây là hình ảnh hết sức cảm động, thể hiện tình cảm thiêng liêng và trân trọng của người dân đối với tiếng mẹ đẻ. Còn các học trò nhỏ cũng cặm cụi vạch những nét sổ với một tấm lòng, một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp.

Câu nói của thầy Ha-men: “…Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù” đã nêu bật giá trị thiêng liêng và sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc trong cuộc đấu tranh giành chủ quyền độc lập, tự do. Ý nghĩa sâu xa của truyện Buổi học cuối cùng là chúng ta phải biết yêu quý, giữ gìn và học tập để nắm vững tiếng nói của dân tộc mình, bởi nó không chỉ là tài sản tinh thần quý báu của ông cha mà còn là phương tiện quan trọng để đấu tranh giành lại chủ quyền độc lập, tự do cho đất nước. Tiếng nói của mỗi dân tộc được hình thành và vun đắp bằng sự sáng tạo của biết bao thế hệ qua hàng ngàn năm. Vì vậy, khi bị kẻ xâm lược đồng hóa về ngôn ngữ, nếu cam chịu để tiếng nói dân tộc bị mai một thì tất yếu đất nước sẽ rơi vào họa diệt vong.

Tiếng nói Việt Nam qua bốn nghìn năm lịch sử biểu hiện sức sống bất diệt của dân tộc Việt Nam. Hơn một nghìn năm bị phong kiến phương Bắc thống trị nhưng tiếng Việt vẫn tồn tại và phát triển ngày càng phong phú thêm lên. Dưới thời Pháp thuộc, các trường học chủ yếu dạy bằng tiếng Pháp nhưng tiếng Việt vẫn là tiếng nói được sử dụng rộng rãi trong đời sống hằng ngày của nhân dân, vẫn được trân trọng giữ gìn để đến hôm nay, chúng ta có thể tự hào là tiếng Việt giàu và đẹp.

Bài văn mẫu 3: Cảm nghĩ về truyện Buổi học cuối cùng

Truyện Buổi học cuối cùng được An-phông-xơ Đô-đê, một nhà văn Pháp nổi tiếng (1840 - 1897) viết từ cuối thế kỉ XIX. Nội dung kể về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp của lớp tiểu học ở một làng quê thuộc vùng An-dát, sau khi vùng này đã bị cắt về cho nước Phổ. (Vì nước Pháp thua trận trong cuộc chiến tranh Pháp - Phổ năm 1870 - 1871). Truyện được kể qua lời của chú bé Phrăng - học sinh lớp thầy Ha-men phụ trách.

Việc dạy và học bằng tiếng Pháp trong nhà trường ở Pháp vốn là việc hết sức bình thường, như việc dạy và học bằng tiếng mẹ đẻ ở bất cứ nước nào. Nhưng điều không bình thường lại nằm ở chỗ: đây là buổi học cuối cùng mà thầy trò còn được dạy và học bằng tiếng Pháp, Sau buổi học này, các trường đều phải dạy bằng tiếng Đức và đó là một điều sỉ nhục đối với người dân trong vùng bị quân thù chiếm đóng.

Từ thầy giáo đến học trò và cả những cụ già đến dự buổi học này đều cảm thấy ý nghĩa đặc biệt của nó. Họ thấm thía một điều hết sức quan trọng và thiêng liêng là phải biết yêu quý, trau dồi và giữ gìn tiếng Pháp, nhất là trong hoàn cảnh quê hương đang bị kẻ thù xâm lược cố tình đồng hóa, trước hết là bằng ngôn ngữ. Lòng yêu nước của mọi người đã được thể hiện qua thái độ quý trọng tiếng nói của dân tộc mình. Truyện nêu lên một chân lí qua lời thầy Ha-men: khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù.

Sáng nay, Phrăng định trốn học phần vì đã trễ giờ, phần vì sợ thầy hỏi bài phân từ mà chú chưa thuộc chữ nào. Nhưng chú đã nghĩ lại và vội vã chạy đến trường. Trên đường đi, thấy có nhiều người đứng lố nhố trước bảng dán cáo thị của quân Phổ, chú băn khoăn nghĩ: Lại có chuyện gì nữa đây? Khi bác phó rèn Oát-stơ khuyên Phrăng chẳng cần vội vã đến trường làm gì thì chú bé lại tưởng là bác chế nhạo mình. Quang cảnh lớp học mọi khi ồn ào như chợ vỡ mà giờ đây bình lặng y như một buổi sáng chủ nhật khiến chú ngạc nhiên. Mặc dù vào lớp muộn nhưng Phrăng không bị thầy Ha-men quở trách như mọi lần mà thầy dịu dàng nói: Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con. Tất cả những điều khác thường đó báo hiệu về một điều gì đó rất nghiêm trọng sắp xảy ra.

Bài học cuối cùng

Diễn biến của buổi học cuối cùng và hình ảnh thầy Ha-men đã tác động sâu sắc đến nhận thức, tình cảm của Phrăng. Khi nghe thầy Ha-men nói rằng đây là buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp, Phrăng thấy choáng váng, sững sờ và chú đã hiểu ra nguyên nhân của mọi sự khác lạ trong buổi sáng hôm nay. Từ cảnh nhốn nháo trước trụ sở xã đến không khí yên ắng nặng nề ở lớp học và ở cả bộ y phục trang trọng của thầy Ha-men. Phrăng tiếc nuối và ân hận về sự lười nhác, ham chơi của mình bấy lâu nay. Chú bé đau xót thú nhận: Bài học Pháp văn cuối cùng của tôi!...

Mà tôi thì mới biết viết tập toạng! Vậy là sẽ chẳng bao giờ được học nữa ư, phải dừng ở đó ư!... Giờ đây tôi tự giận mình biết mấy về thời gian bỏ phí, về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ. Những cuốn sách vừa nãy tôi còn thấy chán ngán đến thế, mang nặng đến thế, quyển ngữ pháp, quyển thánh sử của tôi giờ đây dường như những người bạn cố tri mà tôi sẽ rất đau lòng phải giã từ.

Khi thầy Ha-men gọi đọc bài, Phrăng không thuộc chút nào về quy tắc phân từ trong tiếng Pháp. Đến đây thì sự ân hận đã trở thành nỗi xấu hổ và tự giận mình. Điều kì lạ là trong tâm trạng day dứt ấy, khi nghe thầy Ha-men giảng ngữ pháp, Phrăng lại thấy thật rõ ràng và dễ hiểu: Tôi kinh ngạc thấy sao mình hiểu đến thế. Tất cả những điều thầy nói, tôi thấy thật dễ dàng... Tôi cũng cho là chưa bao giờ mình chăm chú nghe đến thế...

Chứng kiến cảnh các cụ già trong làng đến dự buổi học cuối cùng và được nghe những lời nhắc nhở tha thiết của thầy Ha-men, nhận thức và tâm trạng của Phrăng đã có những biến đổi lớn lao. Chú đã nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của việc học tiếng Pháp nhưng tiếc thay, chú không còn cơ hội để được tiếp tục học tiếng Pháp ở trường nữa. Hình ảnh thầy Ha-men trong buổi học cuối cùng được nhà văn miêu tả thật xúc động qua trang phục, thái độ đối với học sinh, qua lời nói và hành động của thầy lúc kết thúc buổi học.

Thầy Ha-men mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội chiếc mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng. Với cách ăn mặc trang trọng như vậy, thầy Ha-men đã tôn vinh buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp. Thái độ của thầy đối với học sinh cũng khác hẳn ngày thường. Thầy chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng chứ không trách mắng Phrăng khi chú đến lớp muộn và cả khi chú không thuộc bài. Thầy nhiệt tình và kiên nhẫn giảng bài như muốn truyền hết hiểu biết của mình cho học sinh. Điều tâm niệm tha thiết nhất mà thầy Ha-men muốn nhắn nhủ với mọi người là hãy yêu quý, giữ gìn và trau dồi cho mình tiếng nói của dân tộc, vì đó là biểu hiện của tình yêu nước. Ngôn ngữ không chỉ là tài sản quý báu của một dân tộc mà còn là "chìa khóa" để mở cửa ngục tù khi dân tộc rơi vào vòng nô lệ. Thầy Ha-men khẳng định tiếng Pháp là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất... Đây là biểu hiện cụ thể lòng yêu nước chân thành và sâu đậm của thầy.

Tiếng đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ và tiếng kèn của bọn lính Phổ đi tập về vang lên ngoài cửa sổ như báo hiệu kết thúc buổi học, cũng là kết thúc việc dạy và học bằng tiếng Pháp ở cả vùng An-dát. Vào thời điểm ấy, nỗi đau đớn, sự xúc động trong lòng thầy Ha-men đã lên tới cực độ và bộc lộ ra trong cử chỉ, hành động: thầy đứng dậy trên bục, người tái nhợt, nghẹn ngào không nói được hết câu tạm biệt và thầy quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: "Nước Pháp muôn năm Ị". Rồi thầy đứng đó, đầu dựa vào tường và chẳng nói, giơ tay ra hiệu cho chúng tôi: "Kết thúc rồi... đi đi thôi!". Chính vào giây phút ấy, chú bé Phrăng cảm thấy thầy giáo của mình thật lớn lao.

Các cụ già trong làng đến lớp và tập đánh vần theo học sinh không phải là do chưa biết chữ mà là để chứng kiến buổi học cuối cùng. Dường như đó cũng là một cách để tạ ơn thầy giáo chúng tôi về bốn mươi năm phụng sự hết lòng và để trọn đạo với Tổ quốc đang ra đi... Cụ Hô-de (vốn là xã trưởng) và bác phát thư chắc chắn là đều biết đọc biết viết, nhưng cụ Hô-de vẫn đánh vần một cách chăm chú cùng với các học trò nhỏ. Cụ nâng cuốn sách vỡ lòng bằng hai tay và giọng cụ run run vì xúc động. Đây là hình ảnh hết sức cảm động, thể hiện tình cảm thiêng liêng và trân trọng của người dân đối với tiếng mẹ đẻ. Còn các học trò nhỏ cũng cặm cụi vạch những nét sổ với một tấm lòng, một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp.

Câu nói của thầy Ha-men:... Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù đã nêu bật giá trị thiêng liêng và sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc. trong cuộc đấu tranh giành chủ quyền độc lập, tự do. Ý nghĩa sâu xa của truyện Buổi học cuối cùng là chúng ta phải biết yêu quý, giữ gìn và học tập để nắm vững tiếng nói của dân tộc mình, bởi nó không chỉ là tài sản tinh thần quý báu của ông cha mà còn là phương tiện quan trọng để đấu tranh giành lại chủ quyền độc lập, tự do cho đất nước.

Tiếng nói của mỗi dân tộc được hình thành và vun đắp bằng sự sáng tạo của biết bao thế hệ qua hàng ngàn năm. Vì vậy, khi bị kẻ xâm lược đồng hóa về ngôn ngữ, nếu cam chịu để tiếng nói dân tộc bị mai một thì tất yếu đất nước sẽ rơi vào họa diệt vong. Tiếng nói Việt Nam qua bốn nghìn năm lịch sử biểu hiện sức sống bất diệt của dân tộc Việt Nam. Hơn một nghìn năm bị phong kiến phương Bắc thống trị nhưng tiếng Việt vẫn tồn tại và phát triển ngày càng phong phú thêm lên. Dưới thời Pháp thuộc, các trường học chủ yếu dạy bằng tiếng Pháp nhưng tiếng Việt vẫn là tiếng nói được sử dụng rộng rãi trong đời sống hằng ngày của nhân dân, vẫn được trân trọng giữ gìn để đến hôm nay, chúng ta có thể tự hào là tiếng Việt giàu và đẹp.

Bài văn mẫu 4: Cảm nghĩ về truyện Buổi học cuối cùng

Qua việc tái hiện lại buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở vùng An- dát bị quân Phổ chiếm đóng, tác phẩm “Buổi học cuối cùng” đã để lại nhiều bài học có ý nghĩa về tình yêu tiếng nói dân tộc gắn liền với tinh thần yêu nước cũng như ý thức giữ gìn, bảo vệ tiếng mẹ đẻ trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lược.

Bằng việc miêu tả lại câu chuyện về buổi học cuối cùng, tác phẩm đã thể hiện rõ tình yêu tiếng nói dân tộc và lòng yêu nước mãnh liệt của các nhân vật. Trong câu chuyện về buổi học cuối cùng, hình tượng nhân vật Phrăng và thầy giáo Ha- men đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc. Sau khi hiểu rõ nguyên nhân của những điều bất thường mà cậu chứng kiến trên đường đi học và ở trường, cậu bé đã cảm thấy ân hận vì thái độ học tập của mình đối với môn tiếng Pháp trước đây.

Sự ân hận đó không đơn thuần vì đó là buổi học cuối cùng khiến cậu bé nuối tiếc mà còn xuất phát từ lòng yêu nước trong tâm hồn của cậu học trò nhỏ. Khi mảnh đất quê hương yêu dấu bị quân Phổ chiếm đóng và không còn được học tiếng mẹ đẻ, cậu bé ân hận vì những kiến thức, những buổi học mình đã bỏ lỡ và tập trung vào buổi học cuối cùng, xúc động trước thái độ và tinh thần yêu nước của thầy giáo Ha- men- người đã gắn bó với con chữ và mảnh đất An- dát mấy chục năm.

Thầy đã đau xót biết bao khi mà sau buổi học này, những em học sinh phải học ngôn ngữ của kẻ thù xâm lược. Bởi vậy, trong buổi học này, thầy đã ăn mặc trang trọng và giảng dạy một cách nhiệt tình, say mê và kiên nhẫn như muốn truyền tải hết kiến thức của mình. Tình yêu mãnh liệt đối với đất nước được thể hiện rõ qua hành động, cử chỉ thầy Ha-men trong giây phút cuối cùng của buổi học: Người tái nhợt, nghẹn ngào nói không hết câu, cầm viên phấn dằn mạnh viết: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”, đứng tựa đầu vào tường, chẳng nói, đưa tay ra hiệu. Đó là hành động kết tinh tinh thần và lòng yêu nước một cách cao độ trong tâm hồn của một thầy giáo nhiệt huyết.

Thông qua việc miêu tả tình yêu đối với tiếng nói dân tộc cũng như lòng yêu nước của các nhân vật trong truyện, tác phẩm đã nêu cao ý thức giữ gìn, bảo vệ tiếng mẹ đẻ trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lược. Điều này đã được thể hiện rõ qua lời nói đầy xúc động của thầy giáo Ha- men trong phần cuối tác phẩm: “… khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…”. Câu nói đã kết tinh và nêu bật ý nghĩa cũng như giá trị thiêng liêng của tiếng nói dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ quyền dân tộc. Tiếng nói dân tộc chính là chiếc chìa khóa để mở mọi xiềng xích nô lệ và đập tan ách xâm lược. Câu nói của một thầy giáo đã hàm chứa triết lí sâu xa và bài học về việc biết yêu quý và gìn giữ tình yêu đối với tiếng nói dân tộc- thứ tài sản vô giá đối với việc bảo vệ chủ quyền của mỗi một quốc gia dân tộc.

Như vậy, tác phẩm “Buổi học cuối cùng” đã để lại nhiều bài học sâu sắc về tình yêu tiếng nói dân tộc gắn liền với lòng yêu nước và quá trình bảo vệ đất nước.

Bài văn mẫu 5: Cảm nghĩ về truyện Buổi học cuối cùng

Hình ảnh người thầy Ha-men là hình ảnh tiêu biểu nhất cho nỗi đau của một người dân mất nước. Vẫn như mỗi lần, thầy Ha-men "đi đi lại lại với cây thước sắt khủng khiếp kẹp dưới nách". Không phải ngày lễ phát phần thưởng hoặc có thanh tra đến trường, nhưng thầy Ha-men ăn mặc rất trang trọng: mặc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục,… đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu… Lớp học của trường làng, trước đây ồn ào, vui vẻ thế, nhưng hôm nay trở nên “khác thường và trang trọng”. Ngoài đông đủ học trò, buổi học hôm nay lại có nhiều bà con dân làng đến dự, có cụ Hô-đe, bác phát thư,… “ai nấy đều có vẻ buồn rầu”.

Thầy Ha-men "với giọng dịu dàng và trang trọng" thông báo cho mọi người biết: "Lệnh từ Béc-Lin là từ nay, chỉ dạy tiếng Đức và các trường vùng An-dát và Lo-ren… Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con". Phrăng vô cùng "choáng váng" khi nghe thầy nói. Cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870 – 1871, Pháp thất trận; vùng An-dát và Lo-ren của Pháp bị nhập vào nước Phổ. Tiếng thầy Ha-men chứa đựng bao nỗi đau của một trí thức yêu nước bị mất nước: "Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con". Thầy Ha-men đã gắn bó với ngôi trường làng vùng An-dát đã gần 40 năm, thầy đã "phụng sự hết lòng", thầy đã "trọn đạo với Tổ quốc". Các cụ già và nhiều người đến dự "buổi học cuối cùng" là để "tạ ơn" thầy Ha-men, trước khi thầy giã từ, ra đi… Thầy nói lên một cách chân thành, xúc động về sự coi nhẹ học hành… là một trong những nguyên nhân thất trận: “Ôi! Tai họa lớn của An-dát chúng ta là bao giờ cũng hoãn việc học đến ngày mai”, ai cũng nghĩ: "Còn khối thì giờ. Ngày mai ta sẽ học". Phrăng là một cậu bé hay trốn học đi rong chơi ngoài đồng nội, được gọi lên, nhưng không "đọc được trót lọt" cái quy tắc phân từ rất hay của tiếng Pháp, thầy nhẹ nhàng nói: "Phrăng ạ, thầy sẽ không mắng con đâu…", "con vẫn chưa phải là người đáng tội nhất! Mà tất cả chúng ta cũng có phần đáng tự chê trách". "Học tập là nghĩa vụ của tuổi trẻ", "học tập là yêu nước" bài học lớn lao ấy đã được thầy Ha-men nói lên một cách giản dị và thấm thía biết bao!

Bài học cuối cùng

Giờ Ngữ pháp, thầy phân tích, thầy giảng giải, thầy tự hào ca ngợi tiếng Pháp "là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất". Bảo vệ, giữ gìn tiếng Pháp là nghĩa vụ của mỗi công dân: "phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên nó". Yêu tiếng mẹ đẻ là yêu nước, là để giữ lấy hồn thiêng của núi sông, bảo vệ lấy nền văn hóa lâu đời của dân tộc, giữ vững và nuôi dưỡng ý chí tự lập, tự cường, để vươn lên giành lấy tự do thoát khỏi vòng nô lệ, như thầy Ha-men đã nói: “… một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…”. Có thể nói buổi học cuối cùng là buổi học về lòng yêu nước mà trước hết là yêu tiếng Pháp, bảo vệ và giữ gìn tiếng Pháp. Bài học ấy thiêng liêng biết bao, nhất là đối với thầy Ha-men, đối với Phrăng và các cô cậu khác, đối với cụ già Hô-de và bao người dân vùng An-dát trong những năm tháng đen tối, đau thương! Đối với người Việt Nam chúng ta, yêu quý, giữ gìn tiếng mẹ đẻ là bài học xương máu. Một nghìn năm Bắc thuộc, 20 năm bị giặc Minh đô hộ, 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhưng với lòng yêu nước nồng nàn, nhân dân ta đã bảo vệ, giữ gìn tiếng Việt, chúng ta đã "nắm được chìa khóa chốn lao tù", làm cho tiếng Việt trở nên giàu đẹp như ngày nay.

Với thầy Ha-men thì mỗi môn học, mỗi giờ học trong buổi học tiếng Pháp cuối cùng là những bài học về lòng yêu nước. Yêu nước Pháp là yêu tiếng Pháp, là yêu chữ (văn tự) Pháp. Phải biết viết kiểu chữ rông thật đẹp, phải trang trọng khi viết tên Tổ quốc mình, quê hương mình: "Pháp, An-dát, Pháp, An- dát". Những tờ mẫu mới tinh thầy đã chuẩn bị trước, treo trước bàn học “trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới khắp xung quanh lớp”. Qua đó, ta thấy thầy Ha-men là một nhà giáo vĩ đại, một trí thức giàu lòng yêu nước. Giờ tập viết dễ khô khan, nhưng thầy đã truyền cho học trò tình yêu nước, ý thức học tập và giữ gìn văn tự Pháp.

Cảnh tượng và không khí lớp học trong giờ viết tập thật trang nghiêm: "Ai nấy đều chăm chú hết sức và cứ im phăng phắc! Chí nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy".Các em nhỏ thì "cặm cụi" tập viết "những nét sổ với một tấm lòng, một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp". Phrăng vốn là một học sinh mải chơi thế mà buổi học cuối cùng hôm nay, em cảm thấy rất hạnh phúc “kinh ngạc thấy sao mình hiểu đến thế”,chẳng để ý đến con bọ dừa bay vào lớp, chú xúc động khi nghe tiếng gù của chim bồ câu trên mái nhà trường, rồi tự hỏi, tự nhủ: "Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?". Bao tình cảm cao quý đã được khơi dậy trong lòng chú.

Buổi học cuối cùng đối với thầy Ha-men là buổi học giã từ những cái gì gắn bó thân thiết yêu thương suốt 40 năm trời, với bao kỉ niệm sâu sắc. Chỉ ngày mai thôi, thầy "phải rời đi, rời khỏi xứ sở này mãi mãi". Thầy quên sao được "ngôi trường nhỏ bé của thầy", thầy quên sao được chỗ ngồi của thầy, khoảng sân, lớp học, những chiếc ghế dài, những bàn học trải qua màu thời gian đã "nhẵn bóng". Thầy là một con người "tội nghiệp" chắc sẽ "nát lòng" khi phải giã biệt những cây hồ đào ngoài sân, cây hu-blông tự tay thầy trồng giờ đây "quấn quýt quanh các khung cửa sổ lên tận mái nhà". Thầy Ha-men gần như một con người quá đau khổ đến mất hồn. Thầy "đứng lặng im" trên bục giảng, thầy "đăm đăm nhìn" những đồ vật quanh mình "như muốn mang theo trong ánh mắt toàn bộ ngôi trường nhỏ bé của thầy".

Sau giờ viết tập là giờ lịch sử. Thầy Ha-men "vẫn đủ can đảm" dạy đến hết buổi. Tiếng đọc đồng thanh như hát "Ba Be Bi Bo Bu" cất lên. Hình ảnh cụ già Hô-de đeo kính lên, nâng cuốn sách vỡ lòng bằng hai tay, giọng đọc "run run vì xúc động", làm cho ai cũng "muốn khóc". Phrăng xúc động khẽ thốt lên trong lòng: “Ôi! Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này!”. Những khoảnh khắc chót buổi học tiếng Pháp cuối cùng ỏ vùng An-dát 130 năm về trước sao mà buồn thế! Khi đồng hồ nhà thờ điểm 12 giờ, khi chuông cầu nguyện buổi trưa rung lên, khi bọn lính Phổ đi tập về vang lên ngoài cửa sổ, thì thầy Ha-men "nghẹn ngào" nói lời giã biệt: "Các bạn, thầy nói, hỡi các bạn, tôi… tôi…". Và thầy viết lên bảng dòng chữ thật to, thầy "dằn mạnh hết sức". "Nước Pháp muôn năm!"

Người thầy "tái nhợt", “đầu dựa vào tường”, và chẳng nói, giơ tay ra hiệu cho chúng tôi: "Kết thúc rồi… đi đi thôi!". Ngày mai thầy Ha-men sẽ ra đi. Nhưng hình ảnh thầy vẫn in sâu trong tâm hồn người dân vùng An-dát và lũ học trò nhỏ thân yêu. Ha-men là một ông thầy vĩ đại, đúng như Phrăng đã nghĩ: "Chưa bao giờ tôi cảm thấy thầy lớn lao đến thế!".

Bài văn mẫu 6: Cảm nghĩ về truyện Buổi học cuối cùng

Tất cả các cuộc chiến tranh từ cổ chí kim, dù là từ hàng vạn năm về trước hay cho tới những trận chiến vì mục đích tranh giành lãnh thổ của một bộ phận những kẻ chuyên quyền, thích thống trị và tham lam bằng những trận chiến phi nghĩa, đều đem đến cho con người những bi kịch. Bên cạnh những bi kịch mất mát tài sản, tính mạng, gia đình, người thân một cách tàn khốc, thì đó còn là những bi kịch đến từ sâu trong tâm hồn, khi một dân tộc nào đó có khả năng sẽ vĩnh viễn mất đi thứ ngôn ngữ, văn hóa mà họ hằng tha thiết tôn thờ.

Còn nỗi đớn đau, xót xa nào cho lòng tự tôn dân tộc khi không được phép học ngôn ngữ của mình mà phải dằn lòng học một thứ tiếng xa lạ vì thua trong trận chiến giành lãnh thổ. Bài học cuối cùng của tác nhà người Pháp An-phông-xơ Đô-đê, được viết dựa trên trận đánh Pháp-Phổ năm 1870-1871, Pháp thua trận và hai vùng Lo-ren và An-dát bị buộc nhập vào lãnh thổ Phổ (một nước dưới chế độ chuyên chế của Đức), và các trường học bị buộc phải dạy tiếng Đức thay vì tiếng Pháp.

Câu chuyện diễn ra ở vùng An-dát của nước Pháp, nhan đề "Buổi học cuối cùng", chính là chỉ buổi học tiếng Pháp cuối cùng của khu vực này sau khi bị quân đội Phổ chiến đóng, họ sẽ bị buộc phải học tiếng Đức. Nhan đề không chỉ đơn thuần giới thiệu cho người đọc chủ đề câu chuyện mà còn ẩn chứa cả sự ngậm ngùi, nuối tiếc và đau đớn của tác giả trước tình cảnh của những người dân nước Pháp của dân tộc. Đồng thời buổi học cuối cùng cũng là sự chính thức thừa nhận thất bại trước sự xâm chiếm của quân đội Phổ, Pháp đã mất chủ quyền trên hai vùng An-dát và Lo-ren, buộc chấp nhận cảnh chia cắt đất nước một cách đau đớn.

Nhân vật chính của câu chuyện là cậu bé tên Phrăng, cậu bé vốn ham chơi và không thích học hành mấy, thế nên thường đến lớp rất trễ, hay lẻn vào lớp những khi lớp ồn ào và thầy giáo thì không để ý. Cho đến buổi học vào sáng hôm ấy, Phrăng cũng tiếp tục ham chơi, trì hoãn giờ tới lớp, thậm chí toan trốn học vì vẫn chưa thuộc những phân từ mà thầy giáo dạy trên trường. Tuy nhiên một điều gì đó đã khiến cậu cưỡng lại được niềm ham thích và chạy thật nhanh đến lớp học, trên đường cậu thấy người ta xem bảng thông báo, gặp cả bác thợ rèn Oát-stơ với câu nói "Đừng vội thế cháu, đến trường lúc nào cũng hãy còn sớm", làm cậu khó hiểu và nghĩ đó là lời giễu cho sự muộn học của cậu.

Tuy nhiên khung cảnh bên ngoài lớp học của thầy Ha-men khiến cậu thấy có gì đó khác lạ. Cậu không thể ngờ rằng đây là lần cuối cùng cậu có thể được học tiếng Pháp - ngôn ngữ mẹ đẻ trên chính mảnh đất quê hương mình mà thay vào đó là thứ tiếng Đức của kẻ xâm lược. Một sự thật đớn đau với bất kỳ cư dân Pháp nào ở thời điểm ấy. Ban đầu Phrăng còn lo sợ bị thầy Ha-men đánh đòn vì tội tới muộn, lòng cậu tràn ngập sự sợ hãi và lo lắng khi nhìn thấy cái thước sắt kẹp ở nách thầy. Thế nhưng kỳ lạ, lớp học yên tĩnh và thầy thì rất hiền từ, thậm chí là đang đợi cậu tới lớp. Thầy không đánh mắng hay bắt phạt, Phrăng bắt đầu nhận ra sự khác biệt của buổi học hôm nay, nó có gì đó trang trọng hơn cả, thầy của cậu đã mặc bộ đồ đẹp nhất "chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen xếp nếp mịn và và cái mũ tròn bằng lụa thêu mà thầy chỉ mặc những hôm có thanh tra và phát phần thưởng".

Đồng thời cuối lớp còn xuất hiện cả những người dân làng, cụ già Hô-de với quyển tập viết cũ nhàu, bác phát thư và nhiều người khác nữa. Khi Phrăng vẫn chưa hết ngạc nhiên và khó hiểu thì lời phát biểu từ tốn của thầy Ha-men trên bục giảng đã khiến cậu nhận thức được vấn đề. Phrăng choáng váng và giận dữ, câu nói "Hôm nay là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc-lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các vùng An-dát và Lo-ren...Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con..." đã khiến cậu bừng tỉnh một sự thật rằng Pháp thua trận, An-dát và Lo-ren trở thành địa phận của quân Phổ, từ nay sẽ bị cai trị bởi những kẻ xâm lược "khốn nạn".

Việc phát hiện ra sự thật kinh hoàng ấy đã khiến lòng cậu bé chùng xuống "Bài học Pháp văn cuối cùng của tôi!..." chất chứa ở trong đó là biết bao sự nuối tiếc, ân hận, buồn rầu và đau đớn. Cậu nghĩ đến những ngày học trước kia mình đã chán ghét và phung phí như thế nào, thì giờ đây lại trở thành sự xót xa khi cậu chị mới biết viết tiếng Pháp một cách "chập choạng", còn sách vở trước kia vốn thấy nặng nhọc, khó khăn thì giờ đối với cậu lại trở thành những người bạn "cố tri" và cậu phải giã từ trong đau xót. Đối với thầy Ha-men, Phrăng từng rất sợ và lo ngại với những trận đòn, trận mắng của thầy nhưng giờ phút này khi biết ngày mai thầy phải ra đi, lòng cậu bỗng quặn lại, đau đớn, Phrăng bỗng thấy thương thầy, tội nghiệp thầy biết bao nhiêu. Như vậy có thể thấy sự kiện bàng hoàng đã hoàn toàn thay đổi nhận thức của Phrăng về việc học tiếng Pháp cũng như tình cảm của cậu với thầy giáo của mình. Ngay trong lúc cậu đang bần thần nghĩ về cảnh giã từ, thì được gọi lên đọc quy tắc phân từ, sự ấp úng, ngượng ngập vì không nhớ được bài cũ đã khiến lòng Phrăng trào lên biết bao cảm xúc hối hận và xấu hổ vì đã không học tiếng Pháp một cách nghiêm túc thay vì ham hố rong chơi.

Trước lỗi lầm của Phrăng thầy Ha-men đã không trách phạt, mà trái lại với tư cách của một người thầy dạy tiếng Pháp 40 năm cống hiến cho đất nước, thầy đã nhẹ nhàng chỉ ra sai lầm của tất thảy mọi người nơi đây. Đó là sự trì hoãn thậm tệ trong sự học hành tiếng mẹ đẻ và chính điều đó đã đẩy họ vào tai họa trở thành sự chế giễu cho bè lũ quân xâm lược khốn kiếp rằng "các người tự nhận là dân Pháp vậy mà các người chẳng biết đọc, biết viết tiếng của các người!...". Đó là nỗi đau, nỗi nhục lớn của cả một cộng đồng dân tộc, rõ ràng họ đã chính tay đánh mất tự tôn và văn hóa của dân tộc bằng cách lười biếng và coi rẻ sự học hành tiếng mẹ đẻ của mình. Chủ quyền của một dân tộc được khẳng định một phần chính là nhờ vào sự khác biệt trong ngôn ngữ, trong văn hóa, thế nhưng người ta đã lỡ làng để quên nó đi.

Đó là bài học đầu tiên mà thầy Ha-men đã dạy mọi người trong buổi học cuối cùng này. Một bài học nữa cũng không kém phần sâu sắc ấy là thầy Ha-men đã nói rất nhiều về vẻ đẹp của tiếng Pháp "đó là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất" để khơi gợi trong lòng mọi người sự yêu mến tiếng Pháp, đồng thời cũng dạy rằng "đừng bao giờ quên lãng nó", bởi ngôn ngữ của một dân tộc chính là chìa khóa giải phóng con người ra khỏi chốn lao tù, chỉ cần ta nắm vững nó và không bao giờ để nó bị mai một, thì tinh thần và văn hóa dân tộc vẫn còn đấy. Rồi khi thầy giảng bài học tiếng Pháp cuối cùng thầy thật chăm chú và kiên nhẫn như muốn dành hết cả tâm huyết cuộc đời để truyền thụ lại cho mọi người trong buổi học cuối này.

Điều ấy khiến người ta không khỏi thương cảm và yêu mến thầy Ha-men hơn bởi tấm lòng tận tụy đến tận giây phút cuối. Mà không chỉ thầy, Phrăng và cả những nhân vật khác xuất hiện trong lớp học cũng trở nên chăm chú và im phăng phắc như muốn cố gắng thu góp được những kiến thức Pháp cuối cùng, trước khi phải chia xa nó. Tất cả các nhân vật trong truyện đều có sự giác ngộ muộn màng, thế nhưng ở họ lại bộc lộ một tấm lòng yêu quê hương đất nước tha thiết, thế nên họ mới thấu hiểu những bài học của thầy Ha-men đến thế. Buổi học cuối cùng ấy đã để lại trong lòng mỗi người dân Pháp những nỗi lòng khó tả, sự hối tiếc, đau đớn, sự bồi hồi xúc động, một thứ tình cảm len lỏi và xúc động len lỏi khắp tâm hồn.

Đặc biệt là ở thầy Ha-men, nhân vật đặc sắc nhất truyện, tâm huyết 40 năm của thầy ở mảnh đất này cuối cùng cũng đến ngày kết thúc, thầy phải rời xa mảnh đất ấy sau bao nhiêu gắn bó, bởi sự xua đuổi của kẻ thù. Sự đau đớn và xót xa khiến thầy nhìn chăm chăm mọi ngóc ngách của ngôi trường trong bùi ngùi, yên lặng dường như muốn mang hết những thứ nơi đây theo nhờ ánh mắt của mình. Đặc biệt cuối truyện chi tiết thầy muốn truyền thụ lại bài học cuối cùng của mình bằng tiếng Pháp mà không thể cất lời, chỉ đành viết lên trên bảng bốn chữ to "Nước Pháp muôn năm", khiến người đọc lặng người đi vì xúc động. Đó là bài học về tấm lòng yêu nước sâu nặng, không chịu khuất phục trước sự xâm lược trước kẻ thù của người thầy vĩ đại, và tin chắc rằng trong lớp học ngày hôm ấy ai cũng hiểu sâu sắc bài học quý giá này.

Như vậy có thể thấy rằng, buổi học cuối cùng này, không chỉ đơn thuần là buổi học tiếng Pháp cuối ở mảnh đất An-dát mà đúng hơn nó là một buổi học đầy ý nghĩa và cảm động về lòng yêu và bảo vệ ngôn ngữ dân tộc, đồng thời là tấm lòng tự tôn, yêu hòa bình nước nước thiết tha mà thầy Ha-men muốn truyền thụ cho học trò của mình. Sự thức tỉnh của nhân vật Phrăng chính là minh chứng cho sự thấu hiểu sâu sắc về ý nghĩa của ngôn ngữ mẹ đẻ của người dân Pháp, cũng như niềm tin vào một tương lai nước Pháp lại thống nhất mà tác giả muốn truyền tải đến độc giả.

----------------------------------------------

Trên đây VnDoc đã tổng hợp dàn ý và các bài văn mẫu Văn mẫu lớp 6: Phát biểu cảm nghĩ về truyện Buổi học cuối cùng cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 6 ngắn gọn, soạn bài lớp 6 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 6.

Các bài liên quan đến tác phẩm:

Đánh giá bài viết
19 4.609
Sắp xếp theo

    Ngữ văn lớp 6 Kết nối tri thức

    Xem thêm