Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Nghị luận phân tích đánh giá tác phẩm Chiếc lược ngà

Phân tích đánh giá tác phẩm Chiếc lược ngà

Nghị luận phân tích đánh giá tác phẩm Chiếc lược ngà được VnDoc.com tổng hợp và xin gửi tới bạn đọc. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết.

Phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung, hình thức nghệ thuật của tác phẩm Chiếc lược ngà mẫu 1

Nghệ thuật viết văn nói theo nhà văn Nga Sê-khốp đúng là "nghệ thuật của những chi tiết". Sự lựa chọn chi tiết "đắt giá" có khả năng "nói" được nhiều về tính cách nhân vật, thể hiện tài quan sát, tài kể chuyện của người viết. Trong Chiếc lược ngà người đọc có thể tìm thấy rất nhiều những chi tiết như thế thông qua tình huống truyện độc đáo.

Có hai tình tiết cơ bản tạo nên tình huống truyện trong đoạn trích này. Tình tiết thứ nhất kể người cha đi kháng chiến về thăm nhà sau gần bảy năm đi vắng, não nức được gặp cô con gái bé bỏng – đứa con duy nhất – chưa đầy một tuổi khi anh ra đi, nhưng đến giây phút thiêng liêng mà người cha hằng chờ đợi ấy, bé Thu lại không chịu nhận cha. Để rồi, cuối cùng nhận ra cha mình và biểu lộ tình cảm với cha thì người cha cũng đã hết ngày phép phải ra đi. Tình huống thứ hai là sau khi ông Sáu đi vào khu căn cứ, ông dành tất cả những tình cảm và tình yêu thương, nỗi nhớ bé Thu bằng việc làm chiếc lược ngà tặng con, nhưng khi chưa kịp tặng thì ông đã hi sinh.

Truyện viết về tình cảm cha con, nhưng là tình cảm cha con được thể hiện trong chiến tranh. Người cha là anh Sáu, "thoát li đi kháng chiến từ đầu năm 1946". Con gái anh là bé Thu "đứa con gái đầu lòng – và cũng là đứa con duy nhất của anh", lúc anh đi bé Thu "chưa đầy một tuổi". Biền biệt sáu, bảy năm trời hai cha con không được gặp nhau. Anh Sáu chỉ thấy con qua "tấm ảnh nhỏ". Vì thế, nay được về thăm nhà mấy hôm, "cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh". Và mong muốn tha thiết nhất của anh là được đứa con gọi mình một tiếng "ba". Tình huống truyện thật tự nhiên, hợp lí: còn gì tự nhiên hơn tình cảm cha con; chiến tranh, người cha đi đánh giặc phải xa con; vậy mà cũng thật bất ngờ và không kém phần gay cấn: khi người cha có dịp về thăm con thì đứa con nhất định không chịu gọi cha mặc dù anh cố gắng làm mọi cách. Khoảng thời gian về phép thăm nhà lại chỉ vẻn vẹn gói gọn có ba ngày ngắn ngủi, tạo thêm sự dồn nén cho câu chuyện.

Cái mong ước của người cha được nghe con mình gọi "ba" tưởng đơn giản nhưng mà thực ra lại vô cùng khó khăn. Ngay từ khi mới trông thấy con từ xa, anh Sáu đã không thể kìm được tình cảm của mình: "không thể chờ xuồng cặp lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên vội vã bước những bước dài, rồi đứng lại kêu to: "Thu ! Con" anh nghĩ rằng, con anh sẽ chạy xô vào lòng anh, sẽ ôm chặt lấy cổ anh". Nhưng, những phản ứng của bé Thu, con anh, lại hoàn toàn trái ngược với những gì anh nghĩ: "nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng". Và khi thấy anh vẫn tiếp tục tiến về phía nó, thì "mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: "Má ! Má!". Những hành động cảm xúc của anh Sáu lẫn bé Thu đều rất đúng với tâm lí của mỗi người, ngẫm kĩ thì khó mà khác được. Đó chính là cái tài của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.

Nguyên cớ của tình huống này là vết thẹo trên mặt người cha – dấu ấn của chiến tranh – đã khiến cho em bé thấy khác với tấm hình ba chụp chung với mẹ mà em vẫn coi. Thế nên, trong mấy ngày ba về phép, Thu đã không chịu gọi ba lấy một tiếng. Ngay cả khi mẹ nó cố tình đặt nó vào những tình huống bắt buộc phải gọi đến ba nó, thì Thu cũng chỉ gọi trống không: "Vô ăn cơm !", "Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái", "Cơm sôi rồi, nhão bây giờ". Cả hai cha con thi gan với nhau, không ai chịu ai và những lần này phần thắng thuộc về bé Thu.

Và cao trào của tình huống này là chi tiết trước sự bướng bỉnh của bé Thu, anh Sáu đã không giữ được bình tĩnh "vung tay đánh vào mông nó và hét lên" khi nó hất cái trứng anh gắp cho nó. Bé Thu phản ứng lại bằng cách bỏ sang nhà bà ngoại. Và đến đây, nhà văn đã tạo ra chi tiết để "cởi nút" truyện. Bà ngoại đã giải thích cho bé Thu hiểu về vết thẹo mà ba em có, vi vậy, Thu đã chấp nhận người ba của mình. Thế nhưng, éo le thay, đây cũng là lúc mà anh Sáu phải quay lại căn cứ. Đoạn văn miêu tả cuộc chia tay của hai cha con đã bộc lộ tình yêu thương mãnh liệt của con đối với cha.

Khác với lúc về, lần này anh Sáu cố gắng kìm nén tình cảm của mình, "anh chỉ dám đứng nhìn nó". Bé Thu, sau một ngày ở bên nhà bà ngoại, lúc này đã biết được nhiều điều về ba nó. "Vẻ mặt của nó có gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi, sâu xa". Và cái giây phút bùng nổ tình cảm của bé Thu là giây phút mà Thu gọi ba, không phải là một tiếng gọi thầm mà là một tiếng kêu thét kéo dài.

Tình huống thứ nhất kết thúc, mở ra tình huống thứ hai. Nỗi nhớ con, sự dằn vặt vì đã đánh con khiến anh Sáu ngày đêm làm chiếc lược ngà cho con – đúng theo lời dặn của bé lúc chia tay cha "Ba về ! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!".

Một buổi chiều, anh Sáu hớt hải chạy từ rừng về như trẻ con bắt được quà, thì ra anh đã tìm được một khúc ngà voi. Sau đó ngày đêm anh lấy vỏ đạn cưa nhỏ khúc ngà voi thành từng miếng nhỏ, tỉ mẩn làm từng chiếc răng lược. Dường như, trong khi làm cây lược từ ngà voi ấy, người cha được đối diện cùng con, tâm sự, trò chuyện với con, vì thế, những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược kì công như "người thợ bạc". Người cha còn cẩn thận khắc lên lược dòng chữ để tặng con gái của mình: "Yêu nhớ tặng Thu con của ba". Vậy mà, thật đáng buồn vì anh đã không chờ được đến lúc trao tận tay con gái mình chiếc lược mà anh đã kì công làm cùng với tất cả những yêu thương của cha dành cho con. Giây phút cuối cùng khi chuẩn bị lìa xa cuộc đời, không còn đủ sức để trăn trối điều gì, nhưng tình cha con là không thể chết được, anh đưa cho người bạn chiến đấu của mình cây lược. Đó chính là tâm nguyện cuối cùng của anh, tâm nguyện muốn gửi gắm cây lược để trao nó lại cho bé Thu.

Bằng các tình huống truyện khá bất ngờ, nhưng tự nhiên, hợp lí, Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện được chủ đề tác phẩm, ca ngợi tình cha con, cao cả thiêng liêng. Chính tình cảm này đã góp phần làm nên sức mạnh cho những người lính nơi chiến trường, và cả cho những người thân nơi hậu phương.

Phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung, hình thức nghệ thuật của tác phẩm Chiếc lược ngà mẫu 2

Nguyễn Quang Sáng (1932 - 2014), là một nhà văn, nhà biên kịch nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là với những tác phẩm viết về đề tài người lính và chiến tranh. Văn chương của Nguyễn Quang Sáng là một chất giọng nhẹ nhàng, chân thành, trong sáng và cảm động, chính vì vậy ông được mệnh danh là "một trong những con khủng long quý hiếm của nền văn học thời chiến trận mà tác phẩm không có hận thù". Với tác phẩm nổi tiếng nhất của đời mình - Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang Sáng không hề cố khơi gợi lên những mối thù hận chiến tranh mà thay vào đó ông tập trung xoáy mạnh vào tình cảm gia đình, tình cảm cha con và những nỗi đau trong cảnh ngộ đầy éo le của những ngày đất nước đau thương.

Trong truyện ngắn Chiếc lược ngà trước tiên có lẽ cần phải nói đến nỗi đau, nỗi bất hạnh của người lính chiến - anh Sáu. Người đàn ông dường như đã hy sinh cả tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cầm súng chiến đấu suốt hàng chục năm trời, từ những ngày đứa con gái của anh chưa tròn một tuổi. Anh Sáu hy sinh nhiều lắm, chấp nhận rời bỏ quê hương, rời xa vợ con để theo tiếng gọi của Tổ quốc, hy sinh cả sức khỏe, xương máu của mình ở tại chiến trường. Sau nhiều năm chiến đấu cuối cùng anh nhận lại được những gì? Một tấm thân đầy sương gió, một vết sẹo dữ tợn trên mặt và cuối cùng đó là sự xa lánh, kinh sợ của đứa con gái mà thuở bé anh chưa được ẵm bồng con ngày nào. Đứa trẻ ấy, nó chỉ thương người cha ở trong bức ảnh của mẹ, chứ không phải một người đàn ông trung niên có vết sẹo xấu xí, và trong suốt những ngày nghỉ phép ấy, anh Sáu đã phải đối diện với những nỗi đau thực ghê gớm, sự buồn rầu, xót xa, sự nuối tiếc khi đã bỏ lỡ những thời gian ở cạnh đứa con. Rồi cả những cử chỉ ghét bỏ, lạnh lùng của bé Thu dường như đang cứa vào trái tim anh từng nhát, mang đến những nỗi đớn đau day dứt trong tâm hồn. Không chỉ vậy, trước sự hỗn láo của đứa con mà anh chưa dạy dỗ ngày nào, anh đã đánh nó, khiến nó khóc bỏ đi, có lẽ bé Thu đau một thì anh Sáu lại là người đau mười. Rõ ràng bé Thu không có lỗi, anh Sáu lại càng không có lỗi, lỗi là bởi hoàn cảnh trái ngang đã đẩy đưa khiến cho mối quan hệ cha con trở nên căng thẳng. Cho đến khi cha con nhận nhau, giữa một khung cảnh đầy cảm động yêu thương, mà người ta ước chi nó kéo dài được thêm vài giờ nữa thì anh Sáu lại phải vác súng quay trở lại chiến trường, rồi cuối cùng hy sinh tại đó. Anh đã ra đi khi chưa kịp tận tay đưa cho đứa con gái yêu của mình chiếc lược ngà mà anh hứa sẽ tặng nó, ra đi trong những nỗi đau và nuối tiếc dồn nén, cả đối với người ra đi và những người ở lại. Vậy có thể nói rằng, nhân vật anh Sáu trong truyện ngắn Chiếc lược ngà chính là một trong những đại diện, ví dụ tiêu biểu nhất về câu nói: "Không có hạnh phúc nào cho người lính". Điều đó khiến mỗi chúng ta ngày hôm nay lại càng phải thêm trân trọng những gì mà cha ông đã hy sinh xương máu, tình cảm cá nhân để giành lại, đồng thời có tấm lòng yêu thương, kính trọng với những con người đã ngã xuống về nền độc lập dân tộc cũng như với thân nhân của họ.

Một nhân vật thứ hai nữa trong truyện ngắn ấy là bé Thu, có thể nói rằng cô bé cũng là một trong những nạn nhân gián tiếp của chiến tranh. Bé Thu có hoàn cảnh tội nghiệp, cha ra đi vào chiến trường từ những ngày bé còn chưa biết gì, thiếu thốn tình cảm của cha, lớn lên trong vòng tay của mẹ, của bà vào những năm tháng đất nước nhiều đau thương. Thế nhưng có lẽ trẻ con thời kỳ này trưởng thành sớm, Thu là một cô bé biết suy nghĩ, bé thấu hiểu cho hành động đi chiến đấu của cha, và trong trái tim bé nhỏ của nó không chỉ là những tình cảm yêu thương thắm thiết phụ tử, mà còn là cả tấm lòng ngưỡng mộ về một người lính cách mạng anh hùng. Nhưng chính sự xa cách và những suy nghĩ non dại của Thu đã dẫn đến những bi kịch gia đình, khi mà cô bé một lòng yêu thương trân trọng người đàn ông trẻ tuổi ở trong tấm ảnh, cô bé ấy không thể hiểu được rằng bom đạn có thể lấy đi của người ta tất cả mọi thứ, và để lại trên thân thể những vết sẹo không bao giờ lành. Sự kỳ vọng bao nhiêu về một người cha trẻ trung, sáng láng thì bé Thu lại càng thất vọng và sợ hãi khi thấy một người tự xưng là cha mình, nhưng mặt lại có vết sẹo dữ tợn, bộ dáng phong trần già nua, khác hoàn toàn với những gì bé tưởng tượng. Điều ấy khiến bé Thu thất vọng và căm ghét người đàn ông trước mắt, Thu không chịu nhận ông Sáu là cha, không gọi một tiếng "cha" nào cả, và còn có những hành động hỗn hào, lạnh lùng với ông Sáu. Khi ấy người ta mới thật thấm thía những bi kịch gia đình của người lính, khi xa nhà quá lâu, đến vợ có khi còn quên mặt nói gì đến một đứa bé 8 tuổi chưa từng gặp mặt cha lần nào, chưa từng được ôm hôn hưởng thụ thứ tình cảm phụ tử ấm áp như bé Thu. Thì việc bé Thu giãy nảy, băn khoăn, khó chịu trong lòng khi đối diện với một ông Sáu hoàn toàn khác xa những gì bé biết là hoàn toàn có thể xảy ra và có lẽ nó đã xảy ra trong rất nhiều gia đình của những người lính chiến. Thế mới nói một khi người lính ra đi, họ chỉ có thể mất đi nhiều thứ, chứ chẳng nhận được điều gì ngoài việc đất nước nay mai được hòa bình. Một lý tưởng vĩ đại, đã đựng dựng nên bằng hàng vạn những hy sinh mất mắt mà không phải ai cũng thấu hiểu. Một bi kịch khác trong mối quan hệ giữa cha con bé Thu và của chính bé Thu có lẽ là nỗi niềm hối hận, nuối tiếc muộn màng. Khi cô bé đã hiểu ra mọi chuyện, quyết định quay về nhận cha, thì cũng là lúc anh Sáu phải quay lại chiến trường. Cuộc hội ngộ cha con cảm động chỉ diễn ra trong vài phút giây ngắn ngủi, ông Sáu vẫn chưa bù đắp được gì cho con, còn bé Thu cũng chưa kịp yêu thương ông Sáu như những gì nó hằng tưởng đến. Đó là nỗi đau không chỉ của riêng hai nhân vật mà nó còn là nỗi đau chung của nhiều gia đình trên đất Việt lúc bấy giờ, bao nhiêu tình mẫu tử, tình phụ tử, tình anh em, tình vợ chồng nhiều khi chỉ kịp bùng lên một nhoáng rồi đứt đoạn vì những hy sinh mất mát trong chiến tranh, để cho những người ở lại biết bao xót xa, ân hận. Đặc biệt ở trong hoàn cảnh của bé Thu, ngày bé nhận cha cũng là lần cuối cô bé còn được nhìn thấy cha bằng xương bằng thịt, thì lại càng thêm đau đớn. Người con gái ấy kể cả khi lớn lên, có lẽ trong trái tim vẫn luôn âm ỉ đau đớn một nỗi niềm hối hận, khi giờ đây chỉ còn lại duy nhất chiếc lược ngà là kỷ vật người cha tỉ mẩn khắc từng nhát dao để lại cho cô bé.

Nhưng có một điều không thể nào chối cãi được rằng, dù gần gũi thì ít, xa cách thì nhiều thế nhưng tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu là những tình cảm thật thắm thiết và sâu nặng. Khi bản thân ông Sáu cố gắng bù đắp, cố gắng, chăm sóc bé Thu những ngày nghỉ phép, nén nhịn nỗi đau nỗi tức giận trước sự lạnh nhạt của con bé, chỉ mong được con bé thừa nhận. Đến khi ra chiến trường nhiều nguy hiểm gian khó, ông Sáu vẫn nhớ y nguyên những lời dặn dò của bé Thu tỉ mẩn làm cho nó một chiếc lược ngà, làm xong rồi thì luôn đặt trong túi trước ngực, thỉnh thoảng lại lấy ra chải tóc cho chiếc lược thêm bóng bẩy, đẹp đẽ. Có thể nói bao nhiêu yêu thương đều dồn cả vào trong đó. Thì ở bé Thu là những tình cảm ngây thơ trong sáng, tình yêu thương đối với cha hình thành từ tấm ảnh, rồi qua những lời kể của mẹ, của bà, và cuối cùng là khi đã hiểu rõ mọi chuyện, thì con bé trở nên dũng cảm, lập tức quay về nhận cha, vì sợ không được gặp cha nữa. Có thể nhận thấy rằng Thu là một đứa trẻ hiểu chuyện, tuy có cứng đầu, thế nhưng là một đứa trẻ ngoan, sẵn sàng sửa sai khi nhận ra lỗi lầm của mình.

Đến nay chiến tranh dù đã qua đi được hơn nửa thế kỷ nhưng có những nỗi đau, có những câu chuyện vẫn khiến nhiều độc giả phải thấy xúc động và đau đớn cho nhân vật, cuộc đời của những người lính chiến và gia đình của họ. Đặc biệt trong truyện ngắn Chiếc lược ngà thì tình cảm cha con giữa hai nhân vật ông Sáu và bé Thu vừa khiến người ta cảm động lại cũng là một bi kịch đầy xót xa, khiến chúng ta không thể không có nhiều trăn trở suy nghĩ.

Phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung, hình thức nghệ thuật của tác phẩm Chiếc lược ngà mẫu 3

Ra đời cách đây gần 50 năm (1966), nhưng truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, mỗi lần đọc lại, vẫn đem đến cho chúng ta niềm xúc động mới mẻ lạ thường. Sức hấp dẫn của Chiếc lược ngà không phải chỉ ở cốt truyện ít nhiều li kì, hay tính cách nhân vật khác lạ mà chính là ở nội dung sâu sắc và cảm động của câu chuyện. Thêm nữa, tác giả của nó - nhà văn Nguyễn Quang Sáng lại truyền đến người đọc bằng một lối kể chuyện thủ thỉ thấm đẫm nỗi niềm đau đáu của người cầm bút về số phận của con người, tình cảm con người trong những năm đất nước phải đối mặt với cuộc chiến tranh tàn khốc nhất của thế kỉ XX.

Theo tác giả Chiếc lược ngà, chúng ta đến với gia đình anh Sáu ở miền Đông Nam Bộ những năm đầu của thập kỉ 60, thế kỉ XX. Gia đình anh Sáu cũng giống như bao gia đình khác có chồng, có vợ, có con. Nhưng gia đình ấy không được đoàn tụ mỗi ngày. Anh “thoát li đi kháng chiến đầu năm 1946, sau khi tỉnh nhà bị chiếm”, lúc đứa con duy nhất chưa đầy một tuổi. Vợ chồng chỉ được gặp nhau trong những thời khắc ngắn ngủi. Anh chỉ được nhìn con qua tấm ảnh nhỏ.

Từ xa cách đến xa lạ là một khoảng cách rất gần. Lúc trở về, anh Sáu khao khát được gặp con gái, anh chỉ “mong được nghe một tiếng “ba” của con bé”. Tuy nhiên sự thật bình thường lại không đơn giản chút nào “con bé chẳng bao giờ chịu gọi”. Khoan! Đừng vội trách đứa con gái bé bỏng tội nghiệp'. Niềm tin ngây thơ trong trắng của nó chưa hề vướng bận vào chiến tranh, nhưng chiến tranh đã can thiệp vào đời sống tình cảm của nó. Vết thẹo dài bên má anh Sáu “bị Tây bắn bị thương” hồi nào, không ai ngờ lại là vật cản đường con bé đến với ba nó. Sự xung khắc giữa hai bô' con trong những ngày anh Sáu thăm nhà có nguồn gốc từ đây. Đúng vậy, chiến tranh đã không chỉ làm hình dạng con người thay đổi mà theo đó còn làm cho con người ta xa cách ngay cả khi ở gần nhau.

Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Việt Nam được kí kết, đất nước ta phải chia làm hai miền, một lần nữa gia đình anh Sáu lại li tán. Có ai ngờ lần về thăm nhà này lại là lần cuối cùng đoàn tụ của gia đình anh. Xa vợ, xa con, niềm mong ước được gặp lại con mình không lúc nào nguôi trong lòng anh Sáu. Nhưng mọi cố gắng của người cha không vượt qua nổi sự khắc nghiệt của chiến tranh. “Trong một trận càn của Mĩ - Nguỵ, anh Sáu bị hi sinh. Anh bị viên đạn của máy bay Mĩ bắn vào ngực”. Niềm mong mỏi gặp lại đứa con yêu dấu của mình, anh Sáu đã không thực hiện được. Anh đã ra đi mãi mãi. Cây lược ngà có thể gỡ rối được phần nào nỗi khổ tâm của anh, nhưng anh không còn cơ hội tận tay mang nó đến cho đứa con yêu dấu của mình mặc dù niềm tin vào tình cha con của anh không bao giờ mất.

Đã có nhiều tác phẩm văn học nói về tình mẫu tử, còn tình phụ tử, chúng tôi nghĩ đây chính là một đóng góp của tác giả Chiếc lược ngà.

Trong vai người chứng kiến, tác giả dẫn người đọc đi từ đầu câu chuyện đến cuối câu chuyện với một niềm “xúc động ngậm ngùi”. Bài ca về tình phụ tử trong Chiếc lược ngà đã làm cho biết bao thế hệ người đọc rơi nước mắt. Câu chuyện diễn ra như một màn kịch cổ điển có mở đầu, diễn biên, có thắt nút, cởi nút...làm cho người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Và cũng ở đây chúng ta được chứng kiến một Nguyễn Quang Sáng rất sâu sắc, tinh tế trong nghệ thuật khắc hoạ tâm lí nhân vật. Quả thật đọc bao nhiêu lần, tôi không thể nào phân biệt nổi đâu là cái tài của tác giả, đâu là cái thật của câu chuyện. Chỉ biết rằng các tình tiết, diễn biến cứ liên tiếp xuất hiện, liên tiếp mở ra dưới ngòi bút của tác giả như chính nó có trong đời thực. Lúc anh ỏ xa nhà, chị đi thăm không mang con theo được, đành vậy. Nhố con anh chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ. Lần này được về qua nhà chuẩn bị cho một chuyên đi xa “cái tình người cha cứ nôn nao trong anh”. Rồi “không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy tót lên... bước vội vàng vối những bước dài”. Chỉ thế thôi ta đã hiểu được sự nóng lòng gặp con của anh đến chừng độ nào. Nguyễn Quang Sáng đã khắc hoạ hình ảnh một người cha yêu thương con thật vồ vập, thật bản năng. Bản năng của người cha trong anh Sáu dường như đã truyền sang người kể chuyện, ông đoán “chắc anh nghĩ rằng, con anh sẽ chạy xô vào lòng anh, sẽ ôm chặt lấy cô anh”. Quả có thế, chúng ta hãy xem động tác của anh Sáu: “vừa bước chân, vừa khom người đưa tay đón chờ con”. Tưởng như bé Thu sẽ hồ hởi đón chò anh, nhưng thật lạ “con bé giật mình, tròn mắt nhìn...ngơ ngác lạ lùng”. Anh Sáu bị bất ngờ trước thái độ sợ hãi của con gái. Một cú sốc thật sự làm trái tim của người cha bị tổn thương. Từ xúc động, anh Sáu chuyển sang đau đớn và thất vọng.

Ba ngày ngắn ngủi trong gia đình, vợ chồng anh Sáu đã làm tất cả để cái tình cha con trở lại. Tuy nhiên, dường như mọi người càng cố gắng bao nhiêu thì khoảng cách tình cảm giữa anh Sáu và đứa con gái duy nhất càng xa cách bấy nhiêu. Mâu thuẫn của câu chuyện cứ tăng dần. Người cha chỉ mong sao có được một tiếng gọi “ba”, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi. Nghe mẹ giục gọi ba thì nó bảo: Thì má cứ kêu đi”, khi bắt buộc phải gọi thì sự đáp lại của con bé là những lời trống không tức tưởi: “Vô ăn cơm”, “Cơm chín rồi”, “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” phát ra từ miệng của một đứa bé bảy, tám tuổi gọi cha của mình mà Nguyễn Quang Sáng dùng rất đúng chỗ đã không ít lần làm người đọc phải buông tiếng thở dài buồn bã. Bị dồn vào tình thế khó khăn, mọi người hi vọng quan hệ từ phía người con sẽ được cải thiện. Song tình huống này, thêm một lần nữa lại đẩy mâu thuẫn của câu chuyện lên cao. Cái tài của người cầm bút cũng thêm một lần được thể hiện, đó là sáng tạo ra một tình huống thật độc đáo cho tính cách phô diễn. Lối khắc hoạ tính cách nhân vật tuy không mới, nhưng đã lôi cuốn người đọc vào thế giới câu chuyện rất tự nhiên và giàu cảm xúc. Bé Thu bị đặt vào một hoàn cảnh khó khăn, nồi cơm hơi to so với đứa bé bảy, tám tuổi lại đang sôi. Để hoàn thành nhiệm vụ mà mẹ giao không thể không cầu cứu người trợ giúp. Kịch tính được đẩy dần lên, nhưng vẫn những câu nói “trổng” (nói trống không) của con bé: - “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái! - Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!”. Hình ảnh bé Thu lúc này thật tội nghiệp “nhìn xuống, hơi sợ, lại nhìn lên... nhăn nhó muốn khóc... luýnh quýnh... loay hoay”. Và thật bất ngờ, Thu “đáo để” tự mình giải quyết mâu thuẫn “lấy cái vá múc ra từng vá nước, miệng lẩm bẩm điều gì không rõ”. Tình cha con mỗi lúc như một xa. Điểm nhấn cuối cùng của mâu thuẫn là bữa ăn. Một bên là người cha “gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén” cho con; một bên là người con “lấy đũa soi vào chén... bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung toé cả mâm”. Đây chính là giọt nước tràn li, anh Sáu “vung tay đánh” con, còn Thu, cô bé “cứng đầu” không khóc mà “ngồi im, đầu cúi gằm xuống... cầm đũa, gắp lại cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm” sang bên nhà ngoại “dỗ mãi cũng không về”. Mâu thuẫn của câu chuyện không thể đẩy cao hơn được nữa. Là người trong cuộc anh Sáu tưởng như không còn hi vọng có được tình cha con trong lần về thăm nhà ngắn ngủi này. Nhưng không, người xưa từng nói “phụ tử tình thâm”, người đọc không thể mất hi vọng, anh Sáu cũng có quyền hi vọng. Và tình cha con của anh trở lại đúng vào thời khắc ngắn ngủi nhất, đem lại cho người đọc nỗi xúc động nghẹn ngào nhất. Bé Thu cũng có mặt trong buổi đưa tiễn, nhưng lại mang tâm trạng hoàn toàn khác “không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu” và cái nhìn cũng khác “đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Người đọc nhận thấy thái độ, tình cảm của bé Thu đã biến chuyển trong ánh mắt “xôn xao” của con bé qua nhãn quan và cách miêu tả tinh tế của người viết truyện. Nỗi khát khao tình cha con bấy lâu nay bị kìm nén trong bé Thu nay bỗng bật lên. Bắt đầu là tiếng thét gọi “Ba... a... a... ba!”, rồi “nó vừa kêu vừa chạy xô tối... dang tay ông chặt lấy cổ cha nó”, “nó nói trong tiếng khó. - Ba! Không cho ba đi nữa, ba ở nhà với con!”, “nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”. Tất cả hành động của bé Thu thật gấp gáp, dồn dập trái hẳn với những gì chúng ta chứng kiến ỏ đầu câu chuyện.

Vâng! Đúng là thế, tình cảm cha con anh Sáu không hề mất đi dẫu có bị chiến tranh làm tổn thương, trái lại nó sẽ còn làm xúc động bao trái tim người đọc. Ai đã từng một lần đọc Chiếc lược ngà không thể không xúc động rơi nước mắt như những người chứng kiến buổi chia li sáng hôm ấy. Tất cả mọi người đều không ngờ tới đó là lần gặp nhau cuối cùng, là buổi chia xa mãi mãi của cha con anh Sáu. Nhưng “Cây lược ngà”, kỉ vật anh Sáu đã dành bao tâm sức, chất chứa bao tâm sự với con thì cuối cùng đã trở về với đứa con gái yêu dấu theo đúng lời hẹn ước. Đó cũng là một minh chứng hùng hồn cho tình cha con bất tử.

Thời gian rồi trôi đi, bé Thu ngày nào đã trở thành một cô giao liên dũng cảm, tiếp tục con đường cách mạng của ba mình. Câu chuyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng đã kết thúc mà nỗi ám ảnh của nó về bi kịch một thời chiến tranh, dư âm của nó về tình cha con bất tử vẫn còn làm thổn thức bao trái tim người đọc.

Đánh giá bài viết
12 12.848
Sắp xếp theo

    Văn mẫu lớp 10 CD

    Xem thêm