Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích, đánh giá về chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một bài thơ

Phân tích, đánh giá về chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một bài thơ được VnDoc.com tổng hợp và xin gửi tới bạn đọc. Mời các bạn cùng theo dõi chi tiết bài viết dưới đây nhé.

1. Phân tích, đánh giá về chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một bài thơ

Hồ Chí Minh sáng tác bài thơ “Mộ” năm 1942, trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt đó là khi nhà thơ bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Trong suốt thời gian bị đày ải bởi chính quyền Tưởng Giới Thạch người lính khổ sai Nguyễn Tất Thành thường xuyên bị áp giải từ nhà lao này đến nhà lao khác. Trong hoàn cảnh đặc biệt đó người bình thường chắc chỉ thấy tiếng kêu rên ai oán số phận, còn với Bác người lính cách mạng có tinh thần thép thì đó chỉ là cái cớ để tâm hồn thi sĩ vút cao lên thành những áng văn thơ trữ tình dạt dào cảm xúc. Chẳng thế mà toàn bài thơ chúng ta không thấy bất kỳ hình ảnh đau khổ của người tù mà chỉ thấy khung cảnh thiên nhiên, con người nơi miền sơn cước vô cùng bình dị, quen thuộc với cuộc sống lao động thường nhật.

Mở đầu bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên đặc trưng của buổi chiều tối:

"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không"

Ánh mặt trời dần tắt hẳn, màn đêm chuẩn bị bao trùm lấy cảnh vật, đây là thời khắc con người, vạn vật sinh linh trên trái đất đều mệt mỏi và muốn tìm về với chốn bình yên để nghỉ ngơi. Đầu tiên là hình ảnh của chú chim đang mỏi cánh trên bầu trời, cánh chim ấy đã vất vả sau một ngày dài kiếm ăn khắp chốn, giờ là lúc nó tìm về với bóng cây, chốn yên bình để ngủ. Câu thơ thứ hai vẫn là nét chấm phá cảnh vật của thiên nhiên với hình ảnh của “cô vân”. Cô vân là chòm mây cô đơn, kết hợp với từ láy “mạn mạn” tức là trôi nhẹ, lơ lửng, vô định trên bầu trời. Chòm mây cô đơn lạc trôi trên bầu trời khá tương đồng với hoàn cảnh của người tù khổ sai, cô đơn, lạc lõng nơi đất khách quê người. Trong lòng vẫn luôn đau đáu một ngày được trở về với đồng bào, quê hương.

Hai câu thơ sử dụng thủ pháp đối khá quen thuộc trong thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, đối giữa “cô vân” và “quyện điểu” để tạo nên một bức tranh thiên nhiên cân xứng, hài hòa. Một vài nét chấm phá đơn giản nhưng đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên thật hữu tình, nên thơ.

Hai câu thơ sau là hình ảnh của con người, con người của cuộc sống lao động hiện ra thông qua những nét vẽ thật khỏe khoắn, rắn rỏi:

"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng"

Hình ảnh cô gái xóm núi đang xay ngô chuẩn bị cho bữa cơm tối xuất hiện trong bài thơ là một nét vẽ bất ngờ nhưng rất hợp lý. Nó được cảm nhận thông qua cái nhìn của người tù khổ sai, nó mang một sức sống thật mạnh mẽ, tiềm tàng. Động tác xay ngô của cô gái nhịp nhàng, khỏe khoắn, từng vòng quay của chiếc cối đều, dứt khoát, “ma bao túc” rồi lại” bao túc ma hoàn”; phép lặp từ trong hai câu thơ nhấn mạnh sự cần mẫn, chăm chỉ của người lao động trong cuộc sống thường nhật, qua đó thể hiện cái nhìn trân trọng của thi sĩ dành cho con người nơi đây. Đặc biệt là hình ảnh “lô dĩ hồng” xuất hiện ở cuối bài thơ, đó là một nhãn tự có sức nặng cân cả bài thơ. Chữ hồng xuất hiện đã xua tan không khí lạnh giá nơi xóm núi hoang sơ, nó như tiếp thêm sức sống và sức mạnh cho người tù khổ sai trên con đường đi tìm lối thoát cho dân tộc. Chữ “hồng” cũng thể hiện chất thép vốn rất đặc trưng trong tập “Nhật ký trong tù”. Nó cũng khẳng định vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại trong thơ của Hồ Chủ Tịch.

Bài thơ khép lại một cách bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, trọn vẹn. Thông qua bài thơ “Mộ” chúng ta cảm nhận vẻ đẹp của nghị lực phi thường, tinh thần mạnh mẽ không lên gân, không khoa trương mà giản dị, khiêm nhường trong thơ của Hồ Chí Minh.

2. Phân tích, đánh giá về chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ Cảnh Khuya

Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc dù đã ra đi nhưng những điều ý nghĩa, tuyệt vời nhất về hình ảnh của Người vẫn còn mãi với con dân đát nước Việt Nam. Trong đó chính là kho tàng thơ ca mà bác đã sáng tác trong suốt cuộc đời chiến đấu, hy sinh cho dân, cho nước. Bài thơ Cảnh Khuya được sáng tác vào năm 1974 là một tình yêu nước, lo lắng cho dân tộc hòa cùng tình yêu thiên nhiên của Người. Từ đó ta cũng cảm nhận được những đựac sắc nghệ thuật của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt

Mở đầu chính là cảnh bức tranh thiên nhiên ở núi rừng Việt Bắc .Chiến khu Việt Bắc – đó là đầu não của cuộc kháng chiến chống xâm lược, là nơi chỉ đạo đấu tranh của Cách mạng. Nhưng không phải vì vậy mà Việt Bắc chỉ trang nghiêm và bận rộn . Bức tranh Việt Bắc vào khuya đã được miêu tả hết sức đặc sắc

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa’’

Ở đây, Bác đã so sánh tiếng suối ‘’trong như’’ tiếng hát của người con gái. Cảnh khuya thanh vắng vang lên tiếng suối chảy như làm cảnh vật có thêm sức sống. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh như phá vỡ sự im lặng, làm nổi bật cảnh rừng khuya. Trong khung cảnh đó, ánh trăng trên cao chiếu xuống tạo nên những điểm nhấn chi mặt đất nơi núi rừng. Điệp từ “lồng” như nhấn mạnh sự xuyên tỏa của ánh sáng trăng khuya, sự giao hòa, quấn quýt giữa cảnh vật. Ánh trăng chiếu xuống vạn vật như những bông hoa điểm xuyết, tạo nên sự hòa quyện của thiên nhiên Việt Bắc với mặt trăng đêm nay. Cảnh khuya Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp cổ điển, mộc mạc nhưng đầy sức sống qua tình yêu thiên nhiên, tân hồn hòa mình nơi núi rừng của Hồ Chí Minh

‘’Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà’’

Câu thơ thứ ba như một câu chuyển với dấu phẩy ngắt giữa câu ba và câu bốn. Điều này như làm rõ tâm trạng lúc này của Bác lúc này ‘’chưa ngủ’’. Cụm từ ‘’ chưa ngủ’’ ở đây chính là nỗi thao thức, tâm trang đầy sự lo âu. Trái ngược với cảnh khuya êm ả, dịu nhẹ, Hồ Chí Minh lúc này trong lòng tràn đầy nỗi băn khoăn, lo âu về nhân dân, đất nước và độc lập của dân tộc. Qua đây, ta cũng thấy rõ được tấm lòng yêu nước, luôn lo nghĩ cho dân, cho nước của vị cha kính yêu của đất nước Việt Nam

Bài thơ có sự kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: so sánh, điệp từ (lồng, chưa ngủ) nối kết hai tâm trạng, bộc lộ chiều sâu tâm hồn cao đẹp của Bác. Ngôn ngữ thơ hiện đại, giản dị mà cũng hết sức tinh tế, hàm súc.

3. Phân tích, đánh giá về chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ Đồng chí

Người lính nông dân đã đi vào thơ ca bằng những hình ảnh chân thật và đẹp trong “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Cá nước” của Tố Hữu… nhưng tiêu biểu hơn cả là bài “Đồng chí” của Chính Hữu. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948 là năm cuộc kháng chiến hết sức gay go, quyết liệt. Trong bài thơ này, tác giả đã tập trung thể hiện mối tình keo sơn gắn bó, ngợi ca tình đồng chí giữa những người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp.

Cảm nhận đầu tiên của chúng ta khi đọc bài thơ là hình ảnh người lính hiện lên rất thực, thực như trong cuộc sống còn nhiều vất vả lo toan của họ. Ngỡ như từ cuộc đời thực họ bước thẳng vào trang thơ, trong cái môi trường quen thuộc bình dị thường thấy ở làng quê ta còn đói nghèo lam lũ:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua,

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Quê hương xa cách nhau, mỗi người mỗi nơi. Người quê ở miền biển “nước mặn đồng chua”, người ở vùng đồi núi “đất cày lên sỏi đá”. Song dù xa cách nhau, dù khác nhau, nhưng đều là quê hương của lam lũ, vất vả, đói nghèo. Chữ nghĩa bình thường mà như đang cựa quậy khi cuộc sống thực đã ùa vào câu thơ đem đến những cảm nhận sâu sắc về quê hương người lính.

Tuy ở những phương trời khác nhau, “chẳng hẹn quen nhau”, nhưng cùng sống và chiến đấu với nhau trong một đội ngũ, những người lính đã tự nguyện gắn bó với nhau:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Cái rét ở rừng Việt Bắc đã nhiều lần vào trong thơ bộ đội chống Pháp vì đó là một thực tế ai cũng nếm trải trong những năm chinh chiến ấy. Có điều lạ là câu thơ nói đến cái rét gợi cho người đọc một cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Câu thơ của Chính Hữu đã diễn tả tình đồng chí thật cụ thể và cô đọng, sự gắn bó giữa những người đồng chí cùng chung nhau chiến đấu “súng bên súng”, cùng chung một

lí tưởng “đầu sát bên đầu”. Sự gắn bó mỗi lúc lại càng thêm sâu sắc: Là súng bên súng đến đầu bên đầu, rồi thân thiết hơn nữa là đắp chung chăn, thành tri kỉ.

Đoạn thơ đầu của bài thơ kết thúc bằng hai chữ “Đồng chí” làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của cả đoạn thơ. Nó giải thích vì sao người lính từ bốn phương trời xa lạ, không hẹn gặp nhau mà bỗng trở thành thân thiết hơn máu thịt. Đó là sự gắn bó giữa những người anh cùng chung một lí tưởng chiến đấu, là sự gắn bó kì diệu, thiêng liêng và mới mẻ của tình đồng chí.

Những người lính, những đồng chí ấy ra đi chiến đấu với tinh thần tự nguyện:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”

Họ vốn gắn bó sâu nặng với ruộng nương, với căn nhà thân thiết, nhưng cũng sẵn sàng rời bỏ tất cả để ra đi. Nhà thơ đã dùng những hình anh quen thuộc và tiêu biểu của mọi làng quê Việt Nam như biểu tượng của quê hương những người lính nông dân. Giếng nước, gốc đa không chỉ là cảnh vật mà còn là làng quê, là dân làng. Cảnh vật ở đây được nhân cách hoá, như có tâm hồn hướng theo người lính.

Tác giả tả rất thực về cuộc sống của người lính. Nhà thơ không che giấu mà như còn muốn nhấn mạnh để rồi khắc hoạ rõ nét hơn cuộc sống gian lao thiếu thốn của họ. Và phải là người trong cuộc thì mới vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với một sự đồng cảm sâu sắc như vậy:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”

Thơ ca kháng chiến khi nói tới gian khổ của người lính thường nói rất nhiều tới cái lạnh, cái rét. Đoạn thơ thứ hai này kết thúc bằng câu “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Một sự cảm thông, chia sẻ vừa chân thành, vừa tha thiết làm sao. Người ta bảo bàn tay biết nói là thế. Hình ảnh kết thúc đoạn thứ hai này cắt nghĩa vì sao người lính có thế vượt qua mọi thiếu thốn, gian khổ, xa quê hương, quần áo rách vá, chân không giày, mùa đông lạnh giá với những cơn sốt rét “run người”… Hơi ấm của tình đồng chí truyền cho nhau đã giúp người lính thắng được tất cả. Hình ảnh kết thúc bài thơ chỉ có ba dòng:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chở giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Sau những câu thơ tự do đang trải dài “Đêm nay rừng hoang sương muối”… câu kết thúc thu vào trong bốn chữ làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, chắc gọn, gây sự chú ý cho người đọc. Hình ảnh kết thúc bài thơ đầy thơ mộng, cái thơ mộng của gian khố, hiểm nguy: một cánh rừng, một màn sương, một vầng trăng với hai ngọn súng, hai con người chờ giặc. “Đầu súng trăng treo” cùng là một câu thơ dồn nén và có sức tạo hình, nó đẹp như một biểu tượng chiến đấu của những người lính giàu phẩm chất tâm hồn. Đó cũng là vẻ đẹp trữ tình mới của thơ ca kháng chiến, kết hợp được súng và trăng mà không khiên cưỡng.

Toàn bài “Đồng chí” từ chi tiết cuộc sống đến cảm giác của tác giả đều rất thật, không một chút tô vẽ đắp điểm, không bình luận, thuyết minh. Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm người lính, vẻ đẹp của “Đồng chí” là vẻ đẹp của đời sống tâm hồn người lính mà nơi phát ra vầng ánh sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội, đồng chí hoà quyện vào tình giai cấp. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” ở cuối bài nâng vẻ đẹp người lính lên đến đỉnh cao khái quát trong đó có sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.

4. Phân tích, đánh giá về chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ Nắng mới

Khi nói đến tình mẫu tử trong thơ, tôi nghĩ ngay đến bài thơ Nắng mới của Lưu Trọng Lư. Nỗi nhớ mẹ của chủ thể trữ tình trong bài thơ không phải là sự đau đớn, buồn thương da diết, nhưng lại cho thấy được tâm trạng hồi tưởng rất thật về hình ảnh người mẹ.

Chủ đề trong bài thơ Nắng mới là nỗi nhớ mẹ của chủ thể trữ tình. Người mẹ được hiện lên trong nỗi nhớ với những hình ảnh gần gũi, giản dị mà lại đẹp đẽ có phần lấp lánh: Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội/ Áo đỏ người đưa trước giậu phơi; Nét cười đen nhánh sau tay áo/ Trong ánh trưa hè, trước giậu thưa. Tôi đã bắt gặp nhiều hình ảnh người mẹ trong thơ văn. Nhưng đây là lần đầu tiên, tôi thấy hình ảnh người mẹ hiện lên một cách nhẹ nhàng, không khắc khổ, lam lũ. Không phải vì chủ thể trữ tình trong bài thơ này không nhớ mẹ, không yêu thương mẹ. Tình cảm ấy được thể hiện qua những từ ngữ như: não nùng, chập chờn, nhớ, chửa xóa mờ. Mới chỉ là những hình ảnh đẹp đẽ nhưng giản thị thôi đã khiến con người ta phải não nùng, chập chờn thì những hình ảnh khắc khổ, lam lũ sẽ khiến con người ta phải cảm thương đến nhường nào!

Sự chập chờn trong nỗi nhớ cho thấy đây là một nỗi nhớ thường trực, rất khó nguôi ngoai, hết kỉ niệm này, lại đến kỉ niệm khác hiện về. Không chỉ thể hiện nỗi nhớ của người con qua từ ngữ, nhà thơ Lưu Trọng Lư còn thể hiện nỗi nhớ ấy qua cách ngắt nhịp ở khổ thơ đầu. Cách ngắt nhịp chủ yếu của cả khổ thơ là 2/2/3 hoặc 2/5 thì lại xuất hiện một câu thơ được ngắt theo nhịp 3/4 như sự xen vào, như một sự chập chờn. Ở đây, ta thấy được hình thức nghệ thuật trong bài thơ đã góp phần thể hiện chủ đề của nó.

Như vậy, có thể thấy bài thơ Nắng trưa là một bài thơ hay, hay cả về nội dung lẫn hình thức. Đọc xong bài thơ, tôi cũng bỗng nghĩ đến mẹ mình, muốn đỡ đần mẹ để hình ảnh của mẹ luôn là sự vui tươi, nhẹ nhàng, đẹp đẽ, thanh thoát.

5. Phân tích, đánh giá về chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ Rằm tháng Giêng

Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới, đồng thời Bác cũng là một tác gia tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam. Về cuộc đời cách mạng, cả đời Bác chỉ có một mục tiêu duy nhất đó là dành lại độc lập cho đất nước, đó là làm sao để dân hết khổ, cụ già có áo mặc và em thơ có sữa, về sự nghiệp sáng tác Bác là một nhà thơ tài năng với nhiều tác phẩm có giá trị để lại cho đời. Một trong những tác phẩm ấy phải kể đến bài thơ Rằm Tháng Giêng được viết tại chiến khu Việt Bắc năm 1948 – giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp lần 2.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt với ngôn ngữ trong sáng, giản dị nhưng vô cùng hay,đặc sắc tinh tế.

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân;

Trăng là nguồn cảm hứng bất tận của thi nhân, như Lí Bạch trong Tĩnh Dạ Tứ “ngẩng đầu nhìn trăng sáng, cúi đầu nhớ cố hương” hay vẻ đẹp “khuôn trăng đầy đặn” của nàng Thúy Vân trong truyện Kiều. Trăng không còn xa lạ với thi nhân và cả bạn đọc nhưng có lẽ ánh trăng trong bài thơ Rằm tháng giêng lại cho ta cái nhìn và cảm nhận khác với vẻ đẹp, ẩn chứa nhiều suy tư sâu sắc. Có lẽ đây là thời gian vào mùa thu, đêm trăng tròn đẹp nhất, ánh trăng sáng tỏ như gương, lan tỏa khắp núi rừng việt bắc. Chính sự giao hòa giữa cảnh vật và con người đã khiến cho Bác nhiều cảm hứng để sáng tác bài thơ này.

Đã có rất nhiều nhà thơ sáng tác bài thơ về trăng, ánh trăng như “ Làn ao lóng lánh bóng trăng loe” trong Thu ẩm của Nguyễn Khuyến. Hay Ánh Trăng của Nguyễn Duy: “Hồi chiến tranh ở rừng/ Vầng trăng thành tri kỉ”. Nhưng bàn về ánh trăng của Bác trong bài thơ Rằm Tháng giêng ta mới thấy được cái đẹp của Trăng tròn đầy sức sống.

Tháng giêng là tháng đầu tiên của mùa xuân, đánh dấu sự khởi đầu của năm mới. tiết trời xuân mát mẻ, không gian xuân tươi xanh đẹp đẽ nhất trong năm với nắng ấm, thời tiết dịu nhẹ, cây cối đâm chồi nảy lộc, nhiều sức sống. Có lẽ vậy mà ánh trăng và ngày rằm cũng rất khác so với những mùa trong năm. Bác sử dụng hình ảnh “rằm xuân lồng lộng trăng sói” cho thấy ánh trăng rất tỏ, rất sáng, sáng vằng vặc. Ánh trăng sáng đến nỗi bao trùm cả không gian kết hợp với không gian mùa xuân lồng lộng, tươi mới rạng rỡ.

Đặc biệt, tác giả sử dụng từ xuân nhiều đến nỗi câu thơ cảm giác như chỉ thấy mùa xuân, thấy sức sống của mùa xuân. Cả vầng trăng, cả dòng sông, cả bầu trời đều ngập tràn hương vị mùa xuân, hương vị của sự sống, của tình yêu và khát vọng. Đọc hai câu thơ chúng ta hình dung ra một mùa xuân đẹp thế nào. Có lẽ đây là mùa xuân hi vọng với những chiến công sắp tới, có lẽ tâm trạng của Bác lúc này đang rất vui và nhiều niềm tin vào tương lai.

Câu thơ là sự kết hợp hài hòa của yếu tố cổ điển và hiện đại. Trong thơ ca cổ, giang, thủy, nguyệt, thiên vốn rất quen thuộc. Nhưng khi vào thơ Bác thì lại vô cùng hiện đại, sáng tạo, rực rỡ và đầy sức sống.

Phân tích bài thơ rằm tháng giêng – Có mùa xuân nào lại ngập tràn sức sống như mùa xuân, như ánh trăng mùa xuân trong Rằm Tháng Giêng của Bác?. Ta biết, Xuân Diệu từng có mùa xuân trong vội vàng, với xuân hồng mơn mởn muốn cắn vào để ngập tràn trong mùa xuân, trong sự sống. Ta cũng biết có mùa xuân trong Thanh Hải, một mùa xuân nho nhỏ mà tác giả muốn hứng từng giọt để có thể tận hưởng hết vẻ đẹp, sức sống mùa xuân. Nhưng có lẽ, mùa xuân trong thơ Bác vẫn có sự tươi mới, sáng tạo, dù sử dụng nhiều từ xuân nhưng không nhàm chán, người đọc lại chỉ cảm thấy sự sống và niềm hạnh phúc, khát vọng trong đó. Cách sử dụng từ rất hay, rất khéo, rất hài hòa trong khung cảnh ánh trăng đêm rằm mùa xuân.

Bức tranh thiên nhiên mùa xuân sẽ thật khiếm khuyết nếu thiếu đi hình ảnh con người. Con người chính là sự sống, sự vận động của vũ trụ. Vì vậy, sang hai câu thơ cuối, bức tranh về con người hiện ra thật đẹp, nhiều sức sống.

Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

Con người trong bức tranh khiến cho bức tranh thiên nhiên càng thêm đẹp và hài hòa hơn. Đêm trăng vằng vặc êm lặng như một bức tranh thủy mặc, bỗng trở nên sống động bởi sự góp mặt của Bác và các đồng chí cách mạng – những con người chèo lái con thuyền cách mạng đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ơ đó, họ cùng nhau bàn bạc việc quân, việc nước, những công việc quan trọng. Lẽ ra, trong khi bàn việc lớn ai cũng phải đăm chiêu, suy nghĩ, căng thẳng và mệt mỏi. Nhưng không, Bác vẫn rất bình tĩnh,ung dung, lạc quan, thưởng thức trăng. Ánh trăng đêm rằm đẹp như thế, sao có thể bỏ lỡ? Với cách sử dụng nghệ thuật lấy sáng tả đêm, ánh trăng càng sáng chứng tỏ đêm đã về khuya, tĩnh lặng. Bác cùng các đồng chí dường như quên thời gian khi làm việc, quên đi lợi ích riêng và vì lợi ích chung của cả dân tộc.

Khuya đã về, ánh trăng càng sáng hơn. Con thuyền chở đầy trăng là một hình ảnh đẹp, một hình ảnh liên tưởng và lãng mạn. Con thuyền như chở đầy ánh trăng hay hiểu đúng hơn đó là con thuyền cách mạng, đang chở chiến thắng, chở hi vọng, chở niềm tin và tương lai rực rỡ huy hoàng.

Ánh trăng không chỉ là ánh trăng mà đó là bạn, là kỉ niệm, là tri kỉ, là nhân chứng lịch sử. Ánh trăng đã chứng kiến biết bao nhiêu tình cảm đồng chí đồng đội cùng nhau sát cánh, vượt qua mọi gian khó để có thể vững tay chèo lái con thuyền cách mạng và chiến thắng kẻ thù. Trong bài thơ Đồng Chí – Chính Hữu, ánh trăng cũng biểu hiện cho hòa bình, cho khát vọng với câu thơ “Trăng treo đầu súng”. Hay như trong bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy lại là ánh trăng của tình cảm, của những kỉ niệm, ánh trăng nhắc nhở chúng ta về một thời chiến đấu bên nhau:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình.”

Có lẽ, bài thơ Rằm Tháng Giêng với ánh trăng tròn đẹp, soi sáng cả bầu trời cũng là ánh trăng của tri kỉ, của những kỉ niệm, của nhân chứng lịch sử. Qua đây ta cũng thấy được phong thái ung dung của Bác trước thời cuộc, trước cuộc chiến. Bác vẫn giữ cho mình một tâm thái nhẹ nhàng, kiên định mà không phải người thường nào cũng làm được trong hoàn cảnh ấy.

Bài thơ khép lại cho ta nhiều cảm xúc và những suy tư trăn trở của bác về đất nước và nhân dân. Vẫn là Bác với tình yêu thiên nhiên tha thiết, đồng thời cũng bộc lộ tình yêu nước sâu sắc. Vẫn là Bác với phong thái ung dung, tự tại trước mọi hoàn cảnh. Bài thơ ngắn gọn, cô đọng nhưng chắt lọc mọi tinh tế, mang đến cho bạn đọc nhiều cảm xúc khác nhau. Không chỉ vậy, nó còn là tâm hồn của chiến sĩ, luôn ngày đêm lo lắng cho sự nghiệp cứu nước và lạc quan trước cuộc kháng chiến đầy gian khổ.

------------------------------------

Trên đây VnDoc.com vừa gửi tới bạn đọc bài viết Phân tích, đánh giá về chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một bài thơ. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu học tập tốt môn Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo. Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm tài liệu học tập môn Toán 10 Chân trời sáng tạo...

Đánh giá bài viết
8 7.112
Sắp xếp theo

    Văn mẫu lớp 10 CTST

    Xem thêm