Nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện

VnDoc.com xin gửi tới bạn đọc bài viết Nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết.

1. Dàn ý bài nghị luận phân tích đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện

I. Mờ bài

Giới thiệu truyện kể. Nêu khái quát định hướng của bài viết.

II. Thân bài

1. Tóm tắt truyện

2. Chủ đề và ý nghĩa của chủ đề: Nêu được chủ đề của câu truyện và ý nghĩa của chủ đề đó

3. Những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật

3.1 Phân tích, đánh giá nghệ thuật tạo tình huống

3.2 Phân tích, đánh giá cách xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng và tác dụng trong việc thể hiện chủ đề

3.3 Phân tích, đánh giá cách khắc họa tính cách nhân vật qua lời thoại, ngôn ngữ

III. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị của chủ đề và sự đặc sắc của các nét nghệ thuật.

- Tác động của truyện đối với bản thân và người đọc.

2. Bài nghị luận phân tích đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện

Thần Trụ Trời” là một tác phẩm dân gian truyền miệng của người Việt cổ được sản sinh từ thời tối cổ và còn tồn tại đến ngày nay, được nhà khảo cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, kể lại bằng bản văn trong “Lược khảo về thần thoại Việt Nam”. Qua truyện thần thoại này, người Việt cổ muốn giải thích nguồn gốc các hiện tượng thiên nhiên như vì sao có trời, có đất và vì sao trời với đất lại được phân đôi, vì sao mặt đất lại không bằng phẳng có chỗ lõm có chỗ lồi, vì sao có sông, núi, biển, đảo.

Cho thấy người Việt cổ cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã cố gắng tìm để hiểu rõ những gì có xung quanh họ. Vì cũng chưa tìm hiểu được nhưng họ lại không chịu bó tay, họ bèn sáng tạo ra một vị thần khổng lồ để giải thích tự nhiên vũ trụ một cách hết sức ngây thơ và đáng yêu. Độc giả ngày nay cảm nhận được trong đó cái hồn nhiên và ước mơ của những người Việt cổ muốn vươn lên để giải thích thế giới tự nhiên quanh mình.Mọi chi tiết kể và tả Thần Trụ Trời đều gợi những vòng hào quang, điểm tô tính chất kỳ lạ, phi thường của nhân vật, thần thoại. Truyện đã nhân cách hóa vũ trụ thành một vị thần.

Hành động đầu tiên khi Thần Trụ Trời xuất hiện là “vươn vai đứng dậy, ngẩng cao đầu đội trời lên, giang chân đạp đất xuống,…” cũng là hành động và việc làm có tính phổ biến của nhiều vị thần tạo thiên lập địa khác trên thế giới. như ông Bàn Cổ trong thần thoại Trung Quốc cũng đã làm giống hệt như vậy. Tuy nhiên vẫn có điểm khác biệt chính là sau khi đã xuất hiện trong cõi hỗn độn giống như quả trứng của vũ trụ, ông đạp cho quả trứng tách đôi, nửa trên là trời, nửa dưới là đất và ông tiếp tục đẩy trời lên cao, đạp đất xuống thấp bằng sự biến hóa, lớn lên không ngừng của bản thân ông chứ không phải như Thần Trụ Trời đã xây cột chống trời.

Như vậy cho thấy việc khai thiên lập địa của ông Thần Trụ Trời ở Việt Nam và ông Bàn Cổ ở Trung Quốc vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Và đó cũng chính là nét chung và nét riêng có ở trong thần thoại của các dân tộc. Từ cái ban đầu vốn ít ỏi, người Việt cổ cũng như các dân tộc khác trên thế giới không ngừng bổ sung, sáng tạo làm cho nền văn học, nghệ thuật ngày một đa dạng hơn. Chúng ta cũng có thể đánh giá về kho tàng thần thoại Việt Nam đối với nền nghệ thuật Việt Nam như thế nào. Cũng nhờ nghệ thuật phóng đại mà các nhân vật thần thoại có được sức sống lâu bền, vượt qua mọi thời gian để còn lại với chúng ta ngày nay. Thần thoại đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt.

Truyện thần thoại “Thần Trụ Trời” vừa cho các bạn đọc biết được sự hình thành của trời đất, sông, núi, đá,…vừa cho thấy sự sáng tạo của người Việt cổ. Tuy truyện có nhiều yếu tố hoang đường, phóng đại nhưng cũng có cái lõi của sự thật là con người thời cổ đã khai khẩn, xây dựng, tạo lập đất nước.

3. Phân tích đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện mẫu 2

Nhắc đến những câu chuyện cổ tích của nước ta, không thể bỏ qua truyện “Cây khế”. Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện cổ tích đặc sắc nhất trong kho tàng truyện dân gian của nước ta.

Truyện kể về hai anh em nhà nọ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống nương tựa vào nhau. Cha mẹ mất để lại cho hai anh em một cây khế và một chút ruộng vườn, của cải, tuy không khá giả nhưng hai anh em vẫn có cuộc sống no đủ. Từ khi người anh trai lấy vợ bỗng sinh ra lười nhác, mọi việc đều đổ hết lên đầu vợ chồng người em. Thậm chí sợ em tranh công nên anh trai đã chia gia tài, chiếm hết của nải, đẩy vợ chồng em ra túp lều nát với cây khế của cha mẹ để lại. Vợ chồng người em chăm chỉ làm lụng, chăm bẵm cho cây khế ra quả, chim quý đến ăn và đã trả công vợ chồng em trai bằng vàng bạc. Tiếng đồn đến tai người anh, người anh tham lam nên gạ đổi gia tài lấy cây khế. Chim quý cũng đến ăn và hứa trả ơn bằng vàng, nhưng vì tính tham lam vô độ của người anh nên đã bị chim quý hất xuống biển sâu. Cốt truyện tuy rất đơn giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.

Truyện “Cây khế” phản ánh cuộc xung đột giữa hai tuyến nhân vật trong một gia đình, một bên là vợ chồng người em trai hiền lành, chăm chỉ, chịu khó; một bên là vợ chồng người anh trai tham lam, ích kỉ, chỉ nghĩ đến đồng tiền. Thông qua khai thác xung đột trong gia đình này, tác giả dân gian đã phản ánh chủ đề của chuyện đó là phê phán sự tham lam, ích kỉ của con người, ca ngợi những con người chịu khó, chăm chỉ, biết sống lương thiện, biết thế nào là đủ. Câu chuyện còn là lời cảnh tỉnh cho những ai đã và đang xem nhẹ tình anh em trong gia đình, cắt đứt tình máu mủ ruột rà chỉ vì những cái lợi trước mắt. Chủ đề truyện này không mới nhưng nó vẫn có giá trị không riêng với thế giới cổ tích mà còn cả xã hội hiện thực bây giờ.

Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu sắc trong truyện Cây khế thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.

Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Tình huống truyện chia gia tài, vốn rất quen thuộc trong truyện kể dân gian. Nhờ tình huống này bản chất xấu xa tham lam của vợ chồng người anh trai được bộc lộ. Tình huống thứ hai, góp phần giúp mạch truyện tiến triển là tình huống chim quý xuất hiện và ăn khế của vợ chồng em trai. Nhờ chim quý vợ chồng em trai được đền đáp xứng đáng cho tấm lòng, sự lương thiện của mình. Cũng nhờ chim quý mà vợ chồng người anh trai đã bị trừng trị thích đáng cho bản tính tham lam, mờ mắt vì tiền của mình. Nhân vật chim quý đóng vai trò là nhân vật chức năng, thế lực siêu nhiên, thay nhân dân thực hiện mong ước của họ. Đây cũng là kiểu nhân vật khá quen thuộc trong truyện cổ tích Việt Nam.

Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng cũng là một nét nổi bật cho truyện cổ tích Việt Nam. Trong đó người anh trai là tuyến nhân vật đại diện cho kiểu người tham lam, chỉ nghĩ đến đồng tiền; nhân vật em trai là đại diện cho tuyến nhân vật bất hạnh, mồ côi, chịu nhiều thiệt thòi, cam chịu. Hai tuyến nhân vật chính - tà khá quen thuộc trong truyện cổ tích, là đại diện cho các kiểu người trong xã hội phân chia giai cấp thời bấy giờ.

Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ, hành động của nhân vật. Nhân vật trong truyện cổ tích vốn chưa có những tâm lý hay nét tính cách độc đáo, riêng biệt như trong văn xuôi của các tác giả văn học. Nhưng thông qua lời thoại, ngôn ngữ, hành động chúng ta cũng thấy được phần nào những nét tính cách đặc trưng của nhân vật. Chẳng hạn qua thái độ “rối rít, mừng quýnh, vái lấy vái để “ khi gặp chim thần của vợ chồng anh trai cũng đủ thấy vợ chồng anh ta là người tham lam, ích kỉ, tôn sùng vật chất, luôn trông chờ vào vận may; hành động “nhét đầy vàng vào tay áo, ống quần, lết mãi mới ra khỏi hang” đủ thấy anh trai tham lam đến mờ lý trí… còn vợ chồng người em trai thấy con chim thần chỉ biết than “ ông chim ơi, ông ăn hết khế nhà cháu…” rồi hành động “chỉ nhặt vừa đủ vàng bạc nhét vào túi rồi ra về” cũng đủ thấy người em trai vốn bản tính lương thiện, hiền lành. Nhân vật chỉ được khắc họa qua hành động, ngôn ngữ nhưng những nét tính cách nổi bật vẫn hiện lên tương đối đậm nét.

Những phân tích ở trên đây cho thấy Cây khế là một truyện cổ tích tiêu biểu trong kho tàng truyện cổ Việt Nam. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh tỉnh, phê phán đến những người có lối sống ham vật chất, coi thường tình cảm máu mủ. Về hình thức nghệ thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, hành động để nhân vật bộc lộ rõ cá tính của mình, thông qua đó chủ đề truyện cũng được tô đậm.

Câu chuyện là một bài học đắt giá cảnh tỉnh những người tham lam, không coi trọng tình cảm gia đình, sớm hay muộn cũng sẽ nhận phải một kết cục không may mắn.

4. Phân tích đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện mẫu 3

Chiến tranh từ xưa đến nay vẫn luôn là vấn đề "nóng" của xã hội. Chiến tranh không chỉ gây ra vô vàn thiệt hại về tài sản, vật chất, bom đạn nơi chiến trường còn để lại bao nỗi mất mát, ám ảnh, thậm chí là những di chứng đến tận ngày hôm nay. Trong những năm tháng đau thương ấy, văn học xuất hiện như một thứ vũ khí tinh thần, mang hi vọng đến cho nhân loại. Một trong số rất nhiều tác phẩm ấn tượng nhất phải kể đến truyện ngắn "Buổi học cuối cùng" của nhà văn An-phông-xơ Đô-đê. Bằng ngòi bút tài hoa, điềm tĩnh của mình, tác giả đã khai thác đề tài chiến tranh theo một cách rất riêng, mang lại những bài học sâu sắc cho nhiều thế hệ sau này.

Lấy bối cảnh sau cuộc chiến Pháp - Phổ với phần thua thuộc về đất nước Pháp, nhà văn đã dựng lên một câu chuyện vô cùng cảm động về tình yêu Tổ quốc và tinh thần tự tôn dân tộc. Vùng An-dát bị cắt cho Phổ, dẫn đến việc tất cả các trường học ở nơi đây chỉ được phép dạy tiếng Đức.

Buổi học được bắt đầu với không khí kì lạ cùng lời thầy Ha-men: "Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con...". Cậu bé Phrăng trước kia coi việc học là điều gì đó nhàm chán. Nhưng đến lúc này, cậu bé lại hối hận vì những lần trốn học, tiếc nuối cho những buổi học mình bỏ lỡ, ước gì mình có thể đọc một cách trôi chảy. Tư tưởng, suy nghĩ của cậu đã thay đổi rất nhiều. Giờ đây, nhìn thầy Ha-men trên bục giảng mà cậu biết cảm thấy thương, thấy tiếc. Sự chia cắt của dân tộc chính là bước ngoặt lớn để cậu bé Phrăng trưởng thành hơn.

Thầy Ha-men có lẽ là người đại thể hiện được rõ nhất nỗi đau mất nước của một dân tộc. Ông đã khoác lên mình bộ đồ đẹp nhất, truyền tải kiến thức cho mọi người hết lòng hết dạ. Những lời tâm huyết của ông khi nhắc về ngôn ngữ mẹ đẻ càng tô đậm hơn tình yêu nước và lòng tự tôn dân tộc sâu sắc của một người thầy giáo. Bằng tất cả sức lực của mình, ông đã dũng cảm dạy đến hết buổi học. Tuy nhiên trong lúc đó, qua con mắt của cậu học trò, ta vẫn được thấy nét yếu đuối, niềm tiếc thương của người thầy đáng quý ấy khi chuẩn bị phải rời đi. Giây phút kết thúc lớp, ông dường như rơi vào tuyệt vọng. Hành động cầm phấn viết dòng chữ "NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM" bằng tất cả sức lực của mình là minh chứng rõ ràng nhất cho tinh thần phản kháng của ông cũng như của mọi người. Tất cả đều thể hiện tình yêu lớn lao ông dành cho đất nước, cho thứ tiếng mẹ đẻ thiêng liêng của dân tộc.

Ngay cả những cụ già trong làng cũng tới, dành chút thời gian ít ỏi còn lại để tham gia cùng mọi người. Giờ đây, buổi học ấy không còn chỉ là để dạy tiếng Pháp nữa. Nó đã trở thành buổi học về lòng yêu nước, tự tôn và tự hào đối với gốc gác, nguồn cội. Tiếng Pháp lúc này không chỉ là một thứ ngôn ngữ nữa mà là "chìa khóa của chốn lao tù", giúp giải thoát cả một dân tộc khỏi ách nô lệ. Chỉ cần giữ được tiếng mẹ đẻ thì dù khó khăn đến đâu, con người vẫn sẽ không khuất phục, sẽ còn khát vọng và đấu tranh cho một tương lai hòa bình, thống nhất.

Với tác phẩm, nhà văn An-phông-xơ Đô-đê đã chứng tỏ được sự tài hoa của mình trong nghệ thuật kể chuyện. Ở đây, tác giả đã lựa chọn ngôi kể thứ nhất, đặt người đọc vào điểm nhìn của Phrăng - cậu bé ở một vùng bị chia cắt, khiến cho câu chuyện trở nên đáng tin hơn. Bằng việc xây dựng bối cảnh và tình huống truyện éo le, nhà văn đã làm nổi bật lên tầm quan trọng của buổi học cuối ấy. Nó đã biến một cậu bé nghịch ngợm trở nên ham học. Những lời độc thoại của Phrăng đã cho ta thấy rất rõ sự phát triển trong suy nghĩ và nhận thức của cậu. Không chỉ có vậy, nhân vật thầy Ha-men cũng được miêu tả rất sinh động, rõ nét qua vẻ bề ngoài và hành động. Từ sự chau chuốt trong trang phục đến việc kiên nhẫn giảng giải, truyền thụ kiến thức đều cho thấy người thầy đó đáng kính đến như nào. Ông trân trọng từng phút giây quý giá cuối cùng ở nơi mình đã gắn bó suốt bốn mươi năm. Tất cả đã cùng mang đến cho người đọc sự tiếc nuối, buồn đau, thương cảm cho một dân tộc bị chia cắt.

Bằng góc nhìn khác biệt cùng ngòi bút độc đáo của mình, An-phông-xơ Đô-đê đã mang đến cho chúng ta một tác phẩm đầy cảm xúc. "Buổi học cuối cùng" là thông điệp về tình yêu Tổ quốc và niềm hi vọng về một tương lai hòa bình, thống nhất. Qua đó, chúng ta lại càng thêm trân trọng nền độc lập và biết ơn sự hi sinh cao cả của các thế hệ đi trước. Bao người lính trẻ đã ngã xuống để mang đến cuộc sống yên lành bây giờ. Đồng thời, ta cũng cần bảo vệ, gìn giữ ngôn ngữ riêng của dân tộc. Hãy học tập và trau dồi bản thân cả về tri thức và đạo đức, góp sức vào công cuộc kiến thiết nước nhà.

5. Phân tích đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện mẫu 4

Truyền thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh là một trong những truyền thuyết lâu đời nhất trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam và đã gắn liền với tuổi thơ của biết bao người. Câu chuyện thể hiện niềm khao khát chế ngự thiên nhiên của nhân dân ta, trước nỗi lo thiên tai bão lụt vẫn thường hoành hành hằng năm qua.

Đầu tiên, truyền thuyết này như muốn nói về hiện tượng thiên tai, bão lụt hàng năm cũng như lòng quyết tâm chống lại thiên tai của nhân dân ta ngày trước. Sơn Tinh , Thuỷ Tinh kể về đời vua Hùng thứ 18. Kể rằng vua Hùng có một người con gái vô cùng xinh đẹp lại nết na diền dịu có tên là Mị Nương. Nay nàng đã đến tuổi thành thân, nên vua cha muốn kén cho nàng một người chồng xứng đáng. Trong số đó có hai chàng trai kiệt xuất là SƠn Tinh và Thuỷ Tinh. Một người là chúa vùng non cao, còn một người là vua hùng nước thẳm. Vì đưa được sính lễ tới trước là " voi chín ngà, gà chín cựa" nên Sơn Tinh được cưới Mị Nương về làm vợ. Tức tối, ghen ghét vì thua cuộc nên Thuỷ Tinh đã hô mưa gọi gió, tạo ra lũ lụt để đánh bại Sơn Tinh. Thuỷ Tinh đã dâng nước thì Sơn Tinh dời núi non. Thuỷ Tinh đại diện cho thiên nhiên giông bão, lũ lụt còn Sơn Tinh đại diện là biểu tượng cho nhân dân ta với tinh thần kiên cường, bất khuất sự mưu trí và anh dũng không chịu đầu hàng trước thiên nhiên, số phận.

Tiếp đó, tác giả dân gian đã lựa chọn được hình ảnh, nghệ thuật đặc sắc để diễn tả được hình ảnh thiên tai bão lũ và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trước thiên tai. Đây là câu chuyện được viết theo kiểu thần thoại Việt Nam nên có thể thấy được truyện chưa có nhiều yếu tố kì ảo để nói về những hiện tượng thiên nhiên. Từ tình huống vua Hùng kén rể, ta có thể thấy đươc núi non, nhân dân ta luôn đặt lên hàng đầu. Vua Hùng đã đặt ra những sính lễ là voi chín ngà gà chín cựa ngựa chín hồng mao. Những sính lễ này có thể thấy được dễ dàng tìm dược ở vùng núi rừng chứ không phải ở biển cả. Sơn Tinh đã có một lợi thế rõ ràng trước Thuỷ Tinh. Sau đó một loạt những chi tiết kỳ ảo đã xảy ra như Thuỷ Tinh đã hô mưa, gọi gió, nước dâng lên cao bao nhiêu thì Sơn Tinh lại làm cho đồi, núi mọc cao lên bấy nhiêu như vẽ nên bức tranh thiên tai ngày xưa. Lũ lụt càng lên cao thì dân ta càng gắng sức chiến đấu chống lại thiên tai. Cùng với đó là hình ảnh người dân Việt Nam hay còn là dân Văn Lang cùng Sơn Tinh chống lại cuộc chiến với Thuỷ Tinh càng tô đậm vẻ kiên cường của nhân dân Việt Nam trước bão lũ.

Câu chuyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh được khắc hoạ qua các chi tiết kì ảo sinh động về hai vị thần rất thành công trong việc đưa người đọc đến với hình ảnh của người dân thời xưa đối mặt với sự tức giận từ thiên nhiên như thế nào. Truyện đã gắn với bao thế hệ luôn nhắc nhở chúng ta về tình đoàn kết của nhân dân trước mọi khó khăn, thử thách.

6. Phân tích đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện mẫu 5

Có lẽ, những bí ẩn về thiên nhiên vẫn là một câu hỏi lớn đối với con người thời cổ. Chính vì vậy, họ đã sáng tạo nên các câu chuyện để trả lời cho những thắc mắc của bản thân. Đọc truyện "Thần Trụ trời", ta thấy được cách phân chia bầu trời và mặt đất. Đọc "Prô-mê-tê và loài người", ta được giải đáp về cách các vị thần tạo ra muôn vật và loài người. Không giống hai tác phẩm trên, truyện "Đi san mặt đất" lại là những lí giải đơn giản về quá trình loài người chung lòng, góp sức san phẳng mặt đất để làm ăn mà không có sự xuất hiện của các vị thần. Truyện gây ấn tượng bởi những đặc sắc trong chủ đề và hình thức nghệ thuật.

Truyện "Đi san mặt đất" có chủ đề viết về quá trình khai hoang và cải tạo tự nhiên của người Lô lô xưa, quá trình này cần có sự giúp sức của tất cả mọi người lúc bấy giờ. Người Lô Lô xưa đã có những nhận thức khá nguyên sơ, đơn giả về thế giới vũ trụ, đồng thời họ cũng có ý thức trong việc cải tạo thế giới sống quanh mình Khi Trái Đất vẫn còn hoang sơ thì người xưa đã cùng nhau đi trình khai hoang và cải tạo tự nhiên. Đó là thời gian không thể xác định, mà người cổ xưa chỉ biết là:

"Ngày xưa, từ rất xưa...
Người già không nhớ nổi
Mấy năm mấy nghìn đời
Ngày xưa từ rất xưa...
Người trẻ không biết tới
Mấy nghìn, mấy vạn năm"

Mốc thời gian không cụ thể khiến chúng ta không thể biết chính xác đó là thời điểm nào. Khoảng thời gian ấy xưa đến mức người già cũng không thể nhớ nổi, người trẻ thì lại chẳng thể biết tới. Và cuộc sống con người lúc bấy lại thật đơn giản. Trước khi đi san mặt đất, con người vẫn sống chung, ở chung và ăn chung với nhau. Người Lô Lô xưa đã biết tận dụng điều kiện tự nhiên để trồng bắp, lấy nước uống từ "bụng đá" "Trồng bắp trên núi cao/ Uống nước từ bụng đá". Tuy nhiên, sống trong không gian hoang sơ, thiếu thốn khi "Bầu trời nhìn chưa phẳng/ Mặt đất còn nhấp nhô" nên con người thời cổ đã khẩn trương cùng nhau đi tái tạo thế giới.

Để có thể san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời thì người Lô Lô đã biết tận dụng sức mạnh của các loài vật xung quanh lúc bấy giờ:

"Kiếm con trâu sừng cong
Chọn con trâu sừng dài"

Họ kiếm những con trâu sừng phải cong, phải dài vì đây là những con trâu khỏe, trâu tốt. Chúng đi cày bừa san đất mà không quản gì mệt nhọc. Có sức giúp đỡ của chúng thì công cuộc cải tạo mặt đất của người Lô Lô xưa chẳng mấy chốc mà thành. Thế nhưng công việc san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời là công việc chung của muôn loài nên con người đã đi chuột chũi cóc, ếch. Đáp lại lời kêu gọi của người Lô Lô xưa, các con vật đều tìm cớ trốn tránh, thoái thác. Không thể trông cậy vào chúng, con người đã tập hợp sức mạnh của nhau để cải tạo thiên nhiên "Giống nào cũng không đi/ Người gọi nhau làm lấy". Truyện "Đi san mặt đất" của người Lô Lô không chỉ đơn thuần là lời lí giải về sự bằng phẳng của mặt đất và bầu trời mà còn phản ánh nhận thức của người Lô Lô xưa về quá trình tạo lập thế giới. Theo cách lí giải của họ, để có được mặt đất, bầu trời bằng phẳng như ngày nay thì người Lô Lô xưa đã phải đi san mặt đất. Con người đã tự biết tập hợp sức mạnh của cộng đồng để chung tay thực hiện công việc. Và qua đây, ta thấy được con người trong buổi sơ khai đã có ý thức trong việc cải tạo thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của chính mình.

Không chỉ độc đáo ở chủ đề, truyện "Đi san mặt đất" còn có những đặc sắc ở khía cạnh nghệ thuật. Người Lô Lô xưa đã sáng tạo truyện thần thoại bằng hình thức thơ ca với giọng điệu vui tươi, nhí nhảnh tạo cảm giác thích thú cho người đọc.

Bên canh đó, truyện còn sử dụng biện pháp nhân hóa cùng với ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Các con vật được nhân hóa có những cử chỉ giống con người đã giúp cho chuyện trở nên sinh động hơn. Người Lô Lô xưa đã sử dụng ngôn ngữ gần gũi, giản dị giúp cho bạn đọc ở mọi lứa tuổi dễ dàng tiếp nhận truyện.

"Đi san mặt đất" là một trong những truyện thần thoại đặc sắc của người Lô Lô. Truyện đã thể hiện những lí giải nguyên sơ của người xưa về vũ trụ, về thế giới qua thể thơ năm chữ kết hợp sử dụng các biện pháp nghệ thuật. Qua câu chuyện, ta càng thêm ấn tượng với trí tưởng tượng của người xưa trong việc sáng tạo những giá trị văn hóa dân gian.

------------------------------

Trên đây VnDoc.com vừa gửi tới bạn đọc bài viết Nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 10 Chân trời sáng tạo. Mời các bạn cùng tham khảo thêm tài liệu học tập các môn Toán 10 Chân trời sáng tạo, Tiếng Anh lớp 10...

Đánh giá bài viết
17 46.029
Sắp xếp theo

Văn mẫu lớp 10 CTST

Xem thêm