Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm trữ tình
Nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm trữ tình
VnDoc.com xin gửi tới các bạn bài viết Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm trữ tình, bao gồm dàn ý chung hướng dẫn cách làm bài văn mẫu 10. Mời các bạn cùng tham khảo.
I. Dàn ý chung kiểu bài Nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm trữ tình
A. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm trữ tình (tên tác phẩm, thể loại, tác giả,…)
- Nêu nội dung khái quát cần phân tích, đánh giá
B. Thân bài
1. Phân tích, đánh giá chủ đề
- Xác định chủ đề của tác phẩm.
- Phân tích, đánh giá chủ đề của tác phẩm.
2. Phân tích, đánh giá hình thức nghệ thuật
- Phân tích một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm (phù hợp với đặc trưng của thơ/văn xuôi trữ tình)
- Đánh giá tác dụng của những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật trong việc thể hiện chủ đề của tác phẩm.
C. Kết bài
- Khẳng định lại một cách khái quát những đặc sắc về nghệ thuật và nét độc đáo về chủ đề của tác phẩm.
- Nêu tác động của tác phẩm đối với bản thân hoặc cảm nghĩ sau khi đọc, thưởng thức tác phẩm.
II. Văn mẫu Nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm trữ tình
1. Nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm trữ tình - Mẫu 1
Chiều xuân
Nhận xét về nữ sĩ Anh Thơ, nhà thơ Vũ Quần Phương đã viết: “Khi chị đến thì phong trào Thơ mới đã ổn định với các tên tuổi tiêu biểu của nó, nhưng chị vẫn có đóng góp riêng: những bức tranh thôn quê xứ Bắc. Cùng với Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… Anh Thơ làm giàu thêm lòng yêu quê hương làng nước của người Việt Nam mình”. Điều này được thể hiện rất rõ qua bài thơ trữ tình “Chiều xuân”.
Thi phẩm “Chiều xuân” nằm trong tập thơ “Bức tranh quê”, được xuất bản năm 1941. Tập thơ nói chung và tác phẩm nói riêng đã đưa tên tuổi của nàng thiếu nữ mới 17 tuổi xứ Kinh Bắc tỏa sáng. Không quá cầu kì, ngay từ nhan đề, nhà thơ đã thể hiện nội dung chính của tác phẩm. Cái tên “Chiều xuân” nhấn mạnh vào không gian, thời gian mà nhân vật trữ tình đang đắm chìm: buổi chiều mùa xuân thơ mộng. Buổi chiều vốn dĩ xuất hiện rất nhiều trong văn học Việt Nam, đặc biệt là những câu ca dao nói về nỗi nhớ, nỗi buồn:
Chiều chiều bóng bổ qua cầu
Con ong say vì mật, con bướm sầu vì hoa.
Tác giả tả mùa xuân - mùa đẹp nhất trong năm, biểu tượng của sức sống, sự hồi sinh nhưng lại chọn thời gian buổi chiều. Điều này dường như báo hiệu bài thơ sẽ khắc họa một bức tranh thiên nhiên rất mực giản dị, đằm thắm nhưng phảng phất nỗi buồn. Từ hình ảnh chiều xuân Bắc Bộ trên bến vắng, đường đê đến cánh đồng, Anh Thơ đã thực sự lay động tâm hồn người đọc.
Mở đầu bài thơ, tác giả đưa người đọc đến với không gian bến sông quê quen thuộc có cơn mưa xuân:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Mưa phùn vốn là một đặc trưng của mùa xuân đất Bắc. Mưa an ủi lòng người, làm dịu đi cái rét ngọt khô khốc của mùa đông nhưng cũng chẳng ồn ào giống mưa rào mùa hạ. Nhà thơ “Chân quê” Nguyễn Bính cũng từng ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của những cơn mưa phùn lất phất ấy mà viết nên những vần thơ:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy.
Mưa của Nguyễn Bính “bay”, mưa của Anh Thơ “đổ”. Mưa của Nguyễn Bính “phơi phới” vui tươi, thắm đượm ý tình như trái tim người thiếu nữ xao xuyến những nhịp đập yêu đương còn mưa trong thơ Anh Thơ lại “êm êm” yên bình, thoáng chút cô liêu. Đóa hoa xoan tím biếc rụng dưới chân Nguyễn Bính “lớp lớp”, “vơi đầy” nhưng sang đến trong cảm nhận của Anh Thơ lại là ấn tượng về sự tan tác, “rụng tơi bời”. Quả thực, “Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác”. Cùng viết về một đề tài nhưng mỗi nhà văn lại có những cách khai thác riêng. Chi tiết “bến vắng” mở ra một không gian rộng lớn mênh mông nhưng đìu hiu, quạnh quẽ. Động từ “đổ” diễn tả cơn mưa không nặng hạt nhưng có mật độ dày đặc, tựa như lớp bụi mờ liên tục trút xuống bến sông. “đổ” thế mà lại “êm” đến lạ kì! Cảnh vật cơ hồ không một tiếng động. Biện pháp nhân hóa “biếng lười nằm mặc nước sông trôi” khiến hình ảnh con đò trở nên sinh động. Con đò tựa như một người đương thời ngơi nghỉ, sau khi đã vất vả chộn rộn suốt một năm. Câu thơ tiếp theo xuất hiện hình ảnh “Quán tranh”. Đó là một sản phẩm của con người nhưng ở đây mái tranh bên sông lại “đứng im lìm trong vắng lặng”. “im” và “vắng” xuất hiện trong tùng một câu thơ càng như cực tả cái cô đơn, hoang vu của cảnh vật. Có mưa, có hoa, có quán nước, con đò, khổ thơ hội tụ tất cả những hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam. Bức tranh chiều xuân nơi bến đò nên thơ mà đượm buồn man mác qua cảm nhận tinh tế của “nàng thơ áo trắng sông Thương”.
Khổ thơ thứ hai, tác giả đã chuyển hướng nhìn sang con đê và có những phát hiện thú vị:
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa
Đoạn thơ đã xuất hiện những gam màu tươi sáng của cỏ non, đàn sáo, cánh bướm rực rỡ và đàn trâu, đàn bò. Điệp từ “cỏ” lặp lại hai lần trong một câu thơ kết hợp với cách viết “tràn biếc” gợi lên hình ảnh thảm cỏ xanh non kéo dài tít tắp tận chân trời. Màu xanh bao trùm lấy con đê, miên man vô tận. Những đàn sáo xuất hiện làm khung cảnh thêm phần sinh động. Từ láy “vu vơ” diễn tả tâm thế ung dung, thong thả như đang dạo chơi xuân của đàn sáo. Nhà văn Nhất Linh đã nhận xét rằng Anh Thơ “không chỉ thơ đẹp mà mắt cũng đẹp”. Con mắt là cửa sổ của tâm hồn, chứa đựng những rung động tình cảm sâu lắng nhất. Với con mắt tinh tế của mình, Anh Thơ đã viết nên những vần thơ tuyệt đẹp. Bà dùng từ “trôi” miêu tả chuyển động của những cánh bướm, đem đến cảm giác bướm bay nhẹ đến mức tưởng như đôi cánh của chúng được làn gió nâng đi. Hình ảnh “Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa” đã cho thấy nhịp sống yên bình, thanh tĩnh ở làng quê. Những câu thơ chứa chan niềm hạnh phúc dịu ngọt, man mát dễ chịu, khẽ khàng len lỏi vào tâm hồn người đọc. Tác phẩm đúng là “giọng thơ trong sáng như tiếng thở dài của người thiếu nữ ngồi sau khung cửa nhỏ nhìn thấy chiều quê yên tĩnh đương tràn ngập ánh dương quang”
Đến khổ thơ cuối cùng, tác giả hoàn thiện những nét gam màu cuối cùng của bức tranh xuân:
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Vẫn là màu xanh nhưng cái xanh non, xanh biếc của cỏ sẽ khác với xanh rờn của lúa. “xanh rờn” đi với “ướt lặng” đem đến ấn tượng về một đồng lúa rộng mênh mông và yên tĩnh. Mưa xuân làm ướt ruộng đồng, khiến ta có cảm giác màu xanh như càng được tô đậm thêm, chảy tràn khắp đất trời. Thế rồi, những cánh cò trắng xuất hiện xé tan màu xanh u tịch ấy. Từ “bỗng” thể hiện cảm xúc ngỡ ngàng, bất ngờ tột độ của nhà thơ. Hai câu thơ đầu đoạn làm hiện ra trong tâm trí người đọc hình ảnh những cánh đồng lúa thân thương trong ca dao:
Cánh cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ, bay ra cánh đồng.
Sắc màu tươi đẹp nhất trong bức tranh đã xuất hiện, chính là màu đỏ thắm từ chiếc yếm của người con gái. Sự “giật mình” của cô gái dẫu nhỏ bé mà cũng đủ làm sống dậy quang cảnh xung quanh, đem đến sức sống cho buổi chiều xuân. Cách dùng từ “Cúi cuốc cào cỏ” rất độc đáo với việc sử dụng phụ âm đầu “C” liên tiếp, thể hiện những tâm thế lao động cần mẫn, động tác thuần thục của người thiếu nữ. Cô đang gieo trồng sự sống trên những thửa ruộng sắp ra hoa.
Như vậy, bằng thể thơ tự do, cách ngắt nhịp linh hoạt, ngôn ngữ thơ trong sáng, hình ảnh thơ giản dị, nhịp điệu thơ chậm rãi và hơn hết là bút pháp tả cảnh với những nét chấm phá điêu luyện, Anh Thơ đã vẽ nên bức tranh chiều xuân ở nông thôn Bắc Bộ rất đỗi hữu tình, nên thơ. Qua trái tim nhạy cảm, yêu cái đẹp của một người thiếu nữ, từng nét mưa, nét hoa cũng trở nên thoáng gợi buồn. Từ đó, ta thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước của nhà thơ.
2. Nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm trữ tình - Mẫu 2
Đề bài: Hãy viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của một tác phẩm thơ hoặc văn xuôi trữ tình.
|
LÁ ĐỎ Gặp em trên cao lộng gió (Trường Sơn, 12/1974) |
Nguyễn Đình thi là nhà thơ miệt mài, cần cù trong suốt hành trình nghệ thuật của mình, hơn 60 năm cầm bút ông đã để lại khối lượng tác phẩm đồ sộ thuộc nhiều loại hình khác nhau, song thơ là lĩnh vực ông dành nhiều tâm huyết nhất. Mỗi bài thơ của ông đều mang bản sắc riêng rõ nét, “Lá đỏ” là một điển hình, tiêu biểu cho cả nội dung và nghệ thuật thơ Nguyễn Đình Thi.
Bài thơ được sáng tác năm 1974, giai đoạn đất nước ta chuẩn bị tổng tiến công, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bài thơ có nội dung, cảm hứng chủ đạo là niềm tin vào sự chiến thắng của dân tộc. Tác phẩm như một lời dự cảm về ngày mai tươi sáng của đất nước, khi chúng ta đã dành được độc lâp, tự do, hòa bình.
Chỉ với tám dòng thơ ngắn gọn nhưng súc tích, Nguyễn Đình Thi đã tái hiện cả một cuộc hành quân trường kì, vĩ đại của đất nước ta trong cuộc chiến tranh khốc liệt để bảo vệ Tổ quốc. Đó là cuộc hành quân trên đường Trường Sơn, bộ đội tiến vào Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bài thơ được viết khi nhà thơ được trực tiếp đến và trải nghiệm cuộc sống ở Trường Sơn - cũng là lí do cho những dòng viết chân thực và sống động trong thơ ông.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ:
“Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ”
Có thể cảm nhận được vị trí nơi nhà thơ đứng là đỉnh Trường Sơn “cao lộng gió”, một nơi có thể phóng tầm mắt nhìn ra bao la, rộng lớn và bao quát. “Trên cao” còn có hàm ý về vị thế trong tư tưởng, tình cảm - tức cao quý, cao cả. Hai chữ “lộng gió” tựa như lòng người rộng mở, niềm tin phơi phới, đón chào những luồng gió Cách mạng. Từ đỉnh núi, ông thấy được cảnh thiên nhiên đẹp lạ lùng: “Rừng lạ ào ào lá đỏ”. Từ láy “ào ào” được sử dụng độc đáo, gợi ra cảnh một cơn cuồng phong làm nên trận “mưa” lá đỏ tuôn trào, mãnh liệt như sức sống Trường Sơn. Màu đỏ của lá tựa như màu đó của lá cờ Tổ quốc, của dòng máu chảy trong mỗi trái tim người con đất Việt.
Hai câu thơ tiếp theo xuất hiện bóng dáng con người, hình ảnh thật đẹp trong cuộc chiến tranh nhân dân - “em gái tiền phương”, nữ chiến sĩ giao liên hay cô gái thanh niên xung phong:
“Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc, quàng súng trường.”
Sự có mặt của những cô gái trên đỉnh Trường Sơn đã góp phần tạo nên một thời kì huy hoàng của Tổ quốc, một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, trong đó có cả những cô gái trẻ trung, xinh đẹp mà lẽ ra được hưởng cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Hình ảnh những cô gái bên đường Trường Sơn gợi nhắc về hình ảnh những cô thanh niên xung phong trên cao điểm trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê). Có biết bao chàng trai, cô gái ngày đêm không ngừng nghỉ, thậm chí hi sinh cả tính mạng vì sự nghiệp của Tổ quốc, tất cả đã cùng làm nên những trang lịch sử chói lọi, làm nên “Đất Nước muôn đời”. Hình ảnh “vai áo bạc, quàng súng trường” thật giản dị, thân thương. Đó là chứng tích sau biết bao tháng ngày dầm mưa dãi nắng; cũng là hình ảnh nổi bật giữa núi rừng Trường Sơn “ào ào lá đỏ”.
Trong những năm tháng máu lửa của thời kì kháng chiến chống Mỹ, Trường Sơn đã trở thành trận địa thiêng liêng:
“Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”
Con đường hành quân đầy gian khổ, khốc liệt. Ta nhớ về hình ảnh con đường hành quân của những người lính Tây Tiến nơi núi rừng Tây Bắc: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm/Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”. Con đường càng đi như các thách thức ý chí của những người chiến sĩ. Song, đoàn quân “vẫn đi vội vã” với những bước chân hối hả, trùng điệp, rung chuyển đất trời: “Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”. Câu thơ gợi khung cảnh hào hùng, không khí sử thi hào tráng ở những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh.
Những đoàn quân cứ thế, nối tiếp nhau không ngừng nghỉ, nhà thơ - chiến sĩ chỉ kịp ghi lại dáng hình quê hương rồi gửi lời chào và hẹn gặp:
“Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn.”
Sài Gòn - cái đích của cuộc hành quân, cuộc tiến công đã thật gần, con đường chạm tới chiến thắng, độc lập, tự do không còn xa. Lời chào, lời hẹn ước ấy chưa đựng biết bao nhiệt huyết của tuổi trẻ, khát khao, lý tưởng cao đẹp.
Không chỉ tạo ấn tượng sâu sắc về nội dung, bài thơ cũng mang những yếu tố hình thức nghệ thuật đặc sắc. Yếu tố chính làm nên thành công của bài là hình ảnh, nhịp điệu và ngôn ngữ thơ. Bài thơ đã khắc họa hình ảnh sống động: lá đỏ, cô em gái tiền phương, đoàn quân - có sức gợi tả, khái quát cao cho vẻ đẹp của đất nước, con người Việt Nam. Về nhịp điệu, cơ bản xuyên suốt bài thơ là nhịp điệu của bước chân hành quân dồn dập, chắc khỏe. Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi và chân thực, hình ảnh cuộc sống nơi chiến trường hiện lên tự nhiên, sống động.
Những cuộc kháng chiến đã qua đi, thời gian cũng dần phủ bụi nhưng kí ức về những năm tháng ấy có lẽ không bao giờ có thể xóa nhòa. Nhiều năm sau, độc giả vẫn sẽ nhớ về những năm tháng ấy, nhớ về tuyến đường Trường Sơn “ào ào lá đỏ”, nhớ hình ảnh những cô gái tiền phương, những chàng trai chiến sĩ với những bước đi rung chuyển đất trời. Có lẽ vì vậy mà Balzac đã từng nói những người nghệ sĩ làm văn, viết thơ là “thư kí trung thành của thời đại”.
3. Nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm trữ tình - Mẫu 3
Bằng Việt quê Thạch Thất - Hà Tây (nay là Hà Nội), ông sinh năm 1941, trong những năm tháng học tập xa nhà mà vẫn da diết nhớ quê ùa về, là nguồn cảm xúc mạnh mẽ dâng trào khiến ông viết lên bài thơ Bếp lửa. Bài thơ Bếp lửa đươc sáng tác năm 1963, khi đang học tập tại Liên Xô, được in trong tập thơ Hương cây, bếp lửa, in chung với thơ Lưu Quang Vũ. Có thể nói Bếp lửa là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Bằng Việt. .
Mở đầu bài thơ là hình ảnh ngọn lửa bập bùng cháy, ngọn lửa thực mà cũng chất chứa biết bao ý nghĩa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Hai từ “ấp iu” gợi lên hình ảnh đôi bàn tay tảo tần của bà ngày ngày nhen nhóm ngọn lửa, thức khuya dậy sớm chăm cho cháu từng miếng ăn giấc ngủ. Và để từ đó trong cháu vỡ òa cảm xúc thương yêu bà vô tận:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” .
Để rồi sau đó, biết bao kỉ niệm ùa về trong lòng nhà thơ, đó là những kỉ niệm mà tác giả chẳng thể quên. Về một nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng biết bao người dân Việt Nam:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Cái cay ấy không chỉ là mùi khói, mà cái cay ấy còn là những giọt nước mắt thương xót cho những nỗi cơ cực, vất vả mà bà phải trải qua, là giọt nước mắt tri ân với tấm lòng bà dành cho cháu. Khi mà rất nhiều người chết đói, thì bà vẫn kiên cường, tần tảo sớm hôm, cho cháu củ khoai, mót từng củ sắn, dành trọn miếng ăn cho đứa cháu vượt qua cơn đói cồn cào vẫn lần sâu trong tâm chí tác giả. Cái đói ghê rợn ấy, mà giờ chỉ cần nghĩ lại sống mũi cháu đã cay. Nhưng chỉ cần có bà thì mọi giông bão ngoài kia bà cũng chở che để vượt qua, bảo vệ cho cháu.
Tám năm xa cha mẹ, cũng là tám năm bà bên cháu bảo ban, nuôi dạy cháu nên người:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Bà đã trở thành người cha, người mẹ dạy cháu khôn lớn, nên người. Cấu trúc “ba-cháu” cho thấy sự gắn bó khăng khít giữa. Câu thơ mà thực như là lời kể lời giãi bày của tác giả, nhưng cũng chỉ cần có vậy thôi đã nói lên tấm lòng, sự tận tụy của bà đối với cháu. Nếu không có bà ở bên có lẽ cũng sẽ không có cháu thành công, nên người của thời điểm hiện tại. Tác giả đã dồn hết lòng kính yêu, sự tôn trọng dành cho người bà của mình.
Khổ thơ tiếp theo đã vẽ lên khung cảnh chiến tranh trở nên khủng khiếp hơn, khi giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, để trơ trọi lại chỉ là những mảnh tro tàn. Nhưng bà vẫn vô cùng kiên cường, bà sợ các con công tác ngoài chiến tuyến lo lắng, bà còn dặn trước cháu:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên” .
những lời dặn dò ấy đã nói lên hết tấm lòng hi sinh cao cả của bà. Không chỉ chăm lo, bảo ban cháu, bà còn nhóm lên trong cháu những tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Khổ thơ với điệp từ nhóm vang lên bốn lần, đã tạo nên một khung cảnh thiêng liêng, ấm cúng và đầy tình yêu thương. Bếp lửa ấy dạy cháu biết chia sẻ, yêu thương những người xung quanh, bếp lửa ấy giúp cháu sống có mơ ước, khát vọng, vun đắp mơ ước cho cháu. Cũng bởi vậy, mà Bằng Việt phải tốt lên : “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa” . để khẳng định ý nghĩa vai trò của bếp lửa, hay chính của bà đối với cuộc đời mình. Để rồi ngọn lửa của hơi ấm tình thương theo cháu đi muôn ngả, giúp cháu vươn đến thành công trong bước đường tương lai. Dù đã đi xa, đến những nơi đẹp đẽ, cuộc sống sung túc nhưng cháu vẫn không bao giờ quên hình ảnh bà, và vẫn tự nhắc nhở bản thân:
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?
Câu hỏi kết lại bài thơ như một lời nhắc nhở khắc khoải, khiến người đọc lưu giữ lại ấn tượng sâu đậm. Bằng ngôn từ mộc mạc, giản dị và tràn đầy cảm xúc Bằng Việt đã bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với bà. Đồng thời với bài thơ này cũng gửi gắm thông điệp về ý nghĩa tầm quan trọng của gia đình đối với mỗi người. Chúng ta phải nâng niu, trân trọng tình cảm thiêng liêng, cao quý ấy.
4. Nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm trữ tình - Mẫu 4
Một mùa thu đầy lãng mạn và trữ tình đã trở thành đề tài quen thuộc trong những trang thi ca. Hữu Thỉnh – một cây bút trưởng thành từ quân đội, với những lời thơ nhẹ nhàng, sâu lắng đã mang đến cho độc giả bao cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời. Bằng sự sáng tạo, tâm hồn nhạy cảm trước sự vật, sự tinh tế trong cách sử dụng từ ngữ, tác giả đã vẽ nên một bức tranh Sang thu thật quen thuộc và cũng thật mới lạ.
Sang thu với chủ đề về thiên nhiên mùa thu kết hợp cùng cảm hứng chủ đạo là những cảm xúc, những rung động tâm hồn trước cảnh vật thiên nhiên trong những ngày hạ mạt thô sơ giữa thời khói lửa. Bên cạnh đó, là những nét độc đáo trong nghệ thuật, cách sử dụng từ ngữ sáng tạo, hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa để làm nổi bật lên chủ thể trữ tình được nói đến trong bài – mùa thu.
Nếu Xuân Diệu lấy sắc “mơ phai” của lá để báo hiệu thu tới thì Hữu Thỉnh cảm nhận qua “hương ổi”, một mùi hương quen thuộc với miền quê Việt Nam: Bỗng nhận ra hương ổi/ Phả vào trong gió se. Động từ mạnh “phả” mang nghĩa bốc mạnh, tỏa ra thành luồng. Người nghệ sĩ ấy không tả mà chỉ gợi liên tưởng cho người đọc về màu vàng ươm, hương thơm nồng nàn của “hương ổi” tỏa ra những cuối hạ, đầu thu đang phả vào trong “gió se”.
Dấu hiệu tiếp theo là hình ảnh sương thu khi Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như thu đã về. Sương thu đã được nhân hóa qua từ láy tượng hình “chùng chình” diễn tả những bước đi rất thơ, rất chầm chậm để mang mùa thu đến với nước nhà. Chữ “se” hiệp vần với “về” tạo nên những nhịp thơ nhẹ nhàng, thơ mộng, gợi cảm như chính cảm giác mà mùa thu mang đến vậy. Khổ thơ đầu được Hữu Thỉnh cảm nhận ở đa giác quan, thể hiện một cách sáng tạo những đặc trưng, dấu hiệu thu đến nơi quê nhà thanh bình.
Không gian nghệ thuật của bức tranh Sang thu được mở rộng, ở chiều cao, độ rộng của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông qua khổ thơ thứ hai:
Sóng được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây màu hạ
Vắt nửa mình sang thu
Nước sông màu thu trên miền đất Bắc trong xanh, êm đềm, tràn đầy nên mới “dềnh dàng”, nhẹ trôi mãi như đang cố tình chảy chậm lại để được cảm nhận rõ nhất những nét đẹp của thiên nhiên tiết trời khi vào thu. Đối lập với sự “dềnh dàng” ấy là sự “vội vã” của những đàn chim đang bay về phương Nam tránh rét. Những đàn chim ấy khiến ta liên tưởng đến đàn ngỗng trời mà thi sĩ Nguyễn Khuyến đã nhắc đến trong Thu vịnh: Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Dòng sông, cánh chim, đám mây mùa thu đều được nhân hóa. Tác giả sử dụng động từ “vắt” để miêu tả cho mây. Đám mây như được đặt ngang trên bầu trời, buông thõng xuống, gợi sự tinh nghịch, dí dỏm, chủ động. Bốn câu thơ đã khắc họa những biến chuyển tinh tế của cảnh vật từ mùa hè sang mùa thu. Mỗi cảnh vật lại có một đặc trưng riêng nhưng tất cả đã làm cho bức tranh mùa thu thêm thi vị hơn.
Những dư âm của mùa hạ vẫn còn: đó là ánh nắng, là những cơn mưa, là tiếng sấm giòn. Tuy nhiên, tất cả đã trở nên dịu dàng hơn, hiền hòa hơn, không còn bất ngờ và gắt gỏng nữa. Đồng thời, những suy ngẫm của tác giả về cuộc đời cũng được gửi gắm qua những câu từ nhẹ nhàng ấy.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Nắng, mưa, sấm, những hiện tượng của thiên nhiên trong thời điểm giao mùa: mùa hạ - mùa thu được Hữu Thỉnh cảm nhận một cách tinh tế. Các từ ngữ “vẫn còn, đã vơi dần, bớt bất ngờ” gợi tả rất hay thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên nhiên như nắng thu, mưa thu, tiếng sấm buổi đầu thu. Mùa hạ như còn níu giữ. Nắng, mưa, sấm mùa hạ như còn vương vấn hàng cây và đất trời. Nhìn cảnh vật sang thu buổi giao mùa, từ ngoại cảnh ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. “Sấm" và “hàng cây đứng tuổi" là những ẩn dụ tạo nên tính hàm nghĩa của bài " Sang thu”. Nắng, mưa, sấm là những biến động của thiên nhiên, còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay đổi, biến đổi, những khó khăn thử thách trong cuộc đời. Hình ảnh ‘‘hàng cây đứng tuổi'' là một ẩn dụ nói về lớp người đã từng trải, được tôi luyện trong nhiều gian khổ, khó khăn.
Sang thu Là một bài thơ hay của Hữu Thỉnh. Bao cảm xúc dâng đầy trong những vần thơ đẹp, hữu tình, nên thơ. Nhà thơ không sử dụng bút màu vẽ nên những cảnh thu, sắc thu rực rỡ. Chỉ là một số nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều nhưng tác giả đã làm hiện lên cái hồn thu thanh nhẹ, trong sáng, êm đềm, mênh mang... đầy thi vị.
Mời các bạn cùng tải về bản PDF để xem đầy đủ nội dung