Dàn ý bài văn nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm tự sự hoặc tác phẩm kịch

VnDoc.com xin gửi tới các bạn Dàn ý bài văn nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm tự sự hoặc tác phẩm kịch. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây nhé.

Bản quyền tài liệu thuộc về VnDoc, nghiêm cấm hành vi sao chép với mục đích thương mại. 

I. Dàn ý bài văn nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm tự sự hoặc tác phẩm kịch.

Hướng dẫn phân tích để bài

- Dạng bài: Nghị luận

- Yêu cầu: phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm tự sự hoặc tác phẩm kịch

- Khái niệm cần làm rõ

+ “Tác phẩm tự sự”: là phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian, thời gian, qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời con người.

+ “Tác phẩm kịch”: Là những kịch bản văn học mang những đặc điểm thuộc loại tự sự vì nó hướng về cuộc sống khách quan, qua cốt truyện và nhân vật tác giả dựng lên bức tranh xã hội. Những tác phẩm kịch liên quan chặt chẽ đến nghệ thuật sân khấu.

+ “Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm tự sự hoặc tác phẩm kịch” là kiểu bài nghị luận văn học sử dụng lí lẽ và bằng chứng để làm rõ giá trị nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm tự sự (sử thi, truyện kể, truyện ngắn, tiểu thuyết, kí,…) hoặc tác phẩm kịch ( chèo, tuồng, hài kịch, bi kịch,…)

-Yêu cầu đối với kiểu bài

+ Với các tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết hay sử thi thì cần tập trung vào cách xây dựng tình huống truyện, miêu tả nhân vật, sử dụng ngôi kể, điểm nhìn, lời của người kể chuyện, đối thoại, độc thoại nhân vật.,..

+ Với các tác phẩm truyện kí, hồi kí, du kí, nhật kí, phóng sự,… thì cần tập trung vào các yếu tố tạo nên tính xác thực của sự kiện, chi tiết,…góc nhìn, thái độ, quan điểm, cảm xúc và ngôn từ của tác giả

+ Với các tác phẩm kịch (chèo, tuồng, bi kịch, hài kịch, chính kịch) thì cần tập trung vào các yếu tố như mâu thuẫn, xung đột, nhân vật, hành động, lời thoại,…

Dàn ý chung

A. MỞ BÀI

- Dẫn dắt, giới thiệu tác giả, tác phẩm.

- Nêu nội dung khái quát cần phân tích, đánh giá.

B. THÂN BÀI

  1. Khái quát chung về thể loại

- Khái niệm (truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, kịch,….)

- Đặc trưng thể loại:

+ Truyện ngắn, tiểu thuyết, sử thi: tình huống truyện, nghệ thuật miêu tả nhân vật, ngôi kể, điểm nhìn,…

+ Truyện kí, hồi kí, nhật kí, phóng sự,…: tính xác thực của sự kiện, chi tiết,… góc nhìn, thái độ, quan điểm, cảm xúc và ngôn từ của tác giả.

+ Kịch (chèo, tuồng; bi kich, hài kịch, chính kịch): xung đột, mâu thuẫn, hành động,…

  1. Phân tích, đánh giá

2.1. Phân tích, đánh giá nội dung của tác phẩm

- Xác định chủ đề của tác phẩm. (có thể tóm tắt ngắn gọn nội dung tác phẩm)

- Phân tích và đánh giá chủ đề của tác phẩm.

2.2. Phân tích, đánh giá nghệ thuật của tác phẩm

- Phân tích một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm.

- Đánh giá tác dụng của những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật trong việc thể hiện chủ đề của tác phẩm.

C. KẾT BÀI

- Khẳng định lại những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

- Nêu tác động của tác phẩm đối với bản thân hoặc cảm nghĩ sau khi đọc tác phẩm.

II. Bài mẫu nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm kịch

1. Phân tích, đánh giá một tác phẩm kịch mẫu 1

Một trong những cái tên người ta nhắc đến đầu tiên khi nói về văn học Nam Bộ là Đoàn Giỏi. Trong sự nghiệp sáng tác của ông tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” là nổi tiếng nhất. Tác phẩm hội tụ độ chín của cả tư tưởng, cảm xúc và tài năng nghệ thuật của Đoàn Giỏi, cũng là thành tựu đáng mơ ước trong sự nghiệp văn chương của nhà văn. Đoạn trích “Đất rừng phương Nam” thuộc chương 9 trong cuốn tiểu thuyết, cũng đã thể hiện rõ nét những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật.

Tiểu thuyết là thể loại tự sự có dung lượng lớn, thông qua hoàn cảnh, sự việc, nhân vật để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và mang những đặc trưng riêng biệt. Tiểu thuyết tái hiện con người và cuộc sống bằng cái nhìn giàu chất văn xuôi, tạo sự gần gũi, chân thực và khách quan. Thể loại này cũng nhìn đời sống từ góc độ đời tư, phác họa những bức tranh sống động về số phận con người trong đời sống. Nhân vật trong tiểu thuyết cũng là con người nếm trải, thường gặp nhiều vấn đề, thăng trầm, biến đổi trong cuộc sống,... Nam Bộ là một vùng đất non trẻ so với các vùng lãnh thổ khác của đất nước nhưng tiểu thuyết viết về vùng đất này khá thịnh hành trong thời kì đầu của phong trào sáng tác văn học Nam Bộ. Một trong số đó là “Đất rừng phương Nam” - một tác phẩm được đông đảo độc giả biết đến và đón nhận, được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài và còn được dựng thành phim. Cuốn tiểu thuyết đã mang đến cho người đọc rất nhiều trải nghiệm thú vị, hấp dẫn về bối cảnh, con người, tập tục văn hóa của vùng đất Nam Bộ.

Trích đoạn “Đất rừng phương Nam” đã thuật lại hành trình An theo tía nuôi và thằng Cò đi “ăn ong” - đi lấy mật. Không gian được miêu tả là rừng tràm U Minh, vào một buổi sáng bình yên, trong vắt, mát lành. Buổi trưa ở đây tràn đầy ánh nắng, ngất ngây hương thơm hoa tràm, tiếng chim hót líu lo và hàng ngàn con chim bay lên,... Đó là vẻ đẹp đầy chất thơ, hoàng dã của rừng U Minh, đồng thời là sự sống đa dạng, phong phú của các loài sinh vật, mang đến sức hấp dẫn cho độc giả.

Những nhân vật trong trích đoạn cũng hiện lên sinh động. Tía nuôi của An - một người đàn ông với vẻ đẹp mạnh mẽ, vững chãi của một người lao động từng trải, chất phác, can đảm. Từng lời nói và cách cư xử của ông đều thể hiện sự quan tâm và tình yêu thương chân thực dành cho cậu con nuôi. Ông gác kèo cho ong rừng làm tổ rất giỏi, bảo vệ, nâng niu đàn ong và hết mực trân trọng sự sống. Đó là nét đẹp của một người lao động dày dạn kinh nghiệm, yêu thiên nhiên; một người cha mạnh mẽ, nhân hậu và yêu thương con người. Cò - cậu bé hiện thân của núi rừng. Cuộc sống ở nơi rừng núi từ nhỏ giúp cậu có một cơ thể khỏe mạnh, tháo vát, dẻo dai, lại có sự am hiểu và gắn bó sâu sắc với thiên nhiên. Trích đoạn đã để lại ấn tượng sâu đậm về những con người nơi đất rừng phương Nam vừa gần gũi, bình dị, vừa mạnh mẽ, phóng khoáng.

Về nghệ thuật, tác phẩm như những thước phim sống động về thiên nhiên đất rừng phương Nam. Những từ ngữ, câu văn giàu hình ảnh, âm thanh, cảnh sắc như hiện ra sinh động trước mắt độc giả: “Chim hót líu lo. Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất. Gió đưa mùi hương ngọt lan ra, phảng phất khắp rừng. Mấy con kì nhông nằm vươn mình phơi lưng trên gốc cây mục, sắc da lưng luôn luôn biến đổi từ xanh hóa vàng, từ vàng hóa đỏ, từ đỏ hóa tím xanh... Trong tác phẩm, “tôi” là người dẫn truyện, ngôn ngữ dẫn truyện mang đậm chất Nam Bộ. Dù An là cậu bé xuất thân từ thành thị, nhưng hành trình lưu lạc khắp các tỉnh miền Tây Nam Bộ đã dạy cho cậu nhiều điều hay, An đã thực sự hòa nhập với vùng đất và con người miền sông nước với những ngôn ngữ và cả hành động đậm chất Nam Bộ.

Cùng với việc miêu tả thiên nhiên sinh động, tràn đầy sức sống, Đoàn Giỏi đã thể hiện chân thực hình ảnh những con người Nam Bộ với những nét tính cách nổi bật: yêu lao động, yêu thiên nhiên, nhân hậu, tình nghĩa,... Tác phẩm là bức tranh đẹp đẽ về thiên nhiên và con người vùng sông nước, đồng thời cũng thể hiện rõ nét những đặc sắc nghệ thuật, ngòi bút tài năng của nhà văn. Vì lẽ đó, cuốn tiểu thuyết được đánh giá là một trong những cuốn sách viết về thiếu nhi hay nhất của nước ta, được đông đảo bạn đọc đón nhận, yêu thích.

2. Phân tích, đánh giá một tác phẩm kịch mẫu 2

Tác phẩm ngắn “Giang” của nhà văn Bảo Ninh kể về chủ đề chiến tranh. Mặc dù nhẹ nhàng, nhưng nó mang trong mình sự khắc khoải, khiến người đọc suy ngẫm. Đây chính là điểm mạnh của tác phẩm ngắn này.

“Giang” tập trung vào việc gợi lại những kỷ niệm và nhớ về những người trong cuộc chiến. Không giống với cách tiếp cận truyền thống về chiến tranh, tác phẩm này tập trung vào những cảm xúc và kỷ niệm sâu sắc. Chiến tranh đã tách rời những người yêu thương, làm mất đi sự ngọt ngào của tình yêu đôi lứa và không cho phép cuộc gặp gỡ lại. Đó là một hiện thực đầy đau đớn, không kém phần khốc liệt. Với chủ đề sâu sắc như vậy, “Giang” đã thu hút được sự quan tâm của độc giả.

Sự thành công của tác phẩm này không chỉ nằm ở chủ đề mà còn ở cách người kể chuyện tham gia vào câu chuyện. Điều này làm cho câu chuyện trở nên gần gũi hơn, như một lời chia sẻ của người trong cuộc. Mặc dù người kể chuyện chỉ biết một phần nho nhỏ của câu chuyện, nhưng điều này chính là bản chất của cuộc sống – không ai có thể biết trước tất cả.

Tóm lại, “Giang” đã thành công không chỉ nhờ chủ đề mà còn nhờ cách tác giả xây dựng câu chuyện. Đây là một tác phẩm giúp tôi hiểu rõ hơn về cuộc sống và số phận của con người trong thời kỳ chiến tranh.

3. Phân tích, đánh giá một tác phẩm kịch mẫu 3

Câu chuyện ngụ ngôn kể về năm thầy bói đến xem con voi. Họ quyết định cùng đóng góp tiền để biếu người quản voi và xem xem con voi có hình dạng như thế nào.

Mỗi người thầy xem một phần khác nhau, và sau cùng, họ tranh cãi với nhau. Không ai thừa nhận ý kiến của người kia: một người sờ vòi và nói rằng voi giống con đỉa; người khác sờ ngà và cho rằng nó giống cái đòn càn; một người khác sờ tai và nói nó giống cái quạt thóc; người kia sờ chân và nói rằng voi to như một cái cột đình; cuối cùng, người thứ năm sờ đuôi và nói rằng voi như một cái chổi sể cùn. Cuối cùng, sau cuộc cãi vã không thể giải quyết, năm người thầy đánh nhau dữ dội, chảy máu. Cách tiếp cận “xem voi” như vậy thật kỳ quặc và đầy những sai lầm cơ bản. Bài học rút ra từ câu chuyện này rất hữu ích.

Vì họ là những thầy bói mù, họ không thể nhìn bằng mắt mà chỉ có thể “sờ” bằng tay. Con người có năm giác quan, nhưng những người thầy này bị mất đi giác quan quan trọng nhất trong việc “xem”, đó là thị giác. Nhưng cuối cùng, họ chỉ có thể sử dụng giác quan duy nhất để làm công việc đó: xúc giác. Điều này dẫn đến việc họ “xem” voi bằng cách sờ! Và do con voi quá lớn, nên tất cả điều đó dẫn đến việc mỗi thầy chỉ có thể sờ một phần nhỏ của nó, không thể nhận biết được toàn diện về đối tượng. Vì vậy, cùng một con voi, những ý kiến của các thầy không giống nhau.

Thái độ của các thầy không phải là tự tin mà chủ quan đến mức cực đoan: mỗi người đều cho rằng mình đúng nhất, người sau đó phản bác ý kiến của người trước để khẳng định quan điểm của mình, không ai chịu ai, và điều này dẫn đến các cãi vã, cuối cùng là một cuộc đánh nhau dữ dội, máu chảy.

Rõ ràng, sai lầm của các thầy bói nằm ở chỗ: thay vì chỉ xem một phần của con voi, họ nên xem toàn bộ con voi thì mới có thể đưa ra đúng đắn. Dù vòi, chân, tai, ngà, đuôi đều là của con voi, nhưng chỉ riêng lẻ một phần, chưa phải là toàn bộ con voi.

Quan trọng hơn, nếu các thầy lắng nghe ý kiến của nhau, hỏi ý kiến của người quản lý, kết hợp với sự mô tả và nhận thức của mỗi người, họ sẽ hiểu rõ hơn về con voi!

Câu chuyện ngụ ngôn của người xưa mang lại cho người đọc những bài học quý giá trong cuộc sống. Trong việc xem xét một sự vật hoặc sự việc, ta cần kết hợp cả những giác quan khác nhau như thính giác, thị giác… Nhưng nếu không có điều kiện sử dụng đầy đủ các giác quan, thì phải xem xét một cách toàn diện, không lấy một phần nhỏ để đại diện cho toàn bộ. Đặc biệt, không nên quá chủ quan khi xem xét, đánh giá một sự vật hay sự việc, mà cần phải lắng nghe ý kiến của người khác, kết hợp với phân tích, đánh giá và tổng hợp của bản thân.

4. Phân tích, đánh giá một tác phẩm kịch mẫu 4

Các loại hình nghệ thuật truyền thống luôn mang sức hút rất riêng đối với nhiều thế hệ. Có thể kể đến chèo, tuồng, hát xẩm,... Chúng là phương tiện hiệu quả để đưa con người đến gần hơn với văn học. Rất nhiều bài học đạo đức giá trị cũng từ đó được truyền tải một cách sống động và hiệu quả hơn. Một trong số những vở chèo nổi tiếng nhất phải kể đến là "Thị Mầu lên chùa" (trích "Quan Âm Thị Kính"). Kịch bản chèo kinh điển này đã đem đến cho người đọc cái nhìn, sự đánh giá về người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

Đầu tiên, có thể thấy tác phẩm đã hướng đến đề cao sự trong sạch, chuẩn mực của người phụ nữ, đồng thời phê phán thói lẳng lơ, phóng túng, đi ngược lại những giá trị đạo đức tốt đẹp xã hội đề ra. Có thể thấy rất rõ tư tưởng đó qua hình tượng hai nhân vật Kính Tâm và Thị Mầu.

Thị Mầu vốn là con gái phú ông - một xuất thân có thể gọi là cao quý thời đó. Thế nhưng, nàng ta lại đại diện cho sự nổi loạn, đi ngược với giá trị đạo đức tốt đẹp mà xã hội đề ra. Ở nơi đình, chùa thiêng liêng, Mầu vẫn buông được lời chọc ghẹo, ve vãn, tán tỉnh chú tiểu. Thậm chí, thị còn xông ra nắm tay để bộc lộ tình cảm với Kính Tâm, khiến Kính Tâm phải chạy. Ta cũng dễ nhận ra được quan niệm tình yêu rất "lệch chuẩn", phóng khoáng của Mầu qua câu hát trêu ghẹo: "Thầy như táo rụng sân đình/Em như gái rở, đi rình của chùa", "Ấy mấy thầy tiểu ơi!/Song đứng trước cửa chùa/...Trúc xinh trúc mọc sân đình/Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!". Những chi tiết ấy đã vẽ nên một hình tượng nhân vật nữ mới lạ, nổi loạn trong xã hội phong kiến khắt khe lúc bấy giờ.

Trái lại, Kính Tâm vốn là con gái của một nông dân nghèo, được giả vào gia đình khá giả. Tuy nhiên biến cố xảy ra khiến nàng Thị Kính phải giả trai, xin vào chùa tu hành. Với vẻ đẹp thanh tú, điềm đạm, "đẹp như sao băng", nàng đã thu hút được sự chú ý của con gái phú ông. Trước những lời ong bướm cùng hành động sỗ sàng của Thị Mầu, Kính Tâm vẫn một mực giữ phép tắc. Lời nói của nàng chuẩn chỉnh, hành động thì đường hoàng, ngay thẳng. Tất cả đã tạo nên hình tượng một con người nề nếp, gia giáo, đại diện cho những người phụ nữ đức hạnh.

Qua sự đối lập trong tính cách, hành động đó, ta thấy được rõ ràng thái độ khen - chê mà tác giả hướng tới nhân vật. Sự trái ngược trong cái nhìn về đào thương và đào lẳng cũng góp phần đẩy câu chuyện phía sau lên cao trào. Thị Mầu chính là đại diện cho người phụ nữ nổi loạn còn Thị Kính đại diện cho người phụ nữ đức hạnh, thanh cao. Càng phê phán, chê trách Thị Mầu bao nhiêu, ta lại càng thêm đồng cảm và trân quý Kính Tâm bấy nhiêu.

Tác phẩm thành công không chỉ về nội dung chủ đề mà còn về cả mặt nghệ thuật. Với những kịch bản chèo, nhân vật chủ yếu sẽ được khắc họa qua lời thoại và hành động. Ở đoạn trích "Thị Mầu lên chùa", ta thấy chủ yếu là lời thoại của Thị Mầu. Nó thể hiện sự sỗ sàng, không kiêng nể của người phụ nữ phóng túng, lẳng lơ. Trong khi lời của Kính Tâm xuất hiện rất ít, thưa thớt, mang đến cảm giác điềm tĩnh, mực thước, thậm chí có chút né tránh. Cùng với tiếng đế được chèn xen kẽ, người đọc dễ dàng cảm nhận rõ hơn về những điều phải - trái, đúng - sai đang diễn ra. Tác phẩm đã sử dụng chất liệu ca dao thân thuộc, kết hợp cùng những biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ. Nhờ đó, nó lại càng dễ dàng đi vào trong trí nhớ của người đọc.

Với những yếu tố nghệ thuật đặc sắc như vậy, đoạn trích đã làm nổi bật lên mâu thuẫn hay chính là sự khác biệt giữa hai nhân vật nữ. Cái nhìn, sự đánh giá của tác giả cũng như của chính người đọc được thể hiện hết sức rõ ràng qua rất nhiều tiếng đế. Nhờ vậy mà tác phẩm kịch trở nên thu hút, gây tò mò hơn cho độc giả ở mọi thế hệ. Và đến khi vở chèo được diễn xướng, đưa lên sân khấu, nó sẽ càng trở nên hấp dẫn hơn đối với người xem. Tất cả đã góp phần giúp nâng cao giá trị tác phẩm, làm giàu và làm đẹp cho kho tàng nghệ thuật truyền thống của dân tộc.

Đoạn trích "Thị Mầu lên chùa" tuy chỉ là một phần của tác phẩm gốc "Quan Âm Thị Kính" nhưng đã thể hiện rất rõ quan điểm, thái độ của dân gian về người phụ nữ. Ngày nay, xã hội đã phát triển và hội nhập với thế giới. Quan niệm về tình yêu của con người cũng đã thay đổi, không còn quá khắt khe như trong thời phong kiến. Tuy vậy ta vẫn cần giữ cho bản thân những đức tính tốt đẹp, nghiêm chỉnh, chuẩn mực của người phụ nữ phương Đông. Ta có thể thoải mái thể hiện mình, bày tỏ tình yêu, sự thích thú, chỉ cần nó không đi ngược lại các quy chuẩn đạo đức chung mà cộng đồng đề ra.

Đánh giá bài viết
13 47.429
Sắp xếp theo

    Văn mẫu lớp 10 CTST

    Xem thêm