Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến

VnDoc.com xin gửi tới các bạn bài viết Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm trữ tình: bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng), bao gồm dàn ý chung hướng dẫn cách làm, bài văn mẫu tham khảo. Mời các bạn cùng tham khảo.

I. Dàn ý chung cho kiểu bài phân tích, đánh giá tác phẩm trữ tình

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm trữ tình (tên tác phẩm, thể loại, tác giả,…)

- Nêu nội dung khái quát cần phân tích, đánh giá

2. Thân bài

a. Phân tích, đánh giá chủ đề

- Xác định chủ đề của tác phẩm.

- Phân tích, đánh giá chủ đề của tác phẩm.

b. Phân tích, đánh giá hình thức nghệ thuật

- Phân tích một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm (phù hợp với đặc trưng của thơ/văn xuôi trữ tình)

- Đánh giá tác dụng của những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật trong việc thể hiện chủ đề của tác phẩm.

3. Kết bài

- Khẳng định lại một cách khái quát những đặc sắc về nghệ thuật và nét độc đáo về chủ đề của tác phẩm.

- Nêu tác động của tác phẩm đối với bản thân hoặc cảm nghĩ sau khi đọc, thưởng thức tác phẩm.

II. Phân tích, đánh giá bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng)

Phân tích, đánh giá khổ thơ thứ nhất trong bài thơ Tây Tiến

Những cuộc chiến tranh phủi đầy bom đạn rồi cũng sẽ qua đi, nhưng kí ức về một thời khốc liệt, gian khổ và hi sinh sẽ mãi mãi đọng lại trong tâm thức những người con đất Việt từng trải qua. Rất nhiều nhà thơ, nghệ sĩ đã tái hiện lại những cuộc chiến vào trang viết của mình, trong đó có Quang Dũng với thi phẩm nổi bật nhất: Tây Tiến. Bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về những năm tháng hành quân trên núi rừng Việt Bắc cùng binh đoàn Tây Tiến. Khổ thơ đầu là nỗi nhớ về chặng đường hành quân gian khổ, khốc liệt nơi núi rừng Tây Bắc, thông qua đó làm nổi bật hình ảnh người chiến sĩ lạc quan, can trường.

Hai câu thơ đầu là nỗi nhớ hướng về sông Mã và rừng núi:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Sông Mã, Tây Tiến và rừng núi là đích đến của nỗi nhớ trong tâm hồn nhà thơ - chiến sĩ. Đó là nỗi nhớ “chơi vơi” - lửng lơ, bồng bềnh, không đầu không cuối, vừa mênh mang, sâu lắng. Đó là nỗi nhớ “chơi vơi” giữa hai bờ hư - ảo. Điệp từ nhớ kết hợp với từ láy “chơi vơi” diễn đạt nỗi nhớ tha thiết, cồn cào đến cháy bỏng.

Nhớ về chặng đường hành quân là nhớ về núi rừng Tây Bắc hoang sơ, hiểm trở những cũng rất đỗi nên thơ, trữ tình:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông là những miền đất xa xôi, hiểm trở đã in đậm dấu chân những người lính. Tác giả đã dùng những từ láy có sức tạo hình cao: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” diễn tả chân thực độ cao, sâu của dốc núi, vực thẳm Tây Bắc. Người đọc như cảm giác được đường dốc quanh co, gợi cảm giác rợn người, như nghe được những tiếng thở nặng nhọc của người chiến sĩ. Hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” làm nổi bật tư thế làm chủ, đồng thời cũng thể hiện sự ngang tàn, có chút hóm hỉnh của người lính. Câu thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” với cách ngắt nhịp 4/3 khiến câu thơ như bị bẻ đôi, vừa vút lên cao vừa đổ xuống thăm thẳm. Thiên nhiên được mở ra theo chiều không gian và thời gian, tất cả đều hoang sơ, bí hiểm, thách thức con người. Tiếp nối những gian nan của núi cao, vực thẳm là những cơn mưa rừng buốt lạnh: “mưa xa khơi”. Sau những cơn mưa mờ mịt, mối đe dọa mà miền Tây Bắc mang đến còn là những dữ dội của núi rừng, những tiếng gầm thét của thác nước và “cọp trêu người”:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

Miền Tây hoang dại với núi cao vực thẳm, còn có những thác nước gầm thét không ngơi, những cọp, beo với bước chân rình rập đầy đe dọa.

Giữa những gian nguy, hiểm trở, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với những vất vả, gian nan:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Cuộc hành quân “dãi dầu” khiến người lính không tránh khỏi những mỏi mên và “không bước nữa” - là phút dừng chân nghỉ ngơi, hay là giấc ngủ dài của kiếp người đã cống hiến hết mình cho Tổ quốc. Hình ảnh người chiến sĩ “gục lên súng mũ” phảng phất nét buồn nhưng không hề bi lụy. Người lính “bỏ quên đời” đầy hiên ngang, kiêu bạc. Có thể họ không thể bước nữa, nhưng đến hơi thở cuối cùng vẫn giữ trọn vẹn lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Các anh đã trở thành người anh hùng sống mãi trong lòng dân tộc.

Thiên nhiên Tây Bắc còn mang những vẻ đẹp lãng mạn đầy chất thơ:

“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Hình ảnh “hoa về” không chỉ là hoa, sương mà còn mang hình dáng của con người. Đó là những ngọn đuốc soi đường hành quân của những người lính, nhìn từ xa như những bông hoa chập chờn, lung linh. “Hoa” còn là hương hoa rừng thơm ngát, mộc mạc, tỏa hương trong đêm. “Hoa” cũng có thể là ẩn dụ cho những người lính - những chàng trai với lí tưởng cao đẹp dành trọn cho Tổ quốc.

Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” gợi khoảng không gian mênh mang, một cảm giác bâng khuâng. Cùng với hình ảnh những ngôi nhà của người dân bản làng Pha Luông, cơn mưa rừng đã khiến cho những người lính không tránh khỏi cảm giác nhớ nhà thiết tha. Nhà thơ lựa chọn điểm nhìn từ xa để hướng về bản làng trong làn mưa nhẹ, những mái nhà dân yêu thương - nơi các anh sẽ đến, đem xương máu để bảo về, giữ gìn.

Song hành cùng sự khắc nghiệt, hoang sơ, Tây Bắc còn đọng lại trong kí ức người lính những điều ấm áp, chan chứa tình quân dân với hương nếp xôi:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Câu thơ đậm đà tình quân dân và hương vị bản mường với “cơm lên khói”“mùa em thơm nếp xôi”. Hai tiếng “mùa em” chứa biết bao tình thương, nỗi nhớ. Sau những chặng đường hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi cao vực sâu, thú dữ rình rập, phút dừng chân bên bản làng với bát cơm mới thơm ngào ngạt cùng làn khói bếp ấm áp đã đem đến cho người chiến sĩ những cảm giác thanh bình hiếm hoi thật quý giá. Giống như âm thanh tiếng gà trưa trong bài thơ của Xuân Quỳnh, hương thơm bát xôi nếp đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là kỉ niệm khó quên về tình quân dân ấm áp trong cuộc đời người lính.

Mười bốn câu thơ trên đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên hùng tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh người chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm tự hào, kiêu hãnh. Đoạn thơ để lại dấu ấn vô cùng đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công nổi bật là sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng hiện thực và lãng mạn Cách mạng của Quang Dũng. Khổ thơ cũng có sự sáng tạo tài hoa về hình ảnh, ngô ngữ, giọng điệu thơ. Hình ảnh thơ chân thực, chọn lọc những nét tiêu biểu, đặc trưng cho vùng núi Tây Bắc và hành trình hành quân gian khổ của những người chiến sĩ Tây Tiến. Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng sáng tạo kết hợp cùng hệ thống từ láy giàu giá trị biểu đạt,... Tất cả kết hợp tạo thành chỉnh thể đoạn thơ đặc sắc, chân thực.

Bằng ngòi bút lãng mạn, hào hoa, nhà thơ đã khắc họa chân thực chặng đường hành quân vừa hiểm trở, gian nan vừa thơ mộng, trữ tình, thông qua đó làm nổi bật hình ảnh những người chiến binh Tây Tiến lạc quan, can trường, hết lòng vì sự nghiệp của Tổ Quốc. Trích đoạn thơ không chỉ là kết tinh giá trị nội dung mà còn có sự kết hợp của hình thức nghệ thuật đặc sắc.

Phân tích, đánh giá khổ thơ thứ nhất trong bài thơ Tây Tiến

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

Có lẽ vì vậy mà từ lúc nào không hay, mảnh đất lạ Tây Bắc đã trở thành nơi để nhớ, để thương yêu sâu sắc trong lòng người nghệ sĩ đa tài Quang Dũng. Nỗi nhớ ấy đã được ông gửi gắm vào thi phẩm Tây Tiến. Nhớ về Tây Bắc, nhà thơ không chỉ nhớ đến chặng đường hành quân hiểm trở, khốc liệt mình đã từng cùng binh đoàn Tây Tiến vượt qua, nhớ về những người đồng đội anh dũng mà còn nhớ đến những kỉ niệm ấm áp tình quân dân: đêm hội liên hoan doanh trại và một buổi chiều sương chia ly.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Những câu thơ đầy ánh sáng, âm thanh, đối lập hoàn toàn với những con đường hành quân gian lao, nguy hiểm, với những thiếu thốn, nhọc nhằn... Bên trong bộ quân phục xanh nghiêm nghị của nhà binh là những trái tim nghệ sĩ đầy hào hoa, lãng tử.

Doanh trại” được biết là nơi đóng quân của binh đoàn Tây Tiến. Đây cũng là nơi đang diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân. Dường như đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và như đã góp vui tinh thần với bộ đội Tây Tiến. Có thể nói “bừng” là nhãn tự của câu thơ, như một “nét vẽ có thần”. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, và cũng như là của lửa trại sáng bừng lên (ánh sáng đột ngột của lửa, của đuốc, xua đi cái tăm tối, lạnh lẽo của núi rừng). Nó cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng, rộn rã. Như vậy, từ “bừng” không chỉ đem đến ấn tượng về ánh sáng mà còn thể hiện niềm vui rạo rực trong lòng người. Đuốc hoa” là hoa chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn, gợi không khí ấm cúng, gợi niềm vui lan tỏa, đó còn chính là niềm hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ. Hình ảnh này xuất hiện trong đêm vui liên hoan của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ kính, vừa hiện đại, vừa thiêng liêng lại vừa ấm áp tình quân dân gắn bó, keo sơn.

Từ “kìa” trong câu thơ “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” thể hiện sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của chàng lính trẻ Tây Tiến khi nhìn thấy các “em”, các nàng đến dự hội đuốc hoa trong bộ xiêm áo xinh đẹp. Đó là cảm giác rất chân thực trong một dịp vui hiếm hoi sau bao ngày hành quân giữa rừng già với núi cao, dốc thẳm, sương dày, với mưa rừng và thú dữ. Có thể khẳng định chính trong không khí của âm nhạc, cũng như các “man điệu” của miền đất lạ ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó còn chính là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ xa xôi này. Mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều như tan biến. Và để thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên Chăn xây hồn thơ”.

Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”

Đất Châu Mộc buổi chiều sương năm ấy đã trở thành điểm hẹn của nỗi nhớ - xứ sở lắm sương nhiều khói, sương phủ kín lòng người, như tấm áo choàng bao trùm từng con sông, ngọn suối, sườn đèo. Có lẽ sương khói của thời gian không đủ để xóa nhòa đi mà ngược lại sương khói Châu Mộc đã cắt hình rõ nét trong kí ức. Câu hỏi “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ” càng làm lay động lòng người. Hoa lau thường mọc ở ven sông, triền núi, những nơi vắng người qua lại. Trong những ngày tháng hành quân giữa núi rừng, lau như linh hồn của Tây Bắc, chia sẻ mọi vui buồn đời lính. Nay người lính đi xa, ngàn lau vẫn ở lại giữa mênh mông đất trời.

Giữa cảnh sông nước mênh mang vẫn thấp thoáng đâu đây bóng dáng con người. Hình ảnh con người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường: “Có nhớ dáng người trên độc mộc”. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn và rất dài. Dường như dáng người trên độc mộc ở đây là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Những cánh hoa rừng không hề bị vùi dập mà “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Câu thơ không chỉ gợi tả những cánh hoa rừng mà còn như miêu tả sự duyên dáng, tình tứ của những cô gái miền sơn cước. Dù hiểu theo nghĩa nào, ý thơ cũng trở nên thật đẹp.

Bằng ngòi bút tài hoa, cảm hứng lãng mãn, trữ tình, nhà thơ đã tái hiện lại chân thực những kỉ niệm ấm áp tình quân dân, những kí ức ấy sẽ mãi mãi lắng đọng, in sâu trong tâm trí những người chiến sĩ Tây Tiến. Những hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, là những gì đặc trưng nhất của miền núi Tây Bắc đã được nhà thơ chọn lọc: xiêm áo, man điệu, hồn lau, độc mộc,… Đồng thời, trong khổ thơ có sự biến đổi linh hoạt của giọng điệu, khi rộn ràng, náo nức với đêm liên hoan, khi nhẹ nhàng, trầm lắng trong không khí chia tay,… Có thể nói đoạn thơ trên là đoạn thơ trữ tình mơ mộng nhất bài thơ, thể hiện sự cảm nhận và diễn tả tinh tế, tài hoa vẻ đẹp thiên nhiên và tình người, đồng thời cũng rất mực hồn nhiên làm say mê lòng người đọc và sau đó là một khoảng trời riêng dành cho nỗi nhớ.

Phân tích, đánh giá bài thơ Tây Tiến mẫu 1

Quang Dũng là một nghệ sĩ vô cùng tài năng, không chỉ được biết đến với khả năng viết thơ hay mà còn có khả năng viết văn, soạn nhạc, vẽ tranh. Là một nhà thơ mang hồn thơ lãng mạn, bay bổng nên hầu như các tác phẩm của ông đều giàu chất nhạc, chất họa. Trong đó, phải kể đến bài thơ Tây Tiến do ông sáng tác năm 1948 sau khi dời đơn vị một thời gian. Bài thơ không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên miền Tây vừa thơ mộng, vừa hùng vĩ, những người lính kiên cường, bất khuất mà còn là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng đối với nơi đây. Bên cạnh đó, bài thơ còn có sức hấp dẫn với người đọc bởi những giá trị nghệ thuật vô cùng độc đáo.

Tây Tiến là tên gọi của binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào và bảo vệ biên giới Việt Lào. Địa bàn hoạt động khá rộng, từ Mai Châu, Châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng về phía Tây tỉnh Thanh Hóa. Lính Tây Tiến chủ yếu là người Hà Nội, trẻ trung, yêu nước. Quang Dũng làm đại đội trưởng ở đó một thời gian rồi chuyển sang đơn vị khác. Có lẽ cũng vì sống và chiến đấu đã lâu cùng đồng đội trên mảnh đất ấy nên mọi thứ đều vẫn in đậm và khắc sâu trong tâm trí nhà thơ. Hoài niệm của tác giả đã thôi thúc và từ đó viết nên những vần thơ này.

Mở đầu bài thơ, dải đất miền Tây hiện lên rất hoang vu, hùng vĩ và không kém phần hiểm trở.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sông Mã là con sông quen thuộc của núi rừng Tây Bắc. Quang Dũng nhắc đến con sông này ngay từ câu đầu tiên đã cho thấy nỗi nhớ nơi đây dường như trải dài khắp con sông Mã. Kết hợp với cụm từ "Tây Tiến ơi" cho thấy một cảm xúc vô cùng thân thương, trìu mến. Tiếp theo đó là các địa danh " Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông " lần lượt hiện lên một cách cụ thể, chính xác tạo nên một bức tranh tổng thể về vùng đất miền Tây giúp người đọc có thể hình dung được địa thế qua từng câu thơ.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Tây Tiến dẫn con người lên đến độ cao, vào chốn âm u của biên giới. Ấn tượng đầu tiên về núi rừng Tây Bắc chính là sương, sương muối cùng sương lạnh, sương mù che phủ khắp nơi, che lấp cả đoàn quân đang vội vã hành quân. Những con dốc dựng đứng giữa trời chứa đầy những nguy hiểm nhưng đoàn quân vẫn rất kiên cường vượt qua. Mũ súng trên vai của những người lính được nhân hóa tạo thành hình ảnh "súng ngửi trời" vừa diễn tả độ cao ngất ngưởng, hoang sơ, vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính.

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Tiếng thác nước dữ dội hòa với tiếng hú man rợ, ghê gớm của thú rừng mang âm hưởng nơi hoang dại, đầy rẫy khó khăn, trắc trở. Quả là một nơi "rừng thiêng nước độc". Bên cạnh đó, khung cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông vô cùng huyền ảo. Hình ảnh "hoa đong đưa" trên dòng nước lũ vừa là hình ảnh tả thực vừa là hình ảnh ẩn dụ gợi tả vẻ đẹp các cô gái Tây Bắc. Người dân miền Tây hiện lên thật giản dị, họ gắn bó với cách mạng và chở che cho những người lính Tây Tiến.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Có lẽ hóa chất bom đạn của kẻ thù đã làm cho mái tóc vốn đẹp của người lính không còn được như xưa nữa, nhưng cũng có thể là người lính chủ động bỏ mái tóc để thuận tiện cho đời sống sinh hoạt. Màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của lá cây, nhưng đó cũng được hiểu là khuôn mặt xanh xao của người lính khi bị sốt rét rừng. Sự khó khăn, gian khổ của người lính Tây Tiến trong hoàn cảnh chiến tranh đã tôi luyện cho họ trở nên gai góc và mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Chúng ta có thể hình dung rõ ràng đôi mắt của họ theo dõi kẻ thù đầy sự căm giận và quyết tâm. Tuy nhiên mạnh mẽ là thế nhưng đôi lúc những người lính cũng đầy sự mơ mộng. Họ nhớ về những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha, thanh lịch.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu, anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Sự mất mát, hy sinh không phải chỉ một người mà là rất nhiều người. Hình ảnh "áo bào" chính là chiếc áo lính các anh đang mặc cùng với "về đất" là cách nói giảm nói tránh gợi sự hy sinh của người lính. Hình ảnh cuối cùng "sông Mã gầm lên khúc độc hành" chính là sự thành kính đưa tiễn các anh. Có thể thấy, người lính xem cái chết rất nhẹ nhàng, thanh thản, với họ cái chết không phải sự ra đi mà là sự trở về với đất mẹ yêu thương.

Sự kết hợp giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực của Quang Dũng đã giúp cho chúng ta hình dung được bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vô cùng hùng vĩ, thơ mộng cùng với hình ảnh người lính khỏe khoắn, mạnh mẽ. Ngôn ngữ sử dụng độc đáo, vừa có nét cổ kính, vừa mới lạ hấp dẫn. Giọng thơ thay đổi theo chính dòng cảm xúc phức tạp của nhà thơ, khi thì tha thiết bồi hồi với nỗi nhớ nhung vời vợi, khi thì lắng đọng bâng khuâng, bi hùng với những hình ảnh đồng đội một thời cùng chiến đấu và những mất mát, đau thương của những người ngã xuống vì đất nước. Qua đó, ta có thể thấy được vẻ đẹp riêng biệt, độc đáo trong ngòi bút tài hoa của Quang Dũng đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn không thể bàn cãi cho tác phẩm và có chỗ đứng trong lòng người đọc.

Phân tích, đánh giá bài thơ Tây Tiến mẫu 2

Chiến tranh, người lính luôn là đề tài quen thuộc đối với các nghệ sĩ tài hoa. Ta thấy hình ảnh người lính trong tuyệt thơ “Đồng chí” của Chính Hữu hay “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Nhưng ấn tượng và chân thực là hình ảnh người lính trong “Tây Tiến” của Quang Dũng đã khắc họa hình tượng người lính bộ đội cụ Hồ độc đáo thời kháng chiến chống Pháp. Đặc biệt bài thơ có sức hấp dẫn bởi sự kết hợp tài tình của giá trị nghệ thuật và nội dung.

Bài thơ cũng là nỗi niềm riêng của nhà thơ về những năm tháng chiến tranh nơi chiến trường xưa. Bài thơ mở đầu với lời gọi tha thiết:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.

Quang Dũng cùng những chàng trai Hà Thành xếp bút nghiên lên đường ra chiến trường gian khổ theo tiếng gọi của Tổ quốc. Câu thơ là tiếng gọi tha thiết về quá khứ năm xưa đã cùng nhau trải qua. Sông Mã là nơi in dấu bao cuộc chiến tranh đầy máu lửa cũng như để lại bao hoài niệm xa vắng của tác giả về quá khứ.

Nỗi nhớ được khắc họa là nỗi nhớ “chơi vơi”, nghe rất nhẹ nhưng lại làm cho nỗi nhớ không thể vơi bớt. Quang Dũng đã cụ thể hóa nỗi nhớ da diết ấy bằng những hình ảnh trong ký ức về nơi đã xảy ra cuộc chiến tranh ác liệt này:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Với những địa danh cụ thể như “Sài Khao”, “Mường Lát” gợi nhắc về ngày tháng chiến tranh với giọng điệu rất mượt mà cùng hình ảnh rất thơ mộng nhẹ nhàng khiến đọc giả cảm nhận được tất cả sự sâu lắng. Đoàn quân từng bước đi trong sương mù dày đặc với cái lạnh như xuyên sâu vào tim. Đó quả là một khung cảnh thơ mộng giữa sự khốc liệt của chiến tranh khiến nhiều người ngưỡng mộ. Nó bắt nguồn từ sự cảm nhận sâu sắc, tinh tế về thiên nhiên và núi rừng thăm thẳm Tây Tiến.

Giữa khung cảnh thiên nhiên trữ tình, thơ mộng những hình ảnh bao la, hùng vĩ của thiên nhiên, đất trời được phác họa qua ngòi bút tài hoa của tác giả khiến đọc giả cảm nhận được cuộc sống cũng như thời gian chiến đấu vô cùng gian khổ của bộ đội. Các từ ngữ như “quanh co”, “sâu” lột tả sự gập ghềnh, khó khăn và trùng điệp của núi rừng. Người đọc có cảm giác như đoàn quân phải vượt qua rất nhiều ngọn núi, đối mặt với biết bao hiểm nguy mới giành được chiến thắng.

Nổi bật trên nền đó là một hình ảnh vô cùng lãng mạn hiện lên “súng ngửi trời”. Hình ảnh “súng ngửi trời” có tính nghệ thuật cao, gợi một khung cảnh hoàn toàn trái ngược với cuộc chiến ngoài kia. Chiến trường khốc liệt cùng thiên nhiên hiểm trở là những thử thách buộc đoàn quân Tây Tiến phải vượt qua để giành chiến thắng trước kẻ thù. Dù trong bối cảnh mưa bom bão đạn, đoàn lính vẫn luôn lạc quan. Và khi đọc đến câu thơ cuối như lắng lại bởi hình ảnh: Nhà ai Pha Luông mưa bay xa.

Câu thơ gợi lên cơn mưa nhẹ rơi, giăng phủ giữa đất trời. Màn mưa ấy che lối những con đường đoàn quân đi qua càng tô đậm hơn sự tàn khốc khốc liệt của thiên nhiên :

Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Thiên nhiên qua ngòi bút của Quang Dũng đầy sự khắc nghiệt, gian khổ, khó khăn, hiểm nguy. Có rất nhiều đồng đội phải bỏ mình ở đây, tuổi thanh xuân với những ước mơ trở nên dang dở. Sự trầm lắng của câu thơ tạo nên sự tôn kính đối với những người lính đã khuất.

Nối tiếp dòng cảm xúc ấy là kí ức về những năm tháng êm đềm, trìu mến nơi chiến trường. Đó là khoảng ký ức không thể quên:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Hình ảnh những mái nhà lợp tranh trong buổi chiều đầy khói trắng tỏa ra hình thành một lớp trắng xóa trên đỉnh núi. Những thước phim ấy cuộn trào mãi trong tâm hồn những người lính Tây Tiến càng rõ nét, chân thực:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Một nét vẽ táo bạo về người lính Tây Tiến trong hoàn cảnh gian khổ, khắc nghiệt của thời tiết đã khiến người chàng trai Hà thành trở nên gan dạ. Dù “không mọc tóc” và mang nét dữ tợn khiến kẻ thù phải nể sợ.

Chiến tranh tàn khốc ấy vẫn không làm người lính ngừng lãng mạn, mơ mộng, khiến họ luôn nhớ mong về bóng hình Dáng kiềm thơm. Đó cũng chính là động lực thúc đẩy họ tiếp tục chiến đấu, vượt qua mọi khắc nghiệt của chiến tranh, và cả những mất mát hi sinh phải đối diện:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Đây có lẽ là đoạn thơ hào bi tráng nhất trong bài thơ về hình ảnh người lính đã anh dũng hi sinh để hóa thân bất tử cùng Tổ quốc. Tuổi trẻ của họ bây giờ sẽ là mãi mãi, nhưng hy sinh cho đất nước thì không bao giờ hối tiếc. Họ chỉ là những con người vô danh, nhưng lại có thể sống mãi trong lòng người ở lại. Họ mất đi nhưng lời hứa hòa bình sẽ vẫn ở lại, nó được gửi gắm vào những người lính để tiếp tục chiến đấu và cống hiến.

Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng với sự ấn tượng về nội dung sâu sắc cùng nghệ thuật độc đáo đã thực sự đã gieo vào lòng người bao cảm xúc, nó không chỉ là sự khâm phục, ngưỡng mộ mà còn là cảm giác ngậm ngùi, thương tiệc trước sự hi sinh của những người lính trong chiến tranh. Tây Tiến là một khúc ca hùng tráng, nhưng sâu lắng về vẻ đẹp hào hùng, hào hoa để lại những ấn tượng riêng.

Phân tích, đánh giá bài thơ Tây Tiến mẫu 3

Bài thơ Tây Tiến đã khắc họa được vẻ hùng vĩ, nguyên sơ nhưng cũng rất thơ mộng của núi rừng thiên nhiên Tây Bắc. Qua đó bộc lộ nỗi nhớ da diết, sâu lắng của nhà thơ với đoàn quân Tây Tiến: về những chặng đường hành quân, thiếu thốn, đầy hi sinh mất mát mà vẫn có muôn vàn những kỉ niệm đẹp, ấm áp; và có cả những lúc trầm lắng suy tư về sự mất mát anh hùng… Tác giả khắc họa thành công hình ảnh người lính Tây Tiến với nét đẹp hào hùng, hào hoa giữa vẻ thơ mộng của thiên nhiên miền Tây Bắc. Qua đó người đọc thấy tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó tha thiết với đoàn binh Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng. Chất bi tráng là vẻ đẹp ấn tượng của hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng

Giá trị nghệ thuật của bài thơ thể hiện ở những dòng cảm xúc mãnh liệt, thiết tha. Ngôn từ giàu chất tạo hình, tạo nhạc cùng với nhịp thơ, âm điệu biến hóa sinh động. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giữa bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn. Các từ Hán Việt vừa gợi lên âm hưởng cổ kính vừa thể hiện sự triết lí sâu sắc của tác giả khi nhắc đến dấu ấn đời lính chân thực, hấp dẫn.

Giọng thơ được biến chuyển theo dòng cảm xúc, lúc tha thiết bồi hồi khi nói về nỗi nhớ về quá khứ, lúc lại rạo rực bừng lên với đêm hội hoa lửa, lú lại trầm lắng trong nỗi bâng khuâng, lúc lại bi hùng gắn với hình ảnh những người lính một thời chiến đấu và hi sinh.

Phân tích, đánh giá bài thơ Tây Tiến mẫu 4

Trong chiều dài của lịch sử văn học dân tộc, có biết bao tác phẩm văn học đã đến với người đọc như một cơn gió nhẹ thoảng qua, chẳng để lại chút hương nào. Nhưng cũng có những tác phẩm đọc lên câu chữ cứ như in dấu ấn mãi trong lòng độc giả. Tây Tiến cũng là một trong những “thanh nam châm thu hút mọi thế hệ” như thế. Bài thơ có sức hấp dẫn kì lạ bởi những giá trị nghệ thuật độc đáo và giá trị nội dung sâu sắc.

Quang Dũng bước vào làng thơ cách mạng với bài thơ Tây Tiến. Như đã có sẵn một môi duyên ràng buộc, bài thơ ấy đã gắn bó với tên tuổi của tác giả suốt bao năm tháng. Tác phẩm là một trong những tiếng thơ tâm huyết nhất của đời thơ Quang Dũng và cũng là một “kiệt tác” của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp.

Nói đến sức hấp dẫn của một tác phẩm là nói đến cái hay, cái đẹp riêng, cái độc đáo của tác phẩm đó. Và chính những giá trị nội dung và nghệ thuật là những thước đo tinh tế, chính xác cho sức hấp dẫn tác phẩm. Xuân Diệu đã từng định nghĩa: “Câu thơ hay là phải hay cả xác lẫn hồn”. Sức hấp dẫn của bài thơ phải được tạo nên từ sự hài hòa giữa nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Hai yếu tố ấy sẽ gắn kết với nhau để tạo nên một chỉnh thể văn học hoàn chỉnh mang giá trị thẩm mĩ cao. Bài thơ Tây Tiến có sức hấp dẫn mạnh mẽ trong lòng người cũng bởi tác phẩm có sự hài hòa, thống nhất giữa tư tưởng, nội dung và hình thức biểu hiện. Bài thơ không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên miền Tây vừa thơ mộng, thi vị, vừa hùng vĩ, hiểm trở hay tạc nên tượng đài người lính Tây Tiến mà còn thể hiện những tình cảm sâu kín trong lòng thi sĩ. Đó là tiếng thơ được bật lên từ một nỗi nhớ Tây Tiến da diết và xuất phát từ sự gắn bó máu thịt với một miền đất đã từng in dấu ấn những kỉ niệm chiến đấu của nhà thơ. Nội dung tư tưởng sâu sắc ấy đã được truyền tải qua một nghệ thuật đặc sắc với sự hài hòa của chất nhạc, chất thơ, chất họa, sự “tương giao” của bút pháp sử thi và cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, giàu tính nhạc. Chính vẻ đẹp riêng, độc đáo trên đã làm nên sức hấp dẫn lâu bền của bài thơ Tây Tiến trong lòng người đọc.

Tây Tiến được viết khi nhà thơ đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian. Quang Dũng cũng là một thành viên trong đơn vị ấy. Đoàn quân Tây Tiến có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào bảo vệ dải đất miền Tây. Có lẽ cũng vì đã sống và chiến đấu rất lâu trên mảnh đất ấy nên vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây vẫn in đậm, khắc sâu trong tâm khảm nhà thơ. Vì thế khi viết bài này, hình ảnh thiên nhiên đã trở về trong hoài niệm của tác giả với vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng.

Dải đất miền Tây vẫn hoang vu, hùng vĩ, hiểm trở đã hiện lên rất chân thực trong bài thơ. Những câu thơ gọi tên các địa danh: “Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát” đã vẽ nên một không gian rất cụ thể, chính xác. Những dòng thơ như muốn khắc họa những nét khái quát về vùng đất miền Tây. Người đọc có thể hình dung được địa thế ấy qua từng câu thơ:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Hình ảnh “sương lấp” đầy dữ dội, gây ấn tượng mạnh. Đó không phải là màn sương mong manh “chùng chình qua ngõ” của mùa thu như trong thơ Hữu Thỉnh mà đây là màn sương dày, phủ “lấp” không gian. Hình ảnh miền Tây hiện lên trong câu thơ thật mịt mù và dường như cái mệt mỏi của đoàn quân cũng lẫn vào sương. Câu thơ vừa tả cảnh, vừa gợi nên sự gian khó của đoàn quân Tây Tiến trong cuộc vạn lí trường chinh, vẻ đẹp hùng vĩ của miền Tây còn được cụ thể hóa trong những vần thơ:

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Khổ thơ là một bằng chứng cho hiện tượng “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc”. Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ nên một bức tranh hoành tráng, diễn tả sự hiểm trở, dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây. Một loạt tính từ giàu giá trị tạo hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đã diễn tả thành công sự hiểm trở và độ cao ngất trời của núi rừng Tây Bắc. Chỉ hai từ “thăm thẳm” nhưng đã vẽ nên trong tâm trí người đọc một hình ảnh rõ nét gợi một cảm giác choáng ngợp. Không phải là “cao chót vót” mà là “thăm thẳm”. Từ' “chót vót” chỉ gọi được độ cao, còn từ “thăm thẳm” lại tả được độ cao đến mịt mù như vượt khỏi tầm mắt. Đặc biệt, hình ảnh “súng ngửi trời” được nhà thơ sử dụng rất tài tình, giàu chất thơ. Câu thơ vừa tôn thêm độ cao vừa gợi vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Họ mang tầm vóc sánh cùng đất trời, tâm hồn họ luôn yêu đời, tinh nghịch. Dòng thơ viết về sự gian khổ, vất vả, nguy hiểm nhưng không mang chút bi lụy nào. Đoạn thơ có nhiều thanh trắc khiến âm điệu câu thơ gân guốc, rắn rỏi. Đọc câu thơ, ta thấy như chính mình đang được trải nghiệm sự gồ ghề, hiểm nguy của địa thế. Nhịp thơ 4/3 kết hợp với điệp từ “dốc”, “ngàn” càng tô đậm độ cao, chiều sâu ngút ngàn của núi rừng miền Tây. Nhưng từ đỉnh cao “ngàn thước” ấy, tâm hồn người lính lại mở ra, phóng tầm mắt ra xa giữa ngút ngàn đất trời:

Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi Câu thơ toàn thanh bằng kết hợp với vần “ơi” ở cuối câu tạo cảm giác mênh mông, dàn trải lại vừa gợi lên một màn mưa sương mờ ảo. Từ “xa khơi” được lạ hóa rất tài tình. Nhà thơ đã dùng không gian biên đê gợi tả không gian rừng núi. Trước mắt người lính, cảnh được bao bọc trong một màn sương đẹp như một bức tranh lụa phương Đông mờ ảo, thanh nhã.

Đọc bốn câu thơ trên, ta cũng chợt nghĩ tới trường ca Từ đêm mười chín của Khương Hữu Dụng:

Đây cao vời vợi dốc Ông Mạnh
Đây ầm ầm đổ thác không tên.

Nhưng có lẽ những vần thơ nói về sự gian truân, hiểm nguy ấy không dữ dội, mạnh mẽ như trong Tây Tiến. Bức tranh miền Tây của Quang Dũng thật hùng vĩ, hiểm trở và cũng thật nên thơ

Bức tranh thiên nhiên miền Tây còn khiến người đọc ngỡ ngàng trước vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng:

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Câu thơ với nhiều thanh bằng tạo âm điệu nhẹ nhàng, lan tỏa gợi nét riêng của miền Tây. Cảnh nửa thực, nửa hư mờ ảo. Từ “hoa về” được lạ hóa gợi nhiều liên tưởng: hoa nở hay ai đem hoa về? Hình ảnh “đêm hơi” cứ chập chờn lay động giữa các lớp nghĩa. Đó là đêm sương, đêm khỏi hay đêm hơi? Cảnh chơi vơi như sương, như hồn người lâng lâng. Câu thơ đẹp, huyền ảo, lung linh khiến cái “mỏi” của đoàn quân ở câu trên như tan biến. Nếu “thơ là nơi biểu hiện đầy đủ nhất, sâu sắc nhất ma lực kì ảo của ngôn ngữ” thì câu thơ này cũng đúng như vậy!

Không chỉ vẽ cảnh núi rừng hiểm trở, Quang Dũng còn khắc họa cảnh sông nước thơ mộng gắn liền với kỉ niệm chia tay:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ.

Câu thơ cũng hư ảo như chính cảnh vật thiên nhiên. Từ “chiều sương” gợi không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màn sương. Khung cảnh thiên nhiên tĩnh lặng như phảng phất một nỗi buồn man mác. Con sông ấy như chảy từ thời tiền sử, như mang nỗi niềm cổ tích của người xưa. Hình ảnh cây lau được đặt trong không gian xa vắng, mờ khuất “nẻo bến bờ” gây một ấn tượng đẹp trong lòng người. Hồn lau ấy phải chăng chính là điệu hồn người lính Tây Tiên hóa thân vào vương lại nơi đây hay đó là tình cảm tha thiết của đồng bào miền Tây gửi theo người lính Tây Tiến? Câu thơ khiến ta chợt nhớ đến ‘'hồn lau” - hồn thu trong thơ Chế Lan Viên:

Ngàn lau cười trời nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng.

(Lau mùa thu)

Phải chăng hồn lau đã gọi thức hồn thi sĩ khi tác giả giao cảm với cảnh?

Qua những ý thơ đẹp, các thi sĩ đã bất tử hóa một loài hoa trong lòng độc giả. Quang Dũng đã vẽ nên một bức tranh sông nước miền Tây lặng lẽ, u tịch. Đó chính là vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc mà sau này Nguyễn Tuân đã từng tô đậm trong Người lái đò Sông Đà. Cảnh đẹp vì thế mà có sức hấp dẫn trong lòng người.

Nhớ về Tây Tiến, trong hồi ức của Quang Dũng không chỉ ghi dấu bức tranh thiên nhiên đẹp mà còn in đậm vẻ đẹp của con người miền Tây. Đó là nét đẹp kì ảo của người thiếu nữ trong đêm liên hoan:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hôn thơ.

Đêm liên hoan văn nghệ hiện cùng vẻ đẹp của người thiếu nữ vừa hư vừa thực. Câu thơ lâng lâng dìu dặt như tiếng khèn đưa lòng người về một nơi rất xa. “Bừng lên” có cái gì như đột ngột, ánh sáng như chợt nhói lên làm cho cả đoạn thơ bừng sáng. Dường như trước khoảnh khắc “bừng lên” ấy, cả không gian núi rừng còn hiện một màn đêm mịt mù. Hai chữ “kìa em” thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên xen lẫn với niềm thiết tha, trìu mến. Đó là ánh mắt người lính Tây Tiến đang say mê trước vẻ đẹp của người thiếu nữ. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật và con người đều như ngả nghiêng, rạo rực, ngất ngây. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng Tây Bắc bất ngờ hiện ra trong những bộ “xiêm áo” lộng lẫy, vừa e thẹn, vừa tình tứ, “nàng e ấp” trong những vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ đã làm hồn người lính Tây Tiến và cả hồn độc giả ngất ngây. Đó phải chăng cũng là biểu hiện của tình quân dân thắm thiết, “như cá với nước”? Tất cả làm thành “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. “Xây hồn thơ” và xây luôn cả nỗi nhớ trong lòng người, để rồi người lính khi chia tay vẫn bâng khuâng thốt lên “nhớ ơi” và người đọc còn cảm nhận được mã sức hấp dẫn của bài thơ Tây Tiến.

Nhưng nổi bật nhất trong bức tranh Tây Tiến là hình ảnh người lính. Họ chính là trọng tâm của nỗi nhớ, của sức hấp dẫn trong bài thơ này. Người lính Tây Tiến hiện lên với hai vẻ đẹp hài hòa: vừa hào hùng, vừa hào hoa.

Tượng đài người lính Tây Tiến trong bài thơ hiện hữu một vẻ đẹp hào hùng. Vẻ đẹp ấy được nhà thơ khám phá và tái hiện trong tương quan với thiên nhiên hùng vĩ. Trong thơ cổ, con người thường hiện lên thật nhỏ bé, bất lực trước thiên nhiên rộng lớn:

Lom khom dưới núi tiều chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Nhưng trong Tây Tiến, hình ảnh người lính lại hiện lên trong tư thế là chủ thể trữ tình. Trên cái nền dữ dội của thiên nhiên, người lính xuất hiện với vẻ đẹp thật hào hùng đầy chất bi tráng. Người lính đã vượt qua tất cả: sự hiểm nguy của núi rừng, thú dữ:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Câu thơ nói về những hiểm nguy với giọng điệu ngang tàng, coi thường, xóa đi sư bi lụy của cảm xúc ở câu trên. “Cọp trêu người” có một cái gì vừa nghịch rất lính vừa rất ngang tàng. Đó là vẽ đẹp của người lính Tây Tiến. Trên suốt hành trình của bài thơ, vẻ đẹp ấy cứ dần dần tỏa sáng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng.

Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể về người lính. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài. Chúng hòa quyện với nhau để tạo nên vẻ đẹp bi tráng - cái thần thái chung của bức tượng đài. Từ “đoàn binh” gợi âm hưởng hào hùng mang màu sắc sử thi như gợi lên được cả khí thế xung trận mạnh mẽ của đoàn quân Tây Tiến. Chi tiết “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà chứa đựng dấu ấn của một giai đoạn lịch sử khi kháng chiến còn nhiều gian khổ, thiếu thốn “một viên pha uống được mười người” (Hùng Thanh). Cái vẻ xanh xao, bệnh tật ấy hiện lên qua cái nhìn của Quang Dũng lại toát lên cái oai phong, dữ dằn của những con hổ nơi rừng thiêng. Người đọc chợt nhớ tới những vần thơ của Chính Hữu:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Hay những hình ảnh thật cụ thể trong thơ Tố Hữu:
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ.

Đó đều là hiện thực trần trụi của cuộc kháng chiến, nhưng trong thơ Quang Dũng, người đọc còn khám phá vẻ đẹp hào hùng của những người lính:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Tư thế lên đường của người lính đã in đậm vẻ đẹp hào hùng đến kì lạ. Từ “rải rác” gợi cảnh hãi hùng và thực tế là đã có bao người nằm xuống dọc đường chinh chiến - và đó là thực tế hiển hiện mà những người lính phải đối mặt. Câu thơ như thấp thoáng một cảm xúc xót xa, bi thương. Na-zim Hích-mét - nhà thơ cộng sản Thổ Nhĩ Kì - có nói: “Người ta có quyền buồn (...) nhưng không có quyền bi quan”. Đúng vậy, đọc thơ Quang Dũng, ta cũng thấy buồn nhưng không cảm thấy sự bi quan, yếu đuối. Bởi nhà thơ hiểu người lính ra đi với tư thế của một chiến sĩ anh hùng. Câu thơ vang lên như một lời thề mang khẩu khí của một bậc trượng phu và cái hùng tâm của nam nhi thời loạn. Đọc dòng thơ, người đọc thấy được thái độ đương đầu với mọi thử thách của người lính:

Tuổi xanh chẳng tiếc sá chi bạc đầu.

Vẻ đẹp kiêu hùng của người lính Tây Tiến được đẩy lên đến cực điểm khi nhà thơ nói về cái chết, sự hi sinh:

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Cách nói giảm “về đất” thể hiện thái độ đón nhận cái chết một cách nhẹ nhàng, thanh thản của người lính. Nghệ thuật nhân hóa khiến sông Mã hiện lên thật sống động, thật có hồn: sông Mã như gầm lên khúc bi phân làm vang dậy núi rừng. Dường như vẻ đẹp hào hùng của người lính không chỉ được tạc vào thơ mà còn được hòa vào cảnh vật núi rừng.

Làm nên vẻ đẹp hoàn chỉnh cho hình tượng người lính Tây Tiến phải nhắc tới vẻ đẹp hào hoa của người lính, vẻ đẹp ấy được khắc họa trong sự giao cảm với cảnh vật và con người miền Tây. Và đặc biệt là qua nỗi nhớ rất lãng mạn:

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Nếu trong thơ Nguyễn Đình Thi, người ra đi luôn đem theo đôi mắt người yêu thì người lính Tây Tiến - những học sinh thủ đô lại mang theo mình một bóng dáng kiều thơm. Tâm hồn thoáng chút thơ mộng, lãng mạn phong tình ấy đã làm nên vẻ đẹp hào hoa cho hình tượng người lính. Nỗi nhớ của người lính Tây Tiến khác hẳn với nỗi nhớ mộc mạc, bình dị, “quê mùa” của Hồng Nguyên:

ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.
Hay nỗi nhớ giản dị, đời thường trong thơ Chính Hữu:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Tựu trung lại, tất cả những vần thơ ấy đều bộc lộ tâm trạng, tình cảm, tình yêu của người lính.

Với con mắt mới, cái nhìn mới, cách thể hiện mới, Quang Dũng đã tạc lại hoàn chỉnh vẻ đẹp của người lính. Tình cảm riêng tư là động lực giúp người lính vượt qua mọi gian khổ, thử thách. Hình ảnh người lính Tây Tiến có sự hài hòa giữa bản chất chiến sĩ và thi sĩ. Chính điều mới mẻ ấy đã tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ Tây Tiến để thi phẩm ấy: "vẫn sống muôn đời với núi sông". (Giang Nam)

Đọc bài thơ, độc giả như được đứng giữa khung trời miền Tây, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng bởi những nét phác họa của nhà thơ về con người, thiên nhiên đều rất gợi cảm, chân thực. Để có được nét vẽ rất thực ấy, nhà thơ phải có sự “xúc động hồn thơ” với những tình cảm rất chân thật. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng của một người mà đã nói hộ tình cảm của mọi người, của những con người đã một thời kháng chiến oanh liệt. Đó là sự gắn bó máu thịt, là tình yêu đất nước sâu sắc của mỗi người. Trong tác phẩm, Quang Dũng đã phát huy triệt để, có hiệu quả nghệ thuật tương phản, bút pháp sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bài thơ còn minh chứng cho lời nhận định của Sóng Hồng “Thơ là thơ, đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng”. Quang Dũng cũng tiêu biểu cho khả năng chiếm lĩnh, sáng tạo những hiện thực còn bỏ ngỏ của người nghệ sĩ. Tây Tiến là một trong những bài thơ hiếm hoi tiên phong trong việc khám phá miền đất vùng phía Tây xa xôi. Bài thơ đã tìm được lối đi riêng để đi vào trái tim bạn đọc bao thế hệ! Qua bài thơ, những thế hệ cầm bút đi sau cũng có một bài học quý giá: Tài năng phải gắn với tâm hồn thỉ người nghệ sĩ mới có được những tác phẩm bất diệt.

Cái chết chỉ quỳ gối trước nghệ thuật chân chính. Bài thơ Tây Tiến cũng là một tác phẩm chân chính như thế. Với một sức hấp dẫn riêng, thi phẩm này sẽ mãi làm bâng khuâng mơ mộng ngàn thế hệ mai sau.

Phân tích, đánh giá bài thơ Tây Tiến mẫu 5

Những vần thơ hào hoa vang lên đi vào lòng người trở thành những lời cảm xúc ngọt ngào đi cùng năm tháng. Và vẫn còn đó, tây tiến vang lên như một khúc hành ca của những người lính. Nó là một trong những bài thơ hay đầy cảm xúc, những vần thơ ấy vang lên vẫn giống như một khúc ca đi cùng năm tháng, Tây Tiến đã trở thành một hiện tượng trong thơ Quang Dũng, cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Những câu thơ mang một vẻ hào hoa, mang một phong cách hồn hậu,phóng khoáng. Không những thế qua bài thơ Tây Tiến chúng ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những người lính Tây Tiến và về một thời hào hùng đã qua đi.

Một thời đạn bom đó đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham gia chiến đấu. Những câu thơ mở đầu giống như những lời của năm tháng vọng về, từ những năm tháng chiến đấu gian nan,những con người ấy qua tiếng vọng thời gian trở nên sống động và chân thực hơn bao giờ hết. Những cơn bệnh những buổi liên hoan những đêm nằm gác " gửi mộng qua biên giới" và có cả những sự mơ mộng của những người lính trẻ tuổi và đầy nhiệt thành. Càng đọc chúng ta nhưng càng đọc mới càng thấy hiện thực khắc nghiệt, mới thấy hết những gieo neo, khổ ải của đoàn quân Tây Tiến.

Giữa cái gay gắt những hình ảnh của người lính hiện ra vừa hồn nhiên vừa đáng để chúng ta trân trọng. Vốn xuất thân là những chàng trai đất Hà thành trong thời gian chiến tranh nên khoác áo lính thay áo của những nam sinh viên tới chiến trường chiến đấu, dù ra đi chiến đấu, dấn thân vào gian khổ, họ vẫn luôn mang và giữ một tâm hồn hào hoa, thanh lịch, đa tình, một tầm hồn đầy thơ mộng.

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi"

Những khó khăn của những người lính tây tiến lại trở nên đẹp đẽ và nên thơ trong những vần thơ của Quang Dũng. Đó là những gian nan mà những người lính phải trải qua, chính những gian nan đó lại càng tô đậm vẻ đẹp bi tráng của họ... những triền dốc khiến người ta mới nhìn đã thấy ngại, hai từ thăm thẳm trong câu thơ khiến độ hun hút của những con dốc lại càng trở nên nguy hiểm biết bao nhiêu.chưa dừng lại đó, những hình ảnh hun hút, đầu súng của những người lính đang đùa giỡn với mây trời

"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời"

Những gian nan khó khăn ấy mở nguồn cho hình ảnh đẹp vi tráng của những người lính ấy. Cũng có những lúc sự hồn nhiên của người lính được thể hiện qua những giây phút mệt mỏi, gục lên ba lô và ngủ,bỏ lại sau đó những khó khăn vất vả, những hiểm nguy của kháng chiến.Hình ảnh người lính gục lên súng mũ dãi dầu không bước nữa là một hình ảnh đẹp. Câu thơ nhằm nói giảm đi cái chết, cái hi sinh của những người chiến sĩ ấy. Đó là một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia là bi nhưng trong cái bi ấy ta lại thấy một cái tráng lệ vô cùng. Họ có thể hi sinh nhưng trong một tư thế rất nhẹ nhõm, " bỏ quên đời" những kí ức về những lúc dừng chân mệt mỏi, những kỉ niệm với những buổi chiều và ban đêm với những con thú dữ gầm rú lên, nhớ những đêm mùa nếp xôi ở Mai Châu.

Không chỉ khó khăn trên chiến trường chiến đấu, những câu chuyện về bệnh tật và nơi khí hậu khắc nghiệt cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng. Không một chút giấu giếm, sự thiếu thốn hay những căn bệnh như sốt rét, khiến cả binh đoàn bị rụng hết tóc, quang Dũng đã khai thác một vẻ đẹp hết sức chân thực của người lính Tây tiến, dù khó khăn khắc nghiệt nhưng tinh thần chiến đấu chưa bao giờ kết thúc. Hình ảnh quân xanh màu lá là những hình ảnh gầy gò ốm nhưng không hề yếu mà vẫn dữ oai hùm. Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm thù giặc của những anh hùng tây tiến. Những ánh mắt hiện lên lửa hy vọng và tinh thần chiến đấu oai hùng, không một chút phó mặc cho số phận, cũng có thể đó chính là sự thức trắng không ngủ được vì lo cho biên giới hoặc mở mắt để nhớ những bóng kiều thơm kia..Đó sự hi sinh của những người chiến sĩ ấy, họ phần lớn là những trí thức Hà Thánh ngày đêm nghĩ đến quê nhà với những bóng hồng mà không bao giờ mờ nhạt trong lòng họ...

Với việc sử dụng biện pháp đối, nhà thơ Quang Dũng đã vừa khắc họa được vẻ đẹp hào hùng, kiêu dũng, vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và đa cảm của người chiến sĩ Tây Tiến. Chúng ta có thể thấy núi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, đi trong sự hùng vĩ ấy, sự hoang sơ ấy, và những người lính Tây Tiến như được truyền thêm sức mạnh, vững bước vượt qua những gian khổ, hy sinh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...

Những người lính tây tiến không sợ hi sinh bản thân họ, nếu có thể họ không tiếc hi sinh thân mình để bảo vệ những người thân yêu mình ở hậu phương. Họ ra đi mà vẫn nhớ, vẫn mang theo những tình riêng mơ mộng, khi họ hi sinh thì "áo bào thay chiếu anh về đất.. Đất mẹ chính là nơi các anh sinh ra cũng là nơi mà các anh về, đất mẹ che chở cho các anh mãi mãi yên bình với giấc ngủ ngàn thu của mình. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã hiện ra, gầm lên khúc hành ca, như kính cẩn tiễn đưa linh hồn các anh, không phải là sự chơi vơi nữa mà là tiếng gầm, nó càng tạo nên chất tráng cho bài thơ.

Lấy cảm hứng từ cuộc sống chân thực mà chính bản thân tác giả trải qua, những chàng trai, những học sinh, sinh viên thành thị khoác áo lính. Thêm một lần nữa Quang Dũng đã đưa chúng ta về với tây Tiến với những kí ức vừa lãng mạn vừa bi tráng. Dưới ngòi bút hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây Tiến vừa hồn hậu, giản dị lại hết sức khí phách.Qua đây ta cũng thấy được những vẻ đẹp bi tráng của những chiến binh tây tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng thêm yêu hơn những con người vì quê hương đất nước.

-------------------------------------------------------

Trên đây là bài viết Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm trữ tình: bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng). Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 10 CTST tập 2 .

Đánh giá bài viết
4 16.026
Sắp xếp theo

    Văn mẫu lớp 10 CTST

    Xem thêm