Soạn bài Việt Bắc - Phần 2: Tác phẩm

Soạn bài Việt Bắc - Phần 2: Tác phẩm được VnDoc sưu tầm và đăng tải, tóm tắt nội dung, giá trị nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu), từ đó giúp các bạn học sinh lớp 12 đọc hiểu tác phẩm dễ dàng hơn, chuẩn bị tốt cho các bài học trên lớp. Mời các bạn cùng tham khảo.

Khái quát chung về bài thơ Việt Bắc

Hoàn cảnh sáng tác Việt Bắc

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954), Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10 - 1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc, nơi đã che chở, nuôi dưỡng cho cách mạng trong suốt những năm trường kì chống thực dân Pháp trở về Hà Nội.

Nhân sự kiện có tính chất thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu - một cán bộ của Đảng, một nhà thơ lớn của cách mạng đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10 - 1954. Bài thơ đã có vinh dự được lấy làm tên chung cho cả tập thơ “Việt Bắc”, một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.

3. Nội dung, nghệ thuật bài thơ Việt Bắc

a. Nội dung bài thơ Việt Bắc

Việt Bắc là khúc ca hùng tráng và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trong niềm tự hào dân tộc…

Việt Bắc là khúc hát ân tình chung của những người cách mạng, những người kháng chiến, của cả dân tộc qua tiếng lòng của nhà thơ. Bên cạnh đó, bài thơ còn cất lên âm hưởng anh hùng ca vang dội, đưa ta về với một thời kì lịch sử hào hùng, trọng đại của đất nước.

b. Nghệ thuật bài thơ Việt Bắc

Nghệ thuật biểu hiện của đoạn thơ đậm đà tính dân tộc: thể thơ lục bát truyền thống.

Ngôn ngữ bằng lời ăn tiếng nói hằng ngày giản dị, mộc mạc, giàu hình ảnh.

Sử dụng nhuần nhuyễn phép trùng điệp của văn học dân gian: mình về, có nhớ, nhớ sao...

Soạn bài: Việt Bắc (Tố Hữu) - Phần 2: Tác phẩm (ngắn gọn)

Câu 1:

• Hoàn cảnh sáng tác bài thơ:

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954), Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hoà bình được lập lại. Tháng 10/1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện có tính chất thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10/1954.

• Sắc thái tâm trạng của nhân vật trữ tình:

Người đi và kẻ ở đều bâng khuâng, luyến tiếc không muốn rời, họ cùng nhau nhớ về khoảng thời gian gắn bó với những kỉ niệm thiết tha. Những ngày tháng gian khổ nhưng tươi đẹp đó làm họ không thể nào quên.

• Lối đối đáp của nhân vật trữ tình:

Cách xưng hô “mình - ta” trong ca dao, dân ca cổ → gợi sự thân thương, trìu mến.

Câu 2: Qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình, vẻ đẹp của cảnh và người Việt Bắc được hiện lên:

• Cảnh Việt Bắc: mưa nguồn suối lũ, mây mù bao phủ, những ngôi nhà ẩn hiện sau đám lau, trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, bản làng chìm trong làn khói, rừng nứa bờ tre, rừng xanh hoa chuối đỏ tươi vào mùa đông, mơ nở trắng rừng vào mùa xuân, rừng phách vàng vào mùa hè, ánh trăng hòa bình mùa thu. → Cảnh Việt Bắc mang nhiều sắc thái khác nhau nhưng tràn đầy sức sống.

• Người Việt Bắc: cùng bộ đội chia sẻ những khó khăn thiếu thốn về vật chất trong cuộc chiến (bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng), người mẹ địu con lên rẫy bẻ ngô, lớp bình dân học vụ, người lên rừng vào mùa đông, người đan nón vào mùa xuân, cô gái hái măng vào mùa hạ, tiếng hát ân tình thủy chung vào mùa thu, những ngày tháng nhân dân giúp bộ đội chiến đấu (dân công đỏ đuốc từng đoàn…).

Câu 3:

Khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong chiến đấu, vai trò của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến được khắc họa: Rừng cây núi đá cùng chung sức đánh kẻ thù (rừng che bộ đội, rừng vây quân thù; núi giăng thành lũy sắt dày). Con đường hành quân đêm đêm rầm rập rung trời đất, cả thiên nhiên dang tay bao bọc, che chở cho bộ đội. Những ngày nắng vàng khi cán bộ luận bàn việc công, thiên nhiên cổ vũ con người.

Câu 4: Nhận xét về nghệ thuật đậm đà tính dân tộc:

  • Cách xưng hô “mình - ta” theo lối hát quan họ cổ.
  • Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc.
  • Nhịp thơ uyển chuyển, linh hoạt, cân xứng, kết hợp hài hòa, dễ nhớ, thấm sâu vào tâm tư.
  • Ngôn ngữ bằng lời ăn tiếng nói hằng ngày giản dị, mộc mạc, giàu hình ảnh.

Soạn bài: Việt Bắc (Tố Hữu) - Phần 2: Tác phẩm mẫu 1

Bố cục

  • Phần 1 (20 câu đầu): Lời nhắn nhủ của người ở lại đối với người ra đi
  • Phần 2 (còn lại): Lời của người ra đi với nỗi nhớ Việt Bắc

1.1. Câu 1 (trang 114, sgk Ngữ văn 12, tập 1)

Hoàn cảnh sáng tác bài thơ: sau chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết (tháng 7/1954), tháng 10/1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng, Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô. Nhân sự kiện có tình lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc

Phân tích sắc thái tâm trạng, lối đối đáp của nhân vật trữ tình:

  • Sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình” – “ta”, đây là cặp đại từ thường dùng để chỉ mối quan hệ trai gái, quan hệ vợ chồng, từ đó gợi tình cảm yêu thương, gắn bó
  • Tác giả đã hình dung cuộc chia tay của trung ương Đảng với nhân dân như cuộc chia tay của một đôi trai gái đầy bịn rịn, nhớ thương, lưu luyến

1.2. Câu 2 (trang 114, sgk Ngữ văn 12, tập 1)

Qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình, vẻ đẹp của cảnh và người Việt Bắc hiện lên:

- Thiên nhiên Việt Bắc:

  • Trăng lên đầu núi: ánh trăng thanh bình giữa núi rừng
  • Nắng chiều lưng nương
  • Bản khói cùng sương: những bản làng chìm trong sương
  • Hình ảnh bếp lửa: sớm hôm bếp lửa người thương đi về
  • Cảnh rừng nứa, bờ tre,...
  • Cảnh thiên nhiên Việt Bắc qua bốn mùa với những nét đặc trưng riêng

- Nhớ về con người Việt Bắc:

  • Nhớ người Việt Bắc trong nghèo khó, vất vả mà vẫn tình nghĩa, thủy chung, gắn bó với cách mạng
  • Nhớ những kỉ niệm đầy ắp vui tươi, ấm áp giữa bộ đội và người dân Việt Bắc: lớp học i tờ, những giờ liên hoan
  • Nhớ hình ảnh những con người mang vẻ đẹp mộc mạc, giản dị của người lao động: “người mẹ”, “cô em gái”.

1.3. Câu 3 (trang 114, sgk Ngữ văn 12, tập 1)

- Khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến:

  • Cả núi rừng Việt Bắc cùng tham gia kháng chiến: Nhớ khi giặc đến giặc lùng/Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
  • Hình ảnh đoàn quân kháng chiến: Quân đi điệp điệp trùng trùng/Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay, Dân công đỏ đuốc tùng đoàn,....
  • Những chiến công ở Việt Bắc, những chiến thắng với niềm vui phơi phới: Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về/Vui từ Đồng Tháp, An Khê/Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

- Vai trò của Việt Bắc trong kháng chiến:

  • Là quê hương cách mạng, đầu não, cái nôi của cuộc kháng chiến chống Pháp
  • Là nơi khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta.
  • Nơi con người đặt niềm tin và hi vọng về ngày mai chiến thắng, hòa bình

1.4. Câu 4 (trang 114, sgk Ngữ văn 12, tập 1)

Bài thơ Việt Bắc thể hiện tính dân tộc đậm đà:

  • Sử dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống.
  • Sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình” – “ta” thường thấy trong ca dao
  • Ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, gần gũi, đậm sắc thái dân gian.
  • Sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật tài hoa như điệp từ, liệt kê, so sánh, ẩn dụ tượng trưng...
  • Nhịp điệu thơ uyển chuyển ngân vang, giọng điệu thay đổi linh hoạt

1.5. Luyện tập

Câu 1 (trang 114, sgk Ngữ văn 12, tập 1)

Tác giả sử dụng cặp đại từ nhân xưng mình - ta với sự biến hóa linh hoạt, và sáng tạo

  • Có trường hợp: mình chỉ những người cán bộ, ta chỉ người Việt Bắc (Mình về mình có nhớ ta/ Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng).
  • Có trường hợp: mình chỉ người Việt Bắc, ta chỉ người cán bộ (Ta về, mình có nhớ ta/ Ta về, ta nhớ những hoa cùng người).
  • Có trường hợp: mình chỉ cả người cán bộ và người Việt Bắc (như chữ mình thứ ba trong câu: Mình đi mình lại nhớ mình).

Ý nghĩa việc sử dụng cặp đại từ nhân xưng mình – ta:

  • Làm cho bài thơ mang phong vị của những câu ca dao, ấm áp, gần gũi, thân thuộc
  • Khắc họa sâu sắc sự gắn bó, thủy chung, yêu thương, lưu luyến giữ Trung ương Đảng với những người dân Việt Bắc

Câu 2 (trang 114, sgk Ngữ văn 12, tập 1)

Phân tích đoạn thơ về khung cảnh Việt Bắc trong kháng chiến:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

(...)

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng

Giọng thơ: hào hùng, mạnh mẽ, nhanh, dồn dập

Hình ảnh thơ:

  • Không gian: những đường Việt Bắc của ta – không gian rộng lớn, khắp mọi nẻo đường ở Việt Bắc
  • Quân đi điệp điệp, trùng trùng: những đoàn quân nối tiếp nhau ra trận
  • Dân công đỏ đuốc từng đoàn, bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
  • Đèn pha bật sáng

→ Những hình ảnh thơ gợi nên một khí thế dũng mãnh, dồn dập, người người ra trận, nhà nhà ra trận

Từ ngữ:

  • Sử dụng từ láy có giá trị tạo hình: điệp điệp, trùng trùng, ...
  • Sử dụng dày đặc các động từ mạnh: đi, đỏ đuốc, nát đá, bay,...

→ Một Việt Bắc hào hùng, là một bản anh hùng ca với khí thế sục sôi trong cuộc kháng chiến chống Pháp

Nội dung chính của văn bản

Nội dung: bài thơ khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trong niềm tự hào dân tộc...

Nghệ thuật: đậm chất dân tộc, trong việc sử dụng hình thức đối đáp với cặp đại từ nhân xưng mình – ta, ngôn ngữ, hình ảnh thơ giản dị, nhịp thơ uyển chuyển, sử dụng thể thơ dân tộc – thể thơ lục bát...

Soạn bài: Việt Bắc (Tố Hữu) - Phần 2: Tác phẩm mẫu 2

2.1. Tác giả

a. Tố Hữu

Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4 – 10 – 1920, quê ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Sinh ra trong một nhà nho nghèo, từ nhỏ Tố Hữu đã học và tập làm thơ.

Ông giác ngộ cách mạng trong thời kì Mặt trận Dân chủ và trở thành người lãnh đạo Đoàn Thanh niên Dân chủ ở Huế. Những bài thơ đầu tiên được sáng tác từ những năm 1937 – 1938. Tháng 8 – 1945, ông là Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên Huế.

Từ sau Cách mạng tháng Tám cho đến năm 1986, Tố Hữu liên tục giữ những cương vị trọng yếu trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước (từng là Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa IV và V), Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Cùng với hoạt động chính trị, Tố Hữu vẫn sáng tác thơ đều đặn. Với tư cách một hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam (1957), ngoài phụ trách chuyên môn công tác văn nghệ và tập huấn của Đảng. Tố Hữu còn phát biểu nhiều ý kiến về văn học nghệ thuật, chỉ đạo phong trào văn nghệ của đất nước trong một thời gian dài.

Tố Hữu nhận được các giải thưởng văn học lớn:

  • Giải nhất Giải thưởng Văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955 (Tập thơ Việt Bắc).
  • Giải thưởng Văn học ASEAN (1996).
  • Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (đợt 1, năm 1996).

b. Sự nghiệp thơ văn của Tố Hữu

Con đường thơ của Tố Hữu bắt đầu gần như cùng lúc với con đường hoạt động cách mạng. Thơ ông gắn bó chặt chẽ với các cuộc đấu tranh cách mạng nên chặng đường thơ của ông cũng song hành với các giai đoạn cách mạng, đồng thời thể hiện sự vận động về tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ.

b1. Tập thơ đầu tay Từ ấy (1937 – 1946) biểu hiện tấm lòng yêu thương xúc động của người chiến sĩ cách mạng trước những cảnh đời cũ nhiều ngang trái, bất công (Đi đi em, Lão đầy tớ, Tiếng hát sông Hương…). Từ ấy ghi lại niềm vui bắt gặp lí tưởng cách mạng của người thanh niên Huế, sự hòa nhập với cuộc đời chung của dân tộc (Xuân lòng, Từ ấy, Trăng trối…). Từ ấy còn là tiếng hát cất lên từ xiềng xích ngục tù, thể hiện tinh thần đấu tranh kiên cường của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi (Tâm tư trong tù, Nhớ đồng, Con cá chột nưa, Tiếng hát đi đày…). Tập thơ khép lại bằng một niềm vui lớn, niềm vui giải phóng, niềm vui tung phá xiềng xích ngục tù, niềm vui hít thở không khí trong làn sau hàng trăm năm nô lệ, niềm vui bay lên với sông núi tự do (Huế tháng Tám, Xuân nhân loại, Vui bất tuyệt…). Những bài thơ của Tố Hữu trong Từ ấy giàu sức sống mới mẻ, hấp dẫn. Ông đem vào thơ những lắng nghe, xúc động, yêu thươn, căm giận… của tâm hồn thi sĩ cách mạng. Từ ấy, cái thời điểm giàu ý nghĩa của một tâm hồn khi tìm được lí tưởng, khi cái riêng hạnh phúc cá nhân đã hòa vào cái chung, vận mệnh của dân tộc.

b2. Việt Bắc (1946 – 1954) là tập thơ tiêu biểu của thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, phản ánh cuộc hành trình gian khổ đã diễn ra suốt trên “ba ngàn ngày không nghỉ” của quân và dân ta từ sau Cách mạng tháng Tám cho đến thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ. Việt Bắc khắc họa hình ảnh nhân dân trong cuộc kháng chiến: anh “bộ đội Cụ Hồ”, bà mẹ giàu lòng thương con, yêu nước, người phụ nữ đảm việc nước, giỏi việc nhà, em bé giao liên… (Cá nước, Lên Tây Bắc, Bà Bủ, Bầm ơi, Lượm…). Trong tập thơ Việt Bắc, Tố Hữu thể hiện tình cảm lớn, niềm vui lớn với nhân dân và đất nước, lãnh tụ; ca ngợi chiến thắng và chào đón hòa bình (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Ta đi tới, Việt Bắc…). Từ tập thơ Việt Bắc, Tố Hữu thường đặt vấn đề lẽ sống của dân tộc, mối quan hệ giữa dân tộc và thời đại. Chất hiện thực sâu sắc trong thơ Tố Hữu tạo nên sự kết hợp nhuần nhị giữa yếu tố lãng mạn cách mạng và hiện thực.

b3. Gió lộng (1955 – 1961) phản ánh giai đoạn đất nước ta bắt đầu thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giành độc lập, thống nhất Tổ quốc. Gió lộng thể hiện niềm vui làm chủ đất nước, làm chủ đời mình (Trên miền Bắc mùa xuân, Mùa thu mới…); ca ngợi cuộc sống mới ở miền Bắc (Tiếng chối tre, Bài ca mùa xuân 1961…) và bộc lộ tình cảm tha thiết đối với miền Nam (Quê mẹ, Người con gái Việt Nam, Thù muôn đời muôn kiếp không tan…). Tập Gió lộng tiếp tục khuynh hướng khái quát và cảm hứng lịch sử - dân tộc được mở ra ở cuối tập Việt Bắc. Tập thơ thể hiện những vấn đề dân tộc, cộng đồng, chứ không phải là vấn đề số phận cá nhân, nói đúng hơn là số phận cá nhân hòa với số phận dân tộc, cộng đồng.

b4. Ra trận (1962 – 1971) và Máu và hoa (1972 -1977) là hai tập thơ ra đời trong thời kì cả nước ta chiến đấu kiên cường chống giặc ngoại xâm, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tầm vóc thời đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, tư tưởng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng là những yếu tố cho âm hưởng hùng ca (cảm hứng về nhân dân, về lịch sử) tràn vào thơ của Tố Hữu, đặc biệt trong các bài thơ (Chào xuân 67, Bài ca xuân 68…). Trước đây, âm hưởng anh hùng ca đã xuất hiện một phần trong các bài Việt Bắc, Ta đi tới, Ba mươi năm đời ta có Đảng, nhưng đến thời kì chống Mĩ cứu nước, âm hưởng anh hùng ca ngày càng nổi lên; sự kết hợp giữa âm hưởng trữ tình và anh hùng ca đã khá nhuần nhị (Theo chân Bác, Nước non ngàn dặm).

b5. Một tiếng đờn (1979 – 1992) xuất hiện trong tình hình đất nước và quốc tế có nhiều biến động. Hiện thực bộn bề nhiều mặt đã đi vào tác phẩm của Tố Hữu. Với tập thơ tâm tình này, tác giả bộc lộ những chiêm nghiệm và suy nghĩ sâu sắc trước cuộc đời. Tuy nhiên, mọi sự suy nghĩ về lẽ đời biến đổi, về chuyện nhân tình có thể hiện tâm trạng buồn của Tố Hữu nhưng vẫn ẩn chứa niềm tin yêu, hi vọng không bao giờ cạn đối với Đảng, đất nước, dân tộc (Một nhánh xuân, Chân trời mới, Duyên thầm…).

Tố Hữu là một nhà thơ – chiến sĩ. Ông làm thơ trước hết là vì sự nghiệp của dân tộc, của Đảng. Thơ Tố Hữu biểu hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của dân tộc và cách mạng. Cảm hứng nổi bật trong thơ Tố Hữu là cảm hứng về nhân dân, về cách mạng, cảm hứng về lịch sử hào hùng của dân tộc, chứ không phải là cảm hứng đời tư. Trong thơ Tố Hữu, cái tôi đã hòa với cái ta; cái riêng hòa với cái chung, nghệ sĩ gắn bó với nhân dân. Thơ Tố Hữu là sự kết hợp nhuần nhị giữa các yếu tố lãng mạn cách mạng và hiện thực, trữ tình và anh hùng ca, tính dân tộc và tính thời đại. Giọng điệu riêng trong thơ Tố Hữu là giọng tâm tình ngọt ngào, tha thiết. Trên nhiều chặng đường thơ Tố Hữu đã kết hợp hài hòa nội dung với hình thức biểu hiện và tạo hiệu quả nghệ thuật cao.

2.2. Tác phẩm

2.2.1. Hoàn cảnh ra đời, nội dung và vị trí của bài thơ

Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được Tố Hữu sáng tác vào tháng 12 năm 1945 nhân một sự kiện lịch sử: Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ thể hiện tình cảm gắn bó thắm thiết giữa người ra đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với Việt Bắc quê hương của cách mạng, với đất nước và nhân dân, với Đảng và Bác Hồ, với cuộc kháng chiến đã thành kỉ niệm sâu nặng trong tâm hồn.

Như thế nghĩa là trong niềm vui thắng lợi đón nhận cuộc sống thanh bình, nhà thơ vẫn không quên tình nghĩa gắn bó trong những năm gian khổ đã qua và coi đây là cội nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cho những ngày hiện tại và tương lai. Có thể nói, bài thơ Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thủy chung của dân tộc.

2.2.2. Tìm hiểu tác phẩm

a. Việt Bắc với vẻ đẹp của cảnh và người

Tình yêu thiên nhiên, đất nước của tác giả được biểu hiện qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc trong nỗi nhớ của người cán bộ sắp về xuôi. Cảnh Việt Bắc hiện ra những vẻ đẹp hiện thực và thơ mộng, thi vị gợi rõ nét độc đáo của Việt Bắc so với nhiều miền quê khác của đất nước. Việt Bắc, đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, là hình ảnh bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, là những “rừng nứa bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy” là tiếng mõ trâu về trong rừng chiều, tiếng “Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Nhưng có lẽ nổi bật nhất trong nỗi nhớ của Tố Hữu về Việt Bắc là sự hòa quyện với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thủy chung trong nghĩa tình:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Qua đó có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với những vẻ đẹp phong phú, đa dạng, thay đổi theo thời tiết, từng mùa. Gắn với cảnh tượng ấy là con người giản dị, người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng… Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình, họ đã góp phần tạo ra sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính tình nghĩa gắn bó và san sẻ cùng nhau chịu đựng gian khổ, thiếu thốn, cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn giữa nhân dân với bộ đội và cán bộ làm cho hình ảnh Việt Bắc sáng ngời trong hồi tưởng của nhà thơ. Việt Bắc – đó là hình ảnh những mái nhà “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, hình ảnh người mẹ “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô’’, là những ngày tháng đồng cam cộng khổ:

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

Có thể nói âm hưởng trữ tình vang vọng trong bài thơ tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình yêu đồng chí với đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu đời.

b. Việt Bắc hào hùng trong chiến đấu

Theo dòng hồi tưởng của Tố Hữu, bài thơ dẫn ta vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với những hình ảnh hào hùng, những hoạt động sôi nổi, những âm thanh náo nức, phấn chấn. Ở đây bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hung ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại bởi vì chỉ cần miêu tả khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc, Tố Hữu đã nêu bật khí thế chiến đấu vô cùng mạnh mẽ của dân tộc.

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Dân tộc ấy đã vượt qua bao gian khổ hi sinh để lập nên những kì tích, những chiến công: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên… Nhưng Tố Hữu không thể miêu tả diễn biến của cuộc kháng chiến mà chỉ đi sâu vào lí giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: Miếng cơm chấm muối, muối thù nặng vai, sức mạnh tình nghĩa thủy chung: Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi, nhất là sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, của sự hòa quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên – tất cả tạo thành hình ảnh đất nước lên:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Đặc biệt bằng những lời thơ trang trọng mà tha thiết, Tố Hữu đã đi sâu nhấn mạnh hình ảnh và vai trò của Việt Bắc như là quê hương của cách mạng, căn cứ vững chắc của cuộc kháng chiến. Trong những năm đen tối trước cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù cho đến xác định như chiến khu kiên cường nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi sản sinh chiều địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc.

Mình về, có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?

Trong những năm tháng kháng chiến gian lao, Việt Bắc là nơi có “cụ Hồ soi sáng”, có “Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công” để kiên định niềm tin yêu của cả nước đối với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những câu thơ mang sắc thái, ca dao dạt dào những âm hưởng nghĩa tình của hồn thơ dân tộc.

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

Mười lăm năm ấy, ai quên

Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa.

c. Việt Bắc trong cảm hứng về ngày mai

Từ tình cảm yêu mến, gắn bó với cảnh và người Việt Bắc, từ niềm tin tưởng vững chắc vào sức mạnh của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, Tố Hữu vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp của Việt Bắc ngày mai trong khung cảnh xây dựng cuộc sống mới hòa bình, phồn vinh.

Ngày mai rộn rã sơn khê

Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng

Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng

Phố phường như nấm như măng giữa trời.

Những hình ảnh ấy là mơ ước, khát vọng và cũng là tình nghĩa mà những người cán bộ kháng chiến muốn đền đáp nơi từng là cội nguồn của cách mạng, nơi đã cưu mang, che chở họ trong những ngày đầy gian nan hi sinh.

Đặc biệt ở những dòng cuối cùng của bài thơ, người đọc càng hiểu sâu thêm sự sắc sảo, nhạy bén của bài thơ khi hướng về ngày mai, nhà thơ không quên, có mới mà không nới cũ, luôn nghĩ đến nhau và vì nhau giữa miền xuôi và miền ngược, giữa cán bộ và nhân dân của mình.

Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?

Phố đông còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?

Có thể coi đây là lời cảnh báo về sự tha hóa khi có sự thay đổi môi trường, khi người ta có thể quên đi tất cả tình nghĩa năm xưa để chỉ nghĩ đến mình và vì mình. Cho đến hôm nay những lời thơ ấy của Tố Hữu vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự chứ không hề cũ xưa.

2.2.3. Kết luận

Điều làm nên sức sống diệu kỳ của bài thơ Việt Bắc là giọng điệu thơ ngọt ngào, dân dã đậm sắc màu ca dao. Mạch tình cảm như suối ngầm ẩn tàng trong tâm hồn người Việt. Đó cũng là đặc trưng cơ bản của phong cách thơ Tố Hữu – luôn đậm đà tính dân tộc.

Tâm tình lại gắn với hình ảnh quê hương – với những nét gợi thương gợi nhớ - là mạch tâm linh chảy suốt chiều dài lịch sử, chạm vào sơi dây tình cảm thiêng liêng nhất của dân tộc Việt Nam “Anh đi anh nhớ quê nhà…”.

Cảm hứng chính trị xuyên suốt một đời thơ Tố Hữu. Với tâm tình, lẽ sống của nhà thơ, Việt Bắc là kết tinh của tình cảm riêng – chung. Hòa điệu tự nhiên của hai luồng tình cảm: dân tộc và cách mạng. Tiếng nói của nhân vật trữ tình nhập vai cũng chính là những suy ngẫm, tình cảm của nhà thơ. Thật khó tách bạch chủ thể và nhân vật. Ở đó là một cái tôi gắn với phẩm chất và tình cảm dân tộc, tiếng nói riêng tư “mình – ta” đã nói hộ tấm lòng của nhân vật và những người con cách mạng. Chất tự sự - trữ tình chính trị như những lời thầm thì tâm sự cùng mọi người, thuyết phục lòng người.

2.3. Luyện tập

Bài tập 1.

Gợi ý:

Nét tài hoa của Tố Hữu trong việc sử dụng cặp đại từ mình và ta. Hai đại từ đó có sự hoán đổi cho nhau, khó tách rời.

Bài tập 2. Bình giảng đoạn thơ từ Ta về mình có nhớ ta đến Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

a. Mở bài

Là người, ai cũng có một miền quê để nhớ, để thương. Có những mảnh đất tuy không phải nơi chôn nhau cắt rốn nhưng vẫn không bao giờ phai mờ trong tâm khảm. Bởi đó là máu thịt, là nơi ghi lại kỉ niệm đẹp nhất của một đời người. Như Chế Lan Viên đã từng triết lí: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở - Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

Việt Bắc – quê hương của kháng chiến, cách mạng trong những ngày đầu tiên của nền dân chủ cộng hòa đã trở thành biểu tượng của tấm lòng gắn bó thủy chung với cách mạng, dân tộc. Nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại mối tình sắt son đậm đà “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” trong bài thơ Việt Bắc, bằng tất cả cảm xúc nồng nàn của một hồn thơ đằm thắm thủy chung.

Qua bao năm tháng, biến động của lịch sử, tiếng nói thiết tha ấy vẫn rung cảm lòng người, Việt Bắc của ngày xưa vẫn nguyên vẹn trong lòng người hôm nay: “Ta về… ân tình thủy chung”. Tiếng lòng ân tình thủy chung ngày ấy phải chăng đã thấm sâu vào mạch ân tình chung thủy của thi ca dân tộc, cho nên khoảng cách thời gian không làm nhạt nhòa ấn tượng về một vùng rừng núi chiến khi xưa hùng vĩ nên thơ?

b. Thân bài

1. Cảm nhận chung

- Điều làm nên sức sống diệu kỳ của bài thơ Việt Bắc nói chung và đoạn thơ nói riêng là giọng điệu thơ ngọt ngào, dân dã đậm sắc màu ca dao. Mạch tình cảm như suối ngầm ẩn tàng trong tâm hồn người Việt. Đó cũng là đặc trưng cơ bản của phong cách thơ Tố Hữu – luôn đậm đà tính dân tộc.

- Tâm tình lại gắn với hình ảnh quê hương – với những nét gợi thương gợi nhớ - là mạch tâm tình chảy suốt chiều dài lịch sử, chạm vào sợi dây tình cảm thiêng liêng nhất của dân tộc Việt Nam “Anh đi anh nhớ quê nhà…”.

- Cảm hứng chính trị xuyên suốt một đời thơ Tố Hữu. Với tâm tình, lẽ sống của nhà thơ, Việt Bắc là kết tinh của tình cảm riêng – chung. Hòa điệu tự nhiên của hai luồng tình cảm: dân tộc và cách mạng. Tiếng nói của nhân vật trữ tình nhập vai cũng chính là những suy ngẫm, tình cảm của nhà thơ. Thật khó tách bạch chủ thể và nhân vật. Ở đó là một cái tôi gắn với phẩm chất và tình cảm dân tộc, tiếng nói riêng tư “mình – ta” đã nói hộ tấm lòng của nhân dân và những người con cách mạng. Chính tự tự - trữ tình chính trị như những lời thì thầm tâm sự cùng mọi người, thuyết phục lòng người.

2. Nỗi nhớ

- Là cảm xúc chủ đạo của toàn bộ bài thơ, gắn với “ta – mình”, “mình – ta”, là cung bậc thiết tha của tình cảm, là miền ký ức không phai mờ của người ra đi.

- Nỗi nhớ ở đây mượn nguyên màu sắc ca dao, là sự nối tiếp, là khía cạnh tinh vi trong quan hệ khăng khít: hoa – người. Quê hương hiện hình trong vẻ đẹp cụ thể: vẻ đẹp tinh túy của thiên nhiên (hoa) hòa hợp với vẻ đẹp và sức sống của con người.

- Mỗi một hình ảnh “hoa cùng người” như đem lại ấn tượng riêng biệt về nét đẹp núi rừng Việt Bắc. Sự nối tiếp, đan xen sắc màu làm nên mạch cảm xúc của đoạn thơ, nỗi nhớ qua từng câu càng đậm đà và mãnh liệt hơn. Trên cơ sở đó, nhà thơ hướng toàn bộ tâm tư về con người – nhân dân với những phẩm chất bình thường mà vĩ đại.

3. Bức vẽ quê hương

- Tố Hữu đã khéo léo vận dụng thành công đặc trưng tái hiện không gian vô cực của thi ca – gói trọn bốn mùa Xuân – Hạ - Thu – Đông trong những sắc màu đẹp nhất, hài hòa nhất. Bước luân chuyển của thời gian được tác giả chọn ở những thời điểm nên thơ, tạo ấn tượng không phai mờ trong ký ức. Nhớ cảnh để nhớ người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Nét son của bức tranh núi rừng ở đây là màu đỏ tươi của hoa chuối. Chấm phá của bức tranh thủy mặc điểm một sắc đỏ trong không gian xanh bao la, không gian mang sức sống mãnh liệt. Ở đây là cách nhìn của thi nhân Á Đông, người đọc có thể nhớ đến một cảm xúc quen thuộc trong thơ Nguyễn Trãi:

Hòe lục đùn đùn tán rợp trương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.

(Báo kính cảnh giới – 43)

Mùa đông trong câu thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè, không hề có cảm giác lãnh lẽo, bởi sắc đỏ chuối như phun trào từ giữa màu xanh của rừng.

Bên cạnh nét đẹp của hoa là nét đẹp thật khỏe khoắn của người. “Nắng ánh dao gài thắt lưng” là hình ảnh người dân miền sơn cước. Cách hoán dụ không phải tình cờ ngẫu nhiên mà chọn con dao đi rừng – vật bất ly thân của người miền núi – nét đặc trưng của cuộc sống Việt Bắc. Con người nổi bật trong không gian đèo cao, càng nổi bật trong ánh nắng, thành một điểm sáng giữa khung cảnh mùa đông, mang trong mình nét hiên ngang hùng vĩ kiêu hãnh của núi rừng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Không gian mùa xuân bừng sáng trong sắc hoa mơ. Sức sống mùa xuân lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc. Giữa nền trắng hoa mơ, nổi bật hình ảnh “người đan nón”. Nỗi nhớ ở đây cụ thể đến từng chi tiết: “chuốt từng sợi giang”. Người Việt Bắc hiện lên vẻ đẹp ở nét đẹp cần mẫn, chịu thương chịu khó. Trong cách tả không có một âm vang nào của núi rừng, nhưng vẻ đẹp của mùa xuân vẫn sinh động nhờ hoạt động của con người. Sợi nhớ, sợi thương đan dày trong tâm tưởng, con người vẻ đẹp tự nhiên trong những công việc tỉ mẩn hàng ngày.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Không gian nỗi nhớ hình như ro nét nhất, đậm đầ trong bức tranh mùa hạ. Và cũng đọng lại hình ảnh ngọt ngào thân thương nhất của “cô em gái hái măng”. Câu thơ tả cảnh giàu sức biểu cảm, tiếng ve ran gọi màu vàng tràn ngập không gian. Không gian lung linh hơn khi sắc vàng đổ xuống. Ấn tượng màu vàng đẹp như bức vẻ tả thực vừa làm xao xuyến lòng người trong tiếng ve gọi hè, như gọi cả màu vàng đất trời về phủ kín cánh rừng.

Nổi bật giữa khung cảnh là hình ảnh “cô em gái”. Cách gọi biểu lộ niềm thân thương trìu mến của con người. Câu thơ gợi nhớ vẻ đẹp nên thơ của một “cô hái mơ” trong thơ Nguyễn Bính (Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ). Nhưng ở đây cô gái Việt Bắc mang vẻ đẹp khỏe khoắn mộc mạc hơn. Một mình nhưng không tạo cảm giác cô đơn hiu quạnh, vì cả không gian nhuộm rực ánh sáng.

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Không gian chuyển về đêm. Như hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng Việt Bắc. Đêm thu và ánh trăng như lan tỏa vào màu xanh của núi rừng. Vẻ đẹp của khu rừng dưới ánh trăng gợi lên vẻ huyền ảo. Khung cảnh gọi hồn thơ.

Nỗi nhớ cũng mênh mang như ánh trăng, thành “tiếng hát ân tình thủy chung”. Nhớ không cụ thể một đối tượng nào. Như ca dao:

Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai.

Tình người bâng khuâng trong câu thơ gợi cảm xúc đồng điệu giữa kẻ ở người đi. Đọng lại trong nỗi nhớ “ân tình thủy chung” dào dạt.

c. Kết bài

Đoạn thơ diễn tả nỗi nhớ gần với hình ảnh của núi rừng Việt Bắc. Mỗi mùa mang một sắc màu riêng và bốn mùa hòa chung màu sắc đa dạng, làm nên vẻ hấp dẫn cho bức tranh phong cảnh trữ tình.

Thời gian diễn tả tuần tự, nhưng thời gian không làm phai nỗi nhớ. Mỗi mùa đi qua có một khoảnh khắc đáng nhớ - đó là khi trái tim nhà thơ bắt nhịp cùng không gian – cảnh vật.

Đó là tình yêu đích thực, rung động chân thành của trái tim nhà thơ. Cũng là tấm lòng của những người con kháng chiến sâu nặng với thủ đô kháng chiến.

--------------------------------

Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Soạn bài Việt Bắc - Phần 2: Tác phẩm. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài viết rồi đúng không ạ? Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 12 nhé. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Đề thi học kì 1 lớp 12, Soạn văn 12, Soạn bài lớp 12, Học tốt Ngữ văn 12, Tài liệu học tập lớp 12 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

Để tham khảo thêm nhiều đề thi và tài liệu học tập hay khác, trao đổi với thầy cô và giáo viên, mời các bạn tham gia nhóm: Tài liệu học tập lớp 12 .

Đánh giá bài viết
1 11.955
Sắp xếp theo

    Soạn bài lớp 12

    Xem thêm