Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Tóm tắt các tác phẩm văn học lớp 12

Tóm tắt các tác phẩm văn học lớp 12 giúp bạn nắm được những nội dung cơ bản của các tác phẩm văn học của Việt Nam và nước ngoài nằm trong chương trình lớp 12. Mời các bạn tham khảo chi tiết bài viết dưới đây để có thêm tài liệu ôn thi THPT Quốc gia sắp tới nhé.

I . Tác phẩm học chính khoá

1. Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh):

Mẫu 1

Bản tuyên ngôn mở đầu bằng những câu trích dẫn từ "Tuyên ngôn độc lập" của Mỹ, " Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền" của Pháp để khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Tiếp đó, bản tuyên ngôn lên án tội ác của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam trong đó hơn 80 năm chúng xâm lược chúng ta. Đó là tội ác về kinh tế , chính trị , văn hóa, tội bán nước hai lần cho Nhật. Bản tuyên ngôn nêu cao cuộc đấu tranh chính nghĩa và thắng lợi của nhân dân ta. Bản tuyên ngôn kết thúc bằng lời tuyên bố quyền độc lập tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập tự do của toàn dân tộc.

Mẫu 2

Tuyên ngôn độc lập-văn kiện có ý nghĩa lịch sử sống còn với vận mệnh dân tộc. Nếu ở Mỹ có Tuyên ngôn độc lập năm 1776, ở Pháp có bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 thì Việt Nam có bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh được tuyên bố ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình để xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến; khẳng định quyền tự chủ và vị thế của dân tộc ta trên thế giới, đó là mốc son chói lọi đánh dấu kỉ nguyên mới-kỉ nguyên độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.

Tuyên ngôn độc lập được Bác triển khai theo ba nội dung rõ ràng. Phần mở đầu: Bác có đưa ra cơ sở cho bản Tuyên ngôn nói về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc dựa vào hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp-hai nước tư bản lớn trên thế giới-hai quốc gia xâm lược Việt Nam. Bác dùng những lí lẽ đó để làm bản lề vạch ra cho ta thấy những việc làm trái với tuyên ngôn của chúng. Phần nội dung: Những cơ sở thực tế đã được chỉ ra, đó là những tội ác của Pháp, chúng đã thi hành ở nước ta hơn 80 năm nay trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa-giáo dục. Tất cả những điều đó đập tan luận điệu xảo trá của kẻ thù đã, đang và sẽ nô dịch nước ta trở lại. Phần kết luận: Lời tuyên bố đanh thép và khẳng định quyết tâm sắt đá giữ vững nền độc lập dân tộc. Tuyên ngôn độc lập đã hội tụ vẻ đẹp tư tưởng và tình cảm của Hồ Chí Minh đồng thời cho thấy khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam.

Xem thêm các bài Tóm tắt văn bản Tuyên ngôn độc lập khác

2. Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc (Phạm Văn Đồng):

Phần 1 : Đặt vấn đề cho bài viết. Tác giả nêu luận điển xuất phát: Phải có cái nhìn đúng về văn chương Nguyễn Đình Chiểu và thơ văn của ông. Cách nhìn đó là: " Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường , nhưng con mắt chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thấy càng sáng.thơ văn Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy"

Phần 2 : Giải quyết vấn đề : Tác giả nêu các luận điểm bổ sung để chứng minh cho luận điểm xuất phát: cách nhìn đúng đắn đó được cụ thể hoá qua cách đánh giá (của tác giả) về:

+ Cuộc đời và quan niệm sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.

+ Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu ( chủ yếu là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)

+ Tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên – Tác phẩm phổ biến , đặc sắc của NĐC ( cả nội dung và nghệ thụât).

Phần 3 : Kết thúc vấn đề: (Luận điểm kết luận, cái đích của bài viết)

Đánh giá đúng vị trí của NĐC trong nền văn học dân tộc theo cách nhìn mới mẻ đã nêu ở phần đầu: " NĐC là một chí sĩ yêu nước, một nhà thơ lớn của nước ta. Đời sống và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao đại vị và tác dụng của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trân mặt trận văn hoá và tư tưởng".

Xem thêm: Tóm tắt tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc (Phạm Văn Đồng)

3. Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003 (Cô-phi-an-nan)

1) Mở đầu :

Nhắc lại việc cam kết của các quốc gia trên thế giới để đánh bại căn bệnh HIV/AIDS vào năm 2001 và Tuyên bố về cam kết phòng chống HIV/AIDS của quốc gia đó.

2) Nhìn lại tình hình thực hiện phòng chống HIV/AIDS:

  • Đã có một số dấu hiệu của chúng ta về nguồn lực, ngân sách, chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS.
  • Song hành động của chúng ta vẫn quá ít so với yêu cầu thực tế, dịch HIV/AIDS vẫn hoành hành gay tử vong trên thế giới và có rất ít dấu hiệu suy giảm. Trong năm qua, cứ mỗi phút trôi qua có 10 người nhiễm HIV, và đại dịch này đang lây lan với tốc độ báo động ở phụ nữ , đang lan rông nhanh nhất ở chính khu vực mà trước nay hình như vẫn còn an toàn- đặc biệt là Đông Âu và toàn bộ Châu Á, từ dãy núi U-ran đến Thái Bình Dương.
  • Không hoàn thành được một số mục tiêu đề ra trong Tuyên bố về Cam kết phòng chống HIV/AIDS và với tiến độ như hiện nay, chúng ta sẽ không đạt được bất cứ mục tiêu nào năm 2005.

3) Nhiệm vụ cấp bách , quan trong hàng đầu là tích cực phòng chống AIDS

  • Phải nỗ lực thực hiện cam kết của mình bằng những nguồn lực và hành động cần thiết.
  • Phải đưa vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị và hành động .
  • Phải công khai lên tiếng về AIDS
  • Không được kì thị và phân biệt đối xử đối với những người sống chung với HIV/AIDS.
  • Đừng một ai ảo tưởng rằng chúng ta có thể bảo vệ được chính mình bằng cách dựng lên cách bức tường rào ngăn cách " giữa chúng ta và họ".
  • Trong thế giới khốc liệt này không có khái niệm chúng ta và họ. Trong thế giớio đó, im lặng đồng nghĩa với cái chết. Có nghĩa là phải hành động để chống lại đại dịch AIDS đang đe doạ mọi người trên hành tinh này, không trừ một ai.

4) Kết thúc: Lời kêu gọi phòng chống HIV/AIDS:

  • Tôi kêu gọi các bạn hãy cùng với tôi lên tiếng thật to và hãy dõng dạc về HIV/AIDS .
  • Hãy cùng chúng tôi giật đổ thành luỹ của sự im lặng, kì thị và phân biệt đối xử đang vây quanh căn bệnh này.
  • Hãy sát cách cùng chúng tôi, bởi lẽ cuộc chiến chống lại HIV/AIDS bắt nguồn từ chính các bạn.

Xem thêm: Tóm tắt Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003 (Cô-phi-annan)

4. Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân)

Mẫu 1

Thiên nhiên Tây Bắc được tô điểm bởi con sông đà vừa hung bạo trữ tình. Sông Đà có lúc dịu dàng như người phụ nữ kiều diễm.Nước sông Đà thay đổi theo mùa phản chiếu trời xuân nắng thu « Mùa xuân dòn xanh ngọc bích,mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa » .Dọc theo sông Đà,có lắm thác nhiều ghềnh,có đá dựng vách thành,có đá tảng,đá hòn bày thế thạch trận,tạo nên cửa sinh cửa tử.Nổi bật trên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, đầy sức sống đó là hình ảnh ông lái đò sông Đà. Đó là một người mang vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân lao động vùng sông nước với thân hình cao to,nước da rám nắng. Ông làm nghề lái đò đã nhiều năm, từng gắn bó với dòng sông Đà, hiểu được tính khí của nó. Ông thuộc nằm lòng từng con thác lớn, thác nhỏ, từng vách đá, luồng nước, từng cửa sinh cửa tử do thế thạch trận tạo nên .Ông đã dùng kinh nghiệm nghề nghiệp cộng với sự cần cù gan dạ đưa con thuyền vượt thác nước sông Đà đầy nguy hiểm.Ông đã đưa nhiều chuyến hàng về xuôi an toàn để góp phần vào cuộc sống.

Sau khi vượt sông Đà, ông lái đò trở về cuộc sống đời thường thanh thản của mình,ông neo thuyền chỗ khúc sông bình lặng và nấu ống cơm lam, bàn tán về cá Anh Vũ cá dầm xanh.

Mẫu 2

Câu chuyện vượt sông Đà đã được nhà văn kể lại bằng tất cả niềm hứng khởi về sức mạnh con người chiến thắng thiên nhiên, với tất cả kịch tính, cao trào để tôn vinh nghệ thuật chinh phục thác đá sông Đà. Con sông Đà dữ với thần sông tướng đá bủa giăng thế trận vây lấy chiếc thuyền đơn độc được nhà văn miêu tả bằng ngôn ngữ phong phú của tiểu thuyết chương hồi như gợi cuộc phá vây của mãnh tướng Triệu Tử Long xông vào trận quân Tào Tháo, bên cạnh đó nhà văn có những dòng mô tả chân dung bằng giọng văn rất hóm hỉnh của riêng mình: “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này...”. Cuộc đối đầu giữa con người trên chiếc thuyền đơn độc với “boongke chìm và pháo đài nổi” trong “cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn” có sức hấp dẫn đặc biệt. Có lẽ nhà văn đã hình dung ra không khí của những hội vật truyền thống khi miêu tả các cuộc đấu sức, đấu trí và đấu sự nhanh nhẹn giữa người và đá nước. Cuộc đấu có miếng, có mưu, cuối cùng phần chiến thắng thuộc về con người, bởi lẽ “Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”.

Mẫu 3

Tây Bắc là nơi nổi tiếng bởi thiên nhiên hùng vĩ, mà minh chứng cụ thể là con sông Đà. Từ thượng nguồn sông Đà đã mang vẻ dữ dội của đại ngàn: dựng đá vách thành, chỉ lúc đúng ngọ mới thấy mặt trời; sóng đá dữ dội dàn thành các thạch trận xô nhau liên tiếp, dữ dội hơn trông Đà giang như sôi lên sùng sục, tiếng thác đá ở đây thì như ngàn con trâu mộng giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa. Có lúc sông Đà cũng dịu dàng: Sông Đà tuôn dài như áng tóc trữ tình,mang màu xanh ngọc bích và màu đỏ phù sa chứ không có màu đen như Pháp nói; sông Đà lại giống như một cố nhân lâu ngày gặp lại; hai bên bờ sông Đà tĩnh lặng nhưng đầy sức sống. Trên vẻ đẹp của Tây Bắc ấy hình ảnh người lái đò hiện ra đầy nghệ sĩ, hùng dũng dù rất bình dị đời thường, Ông lái đò vượt qua ba thạch trận với nhiều cửa tử; dù ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, đêm trở về với những thứ bình dị, khiêm tốn.

Xem thêm: Tóm tắt tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

5. Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường)

Mẫu 1

Sông Hương dưới ngòi bút của search Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hiện lên với nhiều vẻ đẹp khác nhau gắn với thành phố Huế. Sông Hương vùng thượng lưu mang một vẻ đẹp, sức sống mãnh liệt, bí ẩn, sâu thẳm, hoang dại mà còn dịu dàng, say đắm qua bốn hình ảnh so sánh. Một dòng sông mang trong nó những vẻ huyền bí vẫn còn hoang sơ, vẻ đẹp của thiên nhiên không thể cưỡng nổi. Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố hiện lên với vẻ đẹp lãng mạn. Sông Hương đến đây uốn mình theo đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Dòng sông đã được gán cho có linh hồn, biết ý thức và đi tìm một thứ gì đó với nó. Bằng cách vận dụng kiến thức văn hóa, văn học tác giả đã khiến người đọc ấn tượng về vẻ đẹp trầm mặc, như triết lí, như cổ thi gắn với những thành quách, lăng tẩm của vua chúa thời trước. Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế có nét đẹp rất riêng. Đến đây ta thấy một nét đẹp đặc biệt của dòng sông, nét đẹp như nói lên thay cho nét đẹp của những người con nơi đây. Con sông được khám phá, phát hiện ở sắc thái tâm trạng, sông Hương gặp thành phố như điểm hẹn tình yêu, trở nên vui tươi, chậm rãi, êm dịu… Tạm rời xa thành phố sông Hương tiến thẳng về hướng Bắc. Rồi sông đột ngột rẽ sang hướng đông - tây quay lại thành phố ở thị trấn Bao Vinh. Con sông trước khi trở lại với biển còn vấn vương với kinh thành Huế. Không những vậy sông Hương còn là mang nhiều dấu ấn của lịch sử, thi ca. Từ góc độ văn hóa truyền thống lịch sử tác giả cũng đã khắc họa sông Hương với nét tính cách đăc biệt qua đó cũng tái hiện lại cho bạn đọc những hình ảnh trong lịch sử và gắn liền với những phẩm chất rất riêng của người Huế.

Mẫu 2

Bài bút kí đã ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với xứ Huế mơ mộng đã đi vào lòng người và với truyền thống lịch sử xứ Huế. Lúc ở thượng nguồn, sông Hương có vẻ đẹp mãnh liệt và hoang dại , có nhiều ghềnh thác đáy vực bí ẩn. Có thể xem sông Hương như bản trường ca của rừng già Lúc về đồng bằng ,sông Hương thơ mộng làm say đắm lòng người.Hai bên bờ sông Hương chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên.Dòng sông mềm như tấm lùa uốn cong ,cảnh đẹp như bức tranh có đường nét,hình khối « trôi đi giũa hai dãy đồi sừng sửng như thành quách », « cao đột ngột như VỌNG CẢNH, TAM THAI,LƯU BẢO ».Sông hương có vẻ đẹp da màu biến ảo : « sớm xanh,trưa vàng ,chiều tím »

Lúc qua thành phố Huế, sông Hương « trôi đi thực chậm »,chảy lặng lờ như điệu slow. Sông Hương « đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya ».Trên sông vọng lại tiếng hát trong một khoang thuyền nào đó. Sông Hương mang vẻ đẹp vừa trữ tình, vừa trầm mặc gắn liền với lịch sử bi tráng của dân tộc mà trên thế giới không có dòng sông nào như thế. Và trước về với biển sông hương lưu luyến tình cảm với thành phố Huế ví như nỗi vấn vương của nàng Kiều với Kim Trọng.

Xem thêm: Tóm tắt tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

6. Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ mẫu 1

Vợ chồng A Phủ kể về cuộc đời của hai thanh niên người thiểu số dân tộc H'Mông (Mèo): Mị và A Phủ. Mị là một cô gái đẹp, hiếu thảo, đảm đang, giàu sức sống, yêu đời và rất mực tài hoa. Chỉ vì một món nợ từ hồi cha mẹ mới cưới nhau mà Mị bị thống lí Pá Tra bắt về làm dâu trừ nợ, thực chất là làm nô lệ không công cho nhà thống lí. Kể từ khi bước chân vào nhà thống lí, Mị phải sống những tháng ngày tăm tối, bị đày đọa về thể xác, bị giày đạp về tinh thần. Mị phải lao động quần quật như con trâu, con ngựa. Đã có lần Mị muốn chết nhưng sợ liên lụy đến bố mẹ lại thôi, tiếp tục trở về cuộc đời nô lệ. Cuộc sống đau khổ đã cướp đi mất tuổi thanh xuân của Mị, làm cho cô gần như tê liệt sức sống, cứ vật vờ như chiếc bóng, “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Cho đến một đêm mùa xuân náo nức, tiếng sáo gọi bạn tình bồi hồi tha thiết vọng đến tai Mị đã đánh thức trong tâm hồn cô niềm khao khát hạnh phúc và tình yêu mãnh liệt. Mị chuẩn bị áo váy đi chơi ngày xuân. Nhưng rồi chồng Mị đã vùi dập phũ phàng ngọn lửa ham sống vừa bùng lên đó. Hắn bước vào buồng, thản nhiên trói Mị vào cột nhà. Cùng trong đêm ấy, hắn phá đám cuộc chơi của trai làng nên bị A Phủ đánh trọng thương. Ỷ vào thế quan, thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải làm đứa ở, lao động khổ sai để trả nợ. Một lần, vì để hổ vồ mất con bò của nhà thống lí, A Phủ bị đánh đập tàn nhẫn và bị trói đứng vào trong góc nhà suốt mấy ngày. Cảm thông cho người cùng cảnh ngộ, Mị đã cởi trói cho A Phủ và cùng nhau chạy trốn khỏi nhà thống lí ở Hồng Ngài, tìm đến Phì Sa. Họ nhận nhau là vợ chồng. Họ được cán bộ là A Châu giác ngộ, dìu dắt, cả hai lần lượt trở thành du kích, tham gia tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai để giải phóng bản thân, quê hương mình.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ mẫu 2

Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị, không đủ tiền cưới phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mẹ Mị đã chết, bố Mị đã già mà món nợ mỗi năm phải trả lãi một nương ngô vẫn còn. Năm đó, ở Hồng Ngài tết đến, A Sử con trai thống lí Pá Tra lừa bắt cóc được Mị về làm vợ cúng trình ma. Mị trở thành con dâu gạt nợ. Khổ hơn con trâu con ngựa, lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Mị toan ăn lá ngón tự tử. Thương cha già, Mị chết không đành. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Một cái tết nữa lại đến. Mị thấy lòng phơi phới. Cô uống rượu ực từng bát, rồi chuẩn bị lấy váy áo đi chơi. A Sử đã trói đứng Mị bằng một thúng sợi đay.

A Phủ vì tội đánh con quan nên bị làng phạt vạ một trăm bạc trắng. A Phủ trở thành người ở nợ cho Pá Tra. Một năm rừng động, A Phủ để hổ bắt mất một con bò. Pá Tra đã trói đứng anh vào một cái cọc bằng một cuộn mây. Mấy ngày đêm trôi qua, A Phủ sắp chết đau, chết đói, chết rét thì được Mị cắt dây trói cứu thoát. Hai người trốn đến Phiềng Sa nên vợ nên chồng. A Phủ gặp cán bộ A Châu kết nghĩa làm anh em được giác ngộ trở thành chiến sĩ du kích đánh Pháp.

Xem thêm: Tóm tắt truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

7. Vợ nhặt - Kim Lân

Tóm tắt Vợ nhặt của Kim Lân mẫu 1

Tràng là chàng trai xấu xí sống với mẹ ở xóm ngụ cư. Giữa nạn đói khủng khiếp, anh phải làm nghề kéo xe thóc thuê lên tỉnh để lấy tiền trang trải qua ngày. Ở đây, qua vài câu nói bông đùa và bốn bát bánh đúc, anh với cô thị đanh đá chỏng lỏn đã trở thành vợ chồng với nhau mà không cưới hỏi hay yêu đương gì. Cô thị theo không anh về làm vợ, trên đường về khác với vẻ đanh đá thường thấy, khi bị trêu, cô thị tỏ ra ngượng ngùng. Về đến nhà, cô khép nép khác thường. Khi bà cụ Tứ - mẹ anh Tràng về đến nhà, bà vừa ngạc nhiên, sững sờ vì có người gọi mình là mẹ; vừa đau buồn, tủi hổ, xót thương vì con mình lấy vợ đúng lúc khó khăn nhất không biết có qua nổi giai đoạn này không và người ta lấy con mình vì cái đói, cái khổ. Gạt đi những giọt nước mắt đau buồn, bà động viên các con yêu thương nhau và lạc quan hơn trong cuộc sống. Cuộc sống từ khi có nàng dâu thay đổi hoàn toàn, sự bừa bộn của căn nhà được dọn dẹp sạch sẽ, ngăn nắp, tươm tất. Bữa ăn đầu tiên khi về nhà chồng của cô thị chỉ vỏn vẹn là rau chuối và cám lợn, mọi người ăn trong nghẹn ngào, không ai nói với ai câu nào. Cô thị kể những mẩu chuyện người đi phá kho thóc Nhật cho anh Tràng và bà cụ Tứ, tưởng chừng chỉ là những câu chuyện vô thưởng vô phạt nhưng nó lại là chìa khóa, mở ra trong đầu anh Tràng lá cờ của Đảng và một cuộc sống mới trong tương lai hứa hẹn sẽ tốt đẹp và no đủ hơn hiện tại.

Tóm tắt Vợ nhặt của Kim Lân mẫu 2

Anh Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò chở thuê. Đã nhiều tuổi, thô kệch, có tính vừa đi vừa nói lảm nhảm. Hai mẹ con ở trong một mái nhà tranh vắng teo, rúm ró bên ảnh vườn . Trận đói kinh khủng đang diễn ra, người chết đói như ngả rạ. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh, hắn hò một câu vượt dốc rất tình. Một cô gái ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, liếc mắt cười tít. Lần thứ hai, Tràng gặp lại thị, trông khác hẳn, thị gầy sọp hẳn đi, áo quần tả tơi như tổ đỉa. Một vài câu trách móc, mời chào, thị ăn một chập 4 bát bánh đúc do Tráng đãi. Mua một cái thúng và 2 hào dầu, Tràng dẫn thị về nhà ra mắt mẹ. Xóm ngụ cư ngạc nhiên khi thấy một người đàn bà xa lạ đi theo Tráng họ bàn tán, có phần lo ngại. Trong nhá nhem tối, bà cụ Tứ gặp và nói chuyện với nàng dâu mới. Lần đầu nhà Tràng có dầu thắp đèn… Tiếng ai hờ khóc người chết đói ngoài xóm lọt vào. Sáng hôm sau, bà mẹ chồng và nàng dâu mới quét dọn trong nhà ngoài sân. Bữa cơm – cháo cám – đón nàng dâu mới. Bà cụ Tứ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu, nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này. Lại một buổi sáng. Tiếng trống thúc thuế dồn dập. Quạ đen bay vù như mây đen. Thị nói về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật. Tràng nhớ lại lá cờ đỏ bay phấp phới hôm nào…

Xem thêm: Tóm tắt tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân

8. Rừng Xà nu - Nguyễn Trung Thành

Mẫu 1

Sau 3 năm đi “lực lượng”, Tnú về thăm làng. Bé Heng gặp anh ở con nước lớn dẫn anh về. Con đường cũ, hai cái dốc, rừng lách chằng chịt hố chông, hầm chông, giàn thò sắc lạnh. Mặt trời chưa tắt thì anh về đến làng. Cụ Mết già làng và bà con dân làng reo lên mừng rỡ. Cụ Mết đưa anh về nhà ăn cơm. Từ nhà ưng vang lên một hồi, ba tiếng mõ dài, cả lũ làng cầm đuốc kéo tới nhà cụ Mết gặp Tnú. Có ông bà già. Nhiều trai tráng và lũ con gái. Đông nhất là lũ trẻ con. Có cả cô Dít, em gái Mai, nay là bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã hội. Ai cũng muốn ngồi gần anh Tnú. Dít thay mặt lũ làng xem giấy có chữ ký chỉ huy cho phép Tnú về thăm làng một đêm. Quanh bếp lửa rộn lên: “Tốt lắm rồi!” “Một đêm thôi, mai lại đi rồi, ít quá, tiếc quá!”. Rồi cụ Mết kể lại cuộc đời Tnú cho lũ làng nghe. Tiếng nói rất trầm. “Anh Tnú đó, nó đi Giải phóng quân đánh giặc… Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Anh Xút bị giặc treo cổ, bà Nhan bị giặc chặt đầu, nó và em Mai đi vào rừng nuôi anh Quyết cán bộ. Anh dạy nó học chữ. Nó học chữ thì hay quên nhưng đi rừng làm liên lạc thì đầu nó sáng lạ lùng. Nó vượt thác, xé rừng mà đi, lọt tất cả vòng vây của giặc. Một lần Tnú vượt thác Đắc nông thì bị giặc bắt, bị tra tấn, bị đầy đi Kông Tum. Ba năm sau, Tnú vượt ngục trốn về, lưng đầy thương tích. Tnú đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi cho dân làng Xô Man trước khi anh tử thương. Tnú đi bộ lên núi Ngọc Linh đem về một gùi đá mài. Đêm đêm làng Xô Man thức mài vũ khí. Thằng Dục chỉ huy đồn Đắc Hà đưa lũ ác ôn về vây ráp làng. Tiếng kêu khóc vang dậy. Cụ Mết và trai tráng lánh vào rừng, bí mật bám theo giặc. Bọn giặc đã giết chết mẹ con Mai. Tay không ra cứu vợ con, Tnú bị giặc bắt. Chúng lấy nhựa xà nu đốt cháy 10 ngón tay anh. Cụ Mết và lũ thanh niên từ rừng xông ra, dùng mác, và rựa chém chết tất cả 10 tên ác ôn. Thằng Dục ác ôn và xác lũ lính ngổn ngang quanh đống lửa trên nhà ưng. Từ đó, làng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng. Sau đó, Tnú ra đi tìm cách mạng…”

Cụ Mết ngừng kể, rồi hỏi Tnú đã giết được mấy thằng Diệm, mấy thằng Mĩ rồi? Anh kể chuyện đánh đồn, xông xuống hầm ngầm dùng tay bóp chết thằng chỉ huy… thằng Dục, “đúng chớ… chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục!”. Mưa rơi nặng hạt. Không ai nhận thấy đêm đã khuya. Sáng hôm sau cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường. Ba người đứng nhìn những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời…

Mẫu 2

Trong truyện ngắn "Rừng xà nu", câu chuyện xoay quanh ngôi làng Man tại Tây Nguyên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đang đầy căm phẫn. Tnú là nhân vật chính của câu chuyện, người đã rời xa làng để tham gia cách mạng và trở về sau đó. Một tối, cụ Mết kể lại lịch sử của làng và cuộc đời của Tnú trước cả làng người.

Tnú là một đứa trẻ mồ côi từ khi mới sinh ra, và được nuôi dưỡng và trưởng thành bởi dân làng Xô Man. Ngay từ nhỏ, Tnú và Mai đã tích cực tham gia vào việc nuôi giấu cán bộ Đảng, trong đó có anh Quyết. Anh Quyết dạy cho Tnú nhiều kiến thức bổ ích và cả hai cuối cùng đã kết hôn và trở thành những người tiên phong trong phong trào cách mạng tại địa phương. Khi tin đồn về phản kháng đến tay bọn giặc, chúng đã cho quân đội đến đàn áp và bắt Tnú. Bọn giặc ác ôn đã tra tấn và giết chết vợ con của Tnú, vì vậy, Tnú không giữ được bình tĩnh mà xông ra quyết đấu với giặc. Anh bị bắt và tra tấn bằng cách đốt cháy mười đầu ngón tay bằng nhựa xà nu. Mặc dù bị đau đớn, Tnú vẫn không hé môi để kêu than một lời.

Trước sự tàn bạo của kẻ thù, dân làng đã nổi dậy phản kháng và đánh bại kẻ thù. Sáng hôm sau, Tnú đã được cụ Mết, bé Heng và Dít tiễn đi trên con đường cách mạng. Các nhân vật đã chia tay nhau tại đồi Xà nu, nơi còn đầy sức sống và hy vọng, dù bị đối mặt với mưa bom và đạn dược của kẻ thù.

Xem thêm các bài Tóm tắt tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành khác

9. Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi

Mẫu 1

Nhân vật chính trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình là Việt, một người con miền Nam yêu nước và căm thù giặc. Những người thân trong gia đình anh là ông nội, cha, mẹ đều lần lượt bị giết hại một cách tàn nhẫn, không thương tiếc. Mối thù sâu sắc với giặc Mỹ đã giúp Việt trở nên mạnh mẽ và mong muốn nhập ngũ chiến đấu để trả thù nhà, giành lại độc lập tự do. Tham gia trận đánh tại một khu rừng cao su, Việt không sợ hy sinh, anh chiến đấu dũng cảm và diệt được một xe bọc thép và sáu tên lính Mỹ. Nhưng buồn thay, anh đã bị thương nặng và nằm một mình trên chiến trường đầy bom đạn và chết chóc. Sau nhiều lần ngất đi, trong đầu Việt đều hiện lên những hình ảnh về gia đình, những người thân yêu của anh. Cứ chầm chậm như thế, đầu tiên là nhớ về ngày má mất, sau đó là nhớ về ngày anh và chị Chiến đăng ký đi tòng quân. Khi ấy, chị Chiến giành đi trước vì cho rằng Việt chưa tròn 18 tuổi. Nhưng đến hôm đăng kí, Việt đã nhanh nhảu ghi tên mình trước. Nhờ có chú Năm đứng ra nói hộ mà cả hai chị em đều được đi tòng quân. Đêm trước ngày nhập ngũ, hai chị em ngồi bàn bạc mọi chuyện trong nhà, Việt nghe theo mọi sự sắp đặt của chị Chiến và thấy chị giống má quá chừng. Cuối cùng, Việt cũng được đồng đội tìm thấy và đưa về chữa trị. Thấy sức khỏe ổn định, Việt định viết thư cho chị Chiến vì nhớ chị nhưng không biết viết như thế nào. Nếu viết về chiến công của mình thì Việt tự thấy là vẫn chưa lớn lao để kể.

Mẫu 2

Việt quê ở Bến Tre. Chị gái là Quyết Chiến, hai chị em cùng đi bộ đội một ngày. Trong một trận đánh lớn trong rừng cao su, Việt dùng thủ pháo diệt một xe bọc thép Mĩ. Nhưng Việt đã bị thương nặng, ngất đi trên chiến trường, bị lạc đơn vị ba ngày đêm. Tỉnh rồi lại mê, mê rồi lại tỉnh, anh nhớ lại những kỷ niệm vui, buồn tuổi thơ, nhớ lại ba má, anh chị em, nhớ chú Năm. Cả ba lẫn má đều hy sinh trong chiến tranh. Việt và chị Chiến ra đi đánh giặc để báo thù cho ba má, để giải phóng quê hương, tiếp tục trang sử anh hùng của gia đình. Anh Tánh dẫn tiểu đội đi tìm Việt suốt 3 ngày, mấy lần đụng địch, lục suốt mặt trận dài dặc mới gặp được Việt và đưa về bệnh viện quân y. Lúc vết thương sắp lành, anh Tánh giục Việt viết thư cho chị Chiến.

Xem thêm: Tóm tắt tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi

10. Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)

Tóm tắt Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 1

Nhiếp ảnh Phùng đã từng tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ. Anh được trưởng phòng phân công xuống vùng biển để chụp một bức ảnh cảnh biển buổi sáng. Anh quan sát và giơ máy bấm máy. Đó là một cảnh "đắt" trời cho. " Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút màu hồng hồng của mặt trời chiếu vào". Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và rất đẹp. Nó đẹp như " bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ" . Phùng rất xúc động và nhận ra sự rung cảm của tâm hồn mình. Anh liên tưởng đến câu nói của ai đó " bản thân cái đẹp chính là đạo đức".

Ngay lúc ấy Phùng thấy mũi thuyền tiến thẳng vào bờ. Một người đàn ông và một người đàn bà rời thuyền. Tiếng quát của người đàn ông :" Cứ ngồi yên nay. Động nay tao giết cả mày đi bây giờ". Người đàn bà cao lớn, đường nét thô kệch mệt mỏi sau một đêm kéo lưới. Người đàn ông có tấm long rộng và cong như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ, lão đi chân chữ bát. Hai con mắt dữ tợn. Cả hai đến chỗ chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ bỏ lại. Người đàn ông trở nên hùng hổ, rút chiếc thắt long trongngười quật tới tấp vào lưng người đàn bà, vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn : " Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ". Giưã lúc ấy thằng Phác ( con của cặp vợ chồng) lao ra như một mũi tên. Phùng cũng lao tới. Khi anh tới nơi thì chiếc dây da nằm trong tay thằng Phác. Nó đánh vào ngực bố nó. Lão đàn ông giằng lại chiếc dây thắt lưng không được liền dang thẳng cách tay cho thằng bé 2 cái tát . Lão bỏ về thuyền , hai mẹ con ôm nhau khóc.

Ba hôm sau Phùng lại chứng kiến một cảnh tương tự. Chỉ có khác là chị thằng Phác giằng được con dao mà thằng em trai địng dùng làm vũ khí để bảo vệ bà mẹ. Không thể chịu được, Phùng xông ra buộc lão đàn ông chấm dứt hành động độc ác. Lão đánh trả, Phùng bị thương phải đưa vào bệnh xá của toà án huyện.Tại đây anh biết được cảnh ngộ qua lời tâm sự của người đàn bà hàng chài. Anh ngạc nhiên và thực sự thông cảm. Anh và chánh án Đẩu vỡ ra một điều nghịch lí , không có trong sách sở nhưng phải chấp nhận. Sau đó anh trở về phòng văn hoá , suy nghĩ về tấm ảnh chụp được trong lốc lịch.

Tóm tắt Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 2

Cắm trại trên biển nhiều ngày, Phùng đã chụp được những bức ảnh đắt giá về cảnh thuyền và biển cho bộ lịch năm mới. Tưởng chừng Phùng sẽ rời đi với tâm trạng vui vẻ và chiến lợi phẩm nộp lại cho trưởng phòng, thế nhưng trước mặt anh lúc này là một hiện thực phũ phàng. Con thuyền mà anh cho là có vẻ đẹp đắt giá là nơi người chồng đang hành hạ, đánh đập vợ mình một cách dã man. Đứa con của họ vì thương mẹ nên cũng đánh lại cha. Phùng ra tay ngăn cản nhưng không thành, người phụ nữ lúc này được mời lên chánh án. Phùng khuyên người đàn bà bỏ chồng nhưng không được. Người đàn bà ấy kể cho họ nghe lí do vì sao chị không thể bỏ người chồng vũ phu, tệ bạc ấy. Phùng hiểu rằng mọi thứ mình nhìn thấy không phải là toàn bộ câu chuyện. Anh rời đi với nỗi tiếc nuối, dù sau này, những tấm ảnh của Phùng được mọi người rất yêu thích nhưng anh vẫn luôn thấy ở đó những hình ảnh hiện thực đau thương đến không thể quên.

Xem thêm: Tóm tắt tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

11. Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt (Lưu Quang Vũ ): Gồm 7 cảnh

Tóm tắt Hồn Trương Ba da hàng thịt - Bài mẫu 1

Trương Ba là một người làm vườn tốt bụng, nhân hậu, rất cao cờ và thường đấu cờ với Đế Thích. Danh tiếng của ông vang đến tận trời xanh. Tuy nhiên, do sự làm ăn tắc trách mà Nam Tào gạch bừa tên Trương Ba, khiến ông phải chết oan. Theo gợi ý của Đế Thích, Nam Tào cho hồn Trương Ba nhập vào thể xác hàng thịt ngoài ba mươi tuổi mới mất ở làng bên. Trú nhờ thể xác hàng thịt, hồn Trương Ba đã gặp phải rất nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng; gia đình Trương Ba ngày càng lủng củng. Đặc biệt, Trương Ba dần dà tiêm nhiễm một số thói hư tật xấu và những nhu cầu vốn xa lạ với ông. Gay nhất là chị hàng thịt đòi hỏi Trương Ba phải là người đàn ông thực sự của chị. Lí trưởng nhân đấy sách nhiễu vòi tiền; con trai Trương Ba ngày càng đắc ý, lấn lướt, coi thường bố. Ngược lại, vợ, con dâu Trương Ba không thể chịu nổi và dần dần xa lánh, thậm chí cháu Trương Ba còn không nhận ông, không muốn đến gần khiến cho ông Trương Ba vô đau khổ. Trước nghịch cảnh ấy, trước những sự đau khổ của bản thân mình phải chịu khi sống nhờ trong xác anh hàng thịt. Trương Ba quyết định trả lại thân xác cho hàng thịt. Sau đó, ông lại được gợi ý nhập vào xác cu Tị mới mất. Lần này, ông thẳng thừng từ chối và kiên quyết lựa chọn cái chết để bảo vệ danh dự, nhân phẩm của bản thân khỏi bị vấy bẩn khi trong thân xác của người khác bởi những thói tầm thường, phàm tục.

Tóm tắt Hồn Trương Ba da hàng thịt - Bài mẫu 2

Trương Ba giỏi đánh cờ, bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai, Nam Tào và Đế Thích cho hồn TB nhập vào xác anh hàng thịt rồi chết. Trú nhờ linh hồn trong thể xác anh hàng thịt, TB gặp nhiều điều phiền toái: Lí trưởng sách nhiễu khiến con trai TB phải đưa hối lộ cho lí trưởng , để đến nửa đêm TB mới được rời nhà anh hành thịt về nhà mình; chi hàng thịt đòi chồng lại. Trong con mắt người thân, từ vợ, con dâu đến cháu gái, TB trở thành kẻ xa lạ…

TB đau khổ vi phải sống trái tự nhiên, giả tạo. Hồn TB bi thể xác hồn thịt xui khiến, dần dần bi nhiễm một số thói xấu, những cái tầm thường của anh đồ tể. Ý thức được điều đó, linh hồn TB giằn vặt đau khổ và đi đến quyết định chống lại bằng cách tách linh hồn ra khỏi thể xác anh hàng thịt. Xác hàng thịt chế giễu, ve van hồn TB thỏa hiệp.

Đế Thích đ̣ịnh giúp hồn TB nhập vào xác cu Tị, TB kiên quyết từ chối, xin cho cu Tị được sống, đồng thời trả xác lại cho anh hàng thịt và chấp nhận cái chết.

Xem thêm: Tóm tắt Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ

12. Thuốc - Lỗ Tấn

Mẫu 1

Truyện ngắn "Thuốc" của Lỗ Tấn bắt đầu với lão Hoa Thuyên đổ tiền mua chiếc bánh bao tẩm máu người chiến sĩ Hạ Du vừa bị giết để chữa bệnh cho con trai là Thuyên đang mắc bệnh lao. Lão Hoa Thuyên đánh cược tất cả và dấn thân vào hành trình không dễ dàng để có được chiếc bánh bao tận tay với hy vọng may mắn cho con. Tuy nhiên, bất chấp sự tưởng tượng của mọi người trong quán trà vào phương thuốc cổ quái, chiếc bánh bao tẩm máu người không thể chữa khỏi bệnh cho thằng Thuyên. Thuyên đã đi một chặng đường đau khổ và qua đời.

Sau đó, hai người mẹ, mẹ của Hạ Du và mẹ của thằng bé Thuyên, đến thăm mộ con trai mình trong ngày Tết Thanh Minh. Họ vượt qua một con đường trống trải, nơi chôn cất những người chết vì chém, tù với những người nghèo trong nghĩa địa để đến với mộ con. Bước qua những cơn đau buồn của cuộc đời, hai người bà tựa nhau và chia sẻ nỗi buồn của mình. Họ phát hiện trên mộ Hạ Du có một vòng hoa hồng và trắng xen kẽ nhau, tạo nên một khung cảnh đầy ý nghĩa. Mẹ Hạ Du không thể nén nỗi đau của mình và khóc lên, kêu oan cho con. Hai bà mẹ cảm thấy sự hiện diện của nhau trong những giây phút này là trọn vẹn ý nghĩa và cảm thấy họ không còn đơn độc trong nỗi đau của mình nữa.

Mẫu 2

Thằng bé Thuyên bị bệnh lao, bố mẹ nó được lão cả Khang bày cho bài thuốc ăn bánh bao tẩm máu người chết sẽ hết bệnh. Nhân dịp chiến sĩ cách mạng Hạ Du bị chém đầu, bố mẹ thằng bé Thuyên mua được cái bánh bao tẩm máu của Hạ Du cho Thuyên ăn. Ăn xong, nó vẫn chết. Mộ của Thuyên và Hạ Du chôn cạnh nhau. Hai bà mẹ gặp nhau tại đây đều xót xa cho cái chết của con mình. Trên mộ Hạ Du có vòng hoa hồng, hai bà mẹ đều ngạc nhiên tự hỏi “thế là thế nào”.

13. Ông già và biển cả - Ernest Hemingway

Mẫu 1

Sau khi kéo được con cá kiếm vào mạn thuyền lão Xanchiagô đã mệt lả, những vết máu ở con cá kiếm lan ra đã làm cho bầy cá mập kéo đến. Lão Xanchiagô lại một lần nữa chiến đấu với đàn cá mập nhưng đàn cá mập, vẫn lao vào tấn công con cá kiếm và chiếc thuyền của lão Xanchiagô. Ông đã chiến đấu với chúng một cách quyết liệt đến vô vọng. Cuối cùng khi lão kéo được con cá kiếm lên thì chỉ còn trơ lại bộ xương, ông kéo thuyền vào bờ và trở về lều của mình.

Mẫu 2

“Ông già và biển cả” là tác phẩm nổi tiếng của Hê-Minh-Uê với nguyên lí tảng băng trôi bảy phần chìm một phần nổi. Đoạn trích trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 nằm ở cuối chương bảy và đầu chương tám trong tổng số mười chương. Đoạn trích kể về cuộc rượt đuổi và chiến thắng của ông lão Xan-ti-a-gô và con cá kiếm.

Xan-ti-a-gô là nhân vật trung tâm của tác phẩm sau 84 ngày lênh đênh trên biển không câu được con cá nào nhưng sang ngày thứ 85 vận may đã đến với ông khi câu được một con cá kiếm to, khỏe và đẹp.Đoạn trích kể hành trình ba ngày vật lộn, chiến đấu kịch liệtcủa ông già với con cá. Cuối cùng con cá kiếm cũng đã kiệt sức ông lão khéo léo thu dây và dồn hết sức lực phóng lao vào nơi nguy hiểm, quan trọng nhất giết chết con cá. Máu loang đỏ khắp cả một vùng biển, xác con cá kiếm trắng bạc và bồng bềnh nổi lên theo từng cơn sóng vỗ mạn thuyền. Thiên nhiên đã khuất phục trước ý chí quyết tâm chinh phục và tài năng chiến đấu khéo léo của ông lão Xan-ti-a-gô.

14. Số phận con người - SôLôKhốp

Mẫu 1

Chiến tranh bùng nổ, Xô-cô-lốp để lại vợ con ở quê nhà để lên đường tham chiến, chống lại quân phát xít Đức. Trong chiến đấu anh từng bị thương nặng, bị bắt làm tù binh và trốn thoát khỏi nhà tù Đức. Khi trở về, Xô-cô-lốp nghe tin vợ con mất do bom của kẻ thù, lúc này niềm hi vọng duy nhất được anh gửi gắm nơi người con trai làm sĩ quan pháo binh Antoni. Bất hạnh thay, con trai anh cũng hi sinh đúng ngày giành chiến thắng. Từ một người có gia đình hạnh phúc, Xô-cô-lốp trở thành người không nhà cửa, không gia đình. Chiến tranh kết thúc, Xô-cô-lốp không trở về quê nhà mà đến nhà một người bạn cũ ở U-riu-pin-xcơ và làm lái xe ở đây. Trong một lần tình cờ, Xô-cô-lốp đã gặp bé Va-ni-a, đứa trẻ mồ côi tội nghiệp. Anh đã nhận nuôi Va-ni-a, từ đây hai người bắt đầu tạo dựng một gia đình nhỏ hạnh phúc. Khi lái xe Sô-cô-lốp gặp xui xẻo khi đâm phải con bò, anh bị tước bằng lái. Sô-cô-lốp quyết định cùng con trai đến Ka-sa-rư nhờ một người bạn để tìm công việc mới và tiếp tục chăm lo cho con.

Mẫu 2

Chiến tranh kết thúc, Xôcôlốp giải ngũ. Anh không trở về quê hương, sống trơ trọi tại nhà một người bạn làm nghề lái xe. Tình cờ anh gặp bé Vania và nhận bé làm con nuôi, vì Vania có hoàn cảnh giống anh: Không gia đình, không nơi nương tựa. Tình cảm đứa bé làm anh ấm lại. Hai tâm hồn sưởi ấm cho nhau. Sau đó, Xôcôlốp rủi ro gây ra một tai nạn lái xe và bị mất bằng lái. Anh phải đổi chỗ ở để kiếm việc làm và để quên người thân. Những đêm đêm trong những giấc mơ Xôcôlốp vẫn thấy người thân hiện về và anh đã khóc trong giấc mơ. Mặc dù cuộc sống còn nhiều nỗi đau, nhiều khó khăn, anh vẫn còn niềm tin hướng về tương lai và nhất là sự trưởng thành của đứa trẻ.

II. Tác phẩm đọc thêm

1. Những ngày đầu tiên của nước Việt Nam mới (Võ Nguyên Giáp ):

4 đoạn :

  • Đoạn 1 : Từ đầu đến "ập vào miền Bắc" : Tư thế đứng vững mạnh, hiên ngang của dân tộc thời chống Mĩ, tác giả hồi tưởng về "giờ phút hiểm nghèo" của nước Việt Nam mới.
  • Đoạn 2 : Tiếp theo đến "thêm trầm trọng" : Những khó khăn mọi mặt của đất nước tưởng khó có thể vượt qua.
  • Đoạn 3 : Tiếp theo đến "Ba trăm bảy mươi ki-lô-gam vàng : Những biện pháp tích cực của chính quyền mới và quyết tâm vượt qua mọi khó khăn thử thách của toàn Đảng, toàn dân ta.
  • Đoạn 4 : Còn lại : Hình ảnh Bác Hồ như sự tượng trưng cho một chính thể mới, nhà nước của dân, do dân, vì dân.

2. Bắt sấu ở rừng U Minh Hạ (Sơn Nam)

Truyện kể về tài bắt sấu của ông năn Hên, người thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang. Nghe tin ngọn rạch Cái Tàu có cái ao sấu " nhiều như trái mù u chin rụng " , ông năm Hên tìm đến để bắt sấu cho dân làng ở đó. Và ông đã bắt sấu bằng… tay không ! Chỉ can một người dẫn đường đến cái ao cá sấu. Trên xuồng đi bắt cá sấu cũng chỉ có một loin nhang trần và một hũ rượu. Vậy mà , chỉ một giờ đồng hồ sau, Tư Hoạch (người dẫn đường) đã bơi xuồng về như dạo mát , kéo theo sau chiếc bè quái dị được kết bằng 45 con cá sấu còn sống nhăn, con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòm như một khúc cây khô dài. Bà con chưa heat ngạc nhiên , khâm phục thì ở mé rừng , ông năm Hên đã xuất hiện như tướng ông thầy pháp, " áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua, quơ lại trên tay". Có một vẻ gì như thần bí, nhưng thực chất đây cũng là một " nghệ sĩ tay không bắt sấu" ở rừng U Minh Hạ.

Xem thêm: Tóm tắt tác phẩm Bắt sấu rừng U Minh Hạ của nhà văn Sơn Nam

3. Mùa lá rụng trong vườn: (Ma Văn Kháng)

Chuyện xảy ra ngay trong gia đình ông Bằng , một gia đình được coi là nền nếp, luôn giữ gia pháp, gia phong nay trở nên chao đảo trước những thay đổi lớn của XH. Những con người hôm qua chấp nhận hy sinh nay lại rơi vào quyền lực của tiền tài (Lí), có người hôm qua là anh hùng nay trở nên lạc lõng ( Đông). Có người xưa là bộ đội nay trốn sang nước ngoài ( Cừ)…Nhưng cũng có những người trong gia đình giữ vững được truyền thống gia đình như ông Bằng ,chị Hoài . Chị Hoài - người con dâu trưởng gia đình ông Bằng, vợ anh cả Tường liệt sĩ- nay có gia đình riêng, nhưng vẫn gắn bó sâu sắc với gia đình nhà chồng trước. Ơ nông thôn, công việc bận rộn quanh năm , lại là chủ nhiệm hợp tác xã , mẹ của 4 đứa con , nhưng đúng chiều 30 tết , chị vẫn lên Hà Nội thăm gia đình ông Bằng và cúng tất niên cùng với bố chồng và các em. Mọi người trong gia đình đều ngạc nhiên và mừng rỡ. Ông Bằng và chị Hoài không nén được xúc động trước cuộc gặp gỡ cuối năm. Rồi cảnh cúng gia tiên nghiêm trang , thiêng liêng , sau đó là bữa cơm sum hợp gia đình chiều 30 tết đầm ấm , vui vẻ…Tất cả đã nói lên nét đẹp tình người gắn bó với nhau- dù trong hoàn cảnh nào- và cả nét đẹp truyền thống văn hoá dân tộc trong ngày Tết Nguyên đán.

Xem thêm: Tóm tắt tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng

4. Một người Hà Nội (Nguyễn Khải)

Mẫu 1

Nhân vật chính trong truyện ngắn là cô Hiền, một người Hà Nội, cùng đất nước trải qua nhiều thăng trầm, biến cố nhưng vẫn giữ được phẩm chất và nét văn hóa của Hà Nội. Cô Hiền là một người thẳng thắn, không giấu giếm quan điểm. Khi còn trẻ cô là người yêu thích văn chương. Khi lấy chồng cô luôn quán xuyến gia đình và dạy dỗ con cái từ cách đi đứng, ăn nói.... sao cho nổi bật được nét văn hóa của một người Hà Nội. Khi hòa bình lặp lại ở miền Bắc, cô vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều. Cô luôn dạy con sống với cốt cách nguyên vẹn của người Hà Nội và không ngại cho con ra chiến trường. Khi đất nước bước vào thời kì đổi mới, cô Hiền cũng vẫn giữ trọn cốt cách của mình và thể hiện niềm tin vào một tương lai tốt đẹp phía trước.

Mẫu 2

Nhân vật trung tâm trung truyện ngắn là cô Hiền , một người Hà Nội bình thường. Cũng như những người Hà Nội bình thường khác, cô đã cùng HN , cùng đất nước trải qua những biến động, thăng trầm nhưng vẫn giữ được cốt cách HN, cái bản lĩnh văn hoá của người HN. Cô sống thằng thắn, chân thành, không giấu giếm quan điểm,thái độ riêng của mình với mọi hiện tượng xung quanh.
Thời trẻ, cô Hiền là một người tài hoa, yêu thích văn chương, giao du với đủ loại thanh niên con nhà giàu, nghệ sĩ văn nhân, nhưng khi chọ chồng cô không hề lãng main mà chọn ông anh giáo dạy cấp Tiểu học hiền lành , chăm chỉ . Cô tính toán kĩ lưỡng khi quản lí gia đình, dạy dỗ con cái từ cách ăn nói , đi đứng… sao cho thể hiện được nét văn hoá của người HN

Hoà bình lập lại ở miền Bắc, cô Hiền nói về niềm vui và cả những cái có phần máy móc, cực đoan của cuộc sống xung quanh: vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, theo cô chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá .... Cô tính toán mọi việc trước sau rất khôn khéo và đã tính là làm, đã làm là không để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ...

Miền Bắc bước vào thời kì đương đầu với chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mĩ. Cô Hiền dạy con cách sống “biết tự trọng, biết xấu hổ”, biết sống đúng với bản chất người Hà Nội. Đó cũng là lí do vì sao cô sẵn sàng cho con trai ra trận: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn. Nó giám đi cũng là biết tự trọng”...

+ Sau chiến thắng mùa xuân 1975, đất nước trong thời kì đổi mới, giữa không khí xô bồ của thời kinh tế thị trường, cô Hiền vẫn là “một người Hà nội của hôm nay, thuần tuý Hà Nội, không pha trộn”. Từ chuyện cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn, cô Hiền nói về niềm tin vào cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

Lịch thi THPT Quốc Gia 2024

Xem chi tiết lịch thi: Lịch thi THPT Quốc Gia 2024

Gửi đề thi để nhận lời giải ngay: https://www.facebook. com/com.VnDoc

Chia sẻ, đánh giá bài viết
38
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Thi THPT Quốc gia môn Văn

    Xem thêm