Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Đề thi học kì 2 môn Ngữ văn lớp 8 Phòng GD và ĐT Hoài Nhơn, Bình Định năm 2016

Đề kiểm tra học kì 2 môn Ngữ văn lớp 8 có đáp án

VnDoc xin giới thiệu tới các bạn bài test Đề thi học kì 2 môn Ngữ văn lớp 8 Phòng GD và ĐT Hoài Nhơn, Bình Định năm 2016. Tham gia làm bài để củng cố lại kiến thức đã học về các tác phẩm văn học cũng như các loại câu: câu cầu khiến, nghi vấn,.... Chúc các bạn ôn tập tốt!

Bạn cần đăng ký tài khoản VnDoc Pro để làm bài trắc nghiệm này! Tìm hiểu thêm
  • I. Trắc nghiệm

    Bài thơ “Quê hương” Của tác giả Tế Hanh được rút từ tập thơ nào?

  • Câu 2:

    Bản dịch bài thơ ”Đi đư­ờng” thuộc thể thơ gì?

  • Câu 3:

    Trong các câu sau, câu nào là câu nghi vấn?

  • Câu 4:

    Trong hội thoại, người có vai xã hội thấp phải có thái độ ứng xử với người có vai xã hội cao như thế nào?

  • Câu 5:

    Nội dung chủ yếu của bài thơ “Đi đường” là gì?

  • Câu 6:

    Trong câu “Lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!” đã thực hiện kiểu hành động nói nào?

  • Câu 7: Nối cột A (văn bản) và cột B (nội dung, đề tài) cho phù hợp
    Văn bản (A)Nội dung đề tài (B)
    1. Nhớ rừnga. Sự uất ức của người tù Cách mạng
    2. Quê hươngb. Sự hòa hợp giữa người và trăng
    3. Khi con tu húc. Lời con hổ ở vườn Bách thú
    4. Ngắm trăngd. Nhớ về một làng chài ven biển
    e. Từ việc đi đường để nói về đường đời
    Trả lời:
    1 - .....; 2 - ........; 3 - .......; 4 - ......
    1 - c; 2 - d; 3 - a; 4 - b
  • Câu 8: Điền cụm từ thích hợp vào chỗ chấm.
    1. Văn nghị luận rất cần……………………………………. Nó giúp cho văn nghị luận có hiệu quả thuyết phục hơn, vì nó tác động mạnh mẽ đến tình cảm của người đọc (người nghe).
    yếu tố biểu cảm
  • 2. Vai xã hội là vị trí của người………………………………………. đối với người khác trong cuộc thoại.
    tham gia hội thoại
  • Câu 10: Những câu sau đúng hay sai?
    1. Ông Đồ” của Vũ Đình Liên là bài thơ ngôn ngữ bình dị mà cô đọng đầy gợi cảm.
  • 2. Câu nghi vấn là câu có chức năng dùng để hỏi.
  • 3. Bài thơ “Nhớ rừng” của Tố Hữu đã thể hiện lời con hổ đang bị giam cầm ở vườn Bách thú.
  • 4. Câu nghi vấn không chỉ dùng để hỏi mà còn dùng để cầu khiến, khẳng định, phủ định, đe dọa, bộc lộ tình cảm, cảm xúc.
  • II. Tự luận
    Câu 1: 
    Trong những đoạn trích sau, câu nào là câu cầu khiến?
    a) Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết!
    Trả lời:
    Câu cầu khiến là: ............
    Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi.
  • b.

    Ông đốc tươi cười nhẫn nại chờ chúng tôi:

    – Các em đừng khóc. Trưa nay các em vẫn được về nhà cơ mà. Và ngày mai lại được nghỉ cả ngày nữa. (Thanh Tịnh, “Tôi đi học”)
    Trả lời:
    Câu cầu khiến là: ..............

    Các em đừng khóc.
  • Câu 2:

    Bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh là bức tranh quê với đường nét tươi tắn, khỏe khoắn được họa lên từ tình cảm đậm đà, trong sáng của tuổi hoa niên dành cho quê hương mình.
    Em hãy làm sáng tỏ nội dung trên. Từ đó, liên hệ tình cảm mình với quê hương.

    * Yêu cầu:+ Hình thức: Có bố cục 3 phần theo phương thức văn nghị luận, lời văn trong sáng, có sự kết hợp với các yếu tố khác như miêu tả, biểu cảm. + Nội dung: Làm rõ nhận định: Bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh là bức tranh quê với đường nét tươi tắn, khỏe khoắn được họa lên từ tình cảm đậm đà, trong sáng của tuổi hoa niên dành cho quê hương mình.– Một bức tranh quê hương tươi sáng, khỏe khoắn, đầy gợi cảm. Cảnh thiên nhiên trong bức tranh trong trẻo, tươi tắn, đầy thi vị “trời trong”, “gió nhẹ”, “sớm mai hồng”. Đặc biệt là cảnh “dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá” lúc bình minh lên và cảnh “ồn ào trên bến đổ”, “tấp nập đón ghe về" trên bến ngày hôm sau với “cá đầy ghe” “thân bạc trắng” đầm ấm, rộn ràng. Bức tranh có những hình ảnh vừa chân thực vừa lãng mạn, hùng tráng từ hình ảnh “ cánh buồm trương to như mảnh hồn làng” đến hình ảnh con người “dân chài lưới làn da ngăm rám nắng. Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”… – Bài thơ bộc lộ tình cảm đậm đà của tác giả khi xa quê. Nếu không gắn bó, yêu quê hương mình bằng tình cảm trong sáng, đằm thắm thì nhà thơ không thể cảm nhận và thể hiện một cách tài hoa, sinh động những vẻ đẹp của người quê, cảnh quê trong những câu thơ, vần thơ tươi tắn, nồng nàn đến như vậy. – Tình cảm của em với quê hương mình.

    BÀI MẪU

    Ngược dòng thời gian, Quê hương (1939) của Tế Hanh thực sự là mảnh hồn trong trẻo mà nhà thơ có được trước Cách mạng tháng Tám.

    Giữa lúc phần đông các thi sĩ của phong trào thơ mới đang thở than, sướt mướt trong dàn đồng ca sầu với tình yêu tuyệt vọng, mối sầu cô đơn thì Quê hương của Tế Hanh cất lên như một tiếng thơ khỏe khoắn, khác lạ:

    Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
    Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.

    Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.

    Tế Hanh là một nhà thơ lãng mạn, nhiều người cho rằng làm thơ lãng mạn phải nói đến tình yêu đau khổ, phải nhớ nhung đắm đuôi. Bài thơ này được viết khi ông mười tám tuổi, với bao mơ mộng của tuổi học trò. Tác giả xa quê nhớ về làng tôi ở nhưng cảm hứng thơ lại phân chấn, không hề gây cảm giác xa xôi, buồn man mác.

    Thơ hoài niệm thường thấm đẫm nỗi buồn, bởi đó là kỷ niệm chập chờn hiện lên trong ký ức, trong nỗi nhớ thương. Ta nhớ tới vần thơ xao xác buồn đến nao lòng của Lưu Trọng Lư:

    Mỗi lần nắng mới hát bên song
    Xao xác gà trưa gáy nào nùng
    Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
    Chập chờn sống lại những ngày không.
    (Nắng mới)

    Thế nhưng với Tế Hanh, cũng là thơ hoài niệm nhưng hình ảnh thơ khoẻ khoắn, cụ thể, rõ ràng như hiện thực trước mắt, sống động đến vô cùng. Thời khắc nhà thơ nhớ về làng quê mình ấy là:

    Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng

    Câu thơ mở ra không gian bát ngát, trong sáng, màu sắc rạng rỡ của miền biển khơi. Lời thơ như có nhạc, có hoa, có tiếng sóng, tiếng gió, thật tươi nhạc, tươi vui không chút buồn ảo não.

    Nhớ về làng chài, nhà thơ nhớ cảnh đoàn thuyền ra khơi nhớ cái khỏe mạnh, phóng khoáng của dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Con thuyền không phải buộc mãi tấm lòng nhớ nơi vườn cũ (Đỗ Phủ) hay Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi (Anh Thơ) mà con thuyền đầy phấn khích, dường như cũng mang sức trẻ, lướt nhanh trên đầu sóng, ngọn gió, hăm hở:

    Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
    Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang

    Miêu tả cánh buồm của con thuyền ấy, nhà thơ đã tìm đến một hình ảnh so sánh, liên tưởng đẹp:

    Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
    Rướn thân tráng bao la thâu góp gió

    Cánh buồm – cái cụ thể hữu hình được so sánh với hồn làng – cái trừu tượng vô hình. Hồn làng tức linh hồn, là nét riêng sâu thẳm, linh thiêng của quê hương, của làng chài mà nhà thơ cảm nhận qua một cánh buồm giương. Hình ảnh thơ thật khoáng đạt, kỳ vĩ, mang sức vóc tung tỏa của nó. Đây cũng là sự phát hiện tinh tế, chính xác của nhà thơ: cánh buồm thân thuộc, gắn bó, không thể thiếu trong đời sống mưu sinh, biểu tượng của một làng chài.

    Nhà thơ còn nhân hóa cánh buồm no gió ấy mang sức vóc cường tráng, khỏe mạnh của một chàng trai rướn thân trắng bao la thâu góp gió. Không hiểu sao đọc câu thơ này của Tế Hanh tôi lại nhớ tới câu thơ thật lãng mạn của Tố Hữu trong niềm vui bất tuyệt:

    Ngực lép bốn nghìn năm trưa nay cơn gió mạnh
    Thổi phồng lên, tim bỗng hóa mặt trời

    Ngôn ngữ miêu tả trong câu thơ của Tế Hanh giàu giá trị tạo hình, đường nét phóng khoáng, khiến con người, con thuyền, cánh buồm cũng nổi hình, nổi khối, cựa quậy, sống động giống như những sinh thể kỳ vĩ.

    Cảnh dân làng ra khơi đánh cá trở về trong nỗi nhớ của nhà thơ cũng thật tươi vui, gợi không khí thanh bình, no ấm:

    Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
    Khắp dán làng tấp nập đón ghe về.
    “Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe”
    Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
    Dân chài lưới, làm da ngăm rám nắng,
    Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
    Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
    Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

    Giống như bàn tay của nhà điêu khắc, ngôn ngữ tạo hình của Tế Hanh đã tạc nên bức phù điêu hùng vĩ về chân dung con người làng chài rắn chắc, khỏe mạnh như bức tượng đồng nâu với làn da ngăm rám nắng cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Họ là kết tinh cho sức mạnh dãi dầu nắng, gió, sóng biển. Họ là đứa con của biển .

    Vẫn con thuyền ra khơi, giờ đây trở về sau một ngày chạy đua cùng sóng gió được nhà thơ nhân hóa giống như một con người, một nhà hiền triết với dáng nằm thư giãn, lặng lẽ, suy tư:

    Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
    Nghe chất muối thấm dần trong thở vỏ.

    Nghe (cảm nhận bằng thính giác) nhưng ở đây lại nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ; sự chuyển đổi cảm giác thật tinh tế. Không chỉ con người mà ngay đến cả con thuyền cũng thấm đẫm hương vị biển, thấy vị mặn mòi của muối biển đang râm ran trong cơ thể mình hay đó chính là cái dư vị dịu êm mà giản dị của nhịp đời miền quê biển.

    Tuổi nhỏ của Tế Hanh chắc chắn đã trải qua cái mùi nồng mặn của những mẻ cá vàng, trong lời ru bát ngát, êm êm của bốn bề sóng vỗ thì mới viết được những câu thơ như thế này. Không là người con của vạn chài cũng không thể viết được những câu thơ như thế. Khi biết âm thầm hóa hồn mình vào hồn thơ để lắng nghe, mở rộng mọi giác quan để phập phồng thu nhận mọi cảm giác Tế Hanh mới viết được những câu thơ tài hoa đến vậy. Phải chăng chất muối mặn mòi, thấm dần trong từng thớ vỏ chiếc thuyền nay đã thấm sâu vào làn da, thớ thịt, tâm hồn Tế Hanh để thành niềm ám ảnh bâng khuâng, kỳ diệu. Tế Hanh thật tài tình và thật tinh khi sống trong lòng sự vật có khả năng nghe thấu tiếng lòng, cảm giác của những vật vô tri. Chẳng thế mà trong lời con đường quê nhà thơ cũng đã nhập hồn vào con đường nhỏ chạy lang thang để mang nỗi buồn vương chạy khắp làn.
    Kết thúc bài thơ có hai chữ nhớ:

    Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
    Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá

    nhưng ý thơ không hề gây cảm giác yếu mềm, bi lụy mà vẫn khỏe khoắn, tươi mới. Nỗi nhớ ấy gắn liền với những gì thân thuộc của làng chài màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, sắc màu trong sáng, hương vị nồng ấm đậm đà . Nỗi nhớ cồn lên, mãnh liệt tồi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quả.

    Đó là hương vị quê hương, hương vị thân thiết, ruột thịt của người thân.

    Bài thơ có thể coi là bức tranh quê đẹp, trong sáng, lời thơ khỏe khoắn. Nổi bật trong bức tranh ấy là ba hình ảnh: dân chài lưới, cánh buồm giương, con thuyền. Hình ảnh nào cũng đẹp, sắc nét, phóng khoáng đầy sức sống, đậm đà hương vị biển. Đó có thể coi là nét riêng, điệu hồn quê hương mà nhà thơ vương vấn suốt đời.

    Cũng chính vì thế mà bức tranh quê trong nỗi nhớ của Tế Hanh không có nét dáng buồn như bức tranh quê của các nhà thơ mới với đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi quán tranh đứng im im hoa xoan tím rụng tơi bời (Anh Thơ), mà là bức tranh quê với đường nét tươi tắn, khỏe khoắn được họa lên từ tình cảm đậm đà, trong sáng của tuổi hoa niên dành cho quê hương mình.

    Nếu không gắn bó, yêu thương quê hương mình bằng tình cảm trong sáng, đằm thắm thì nhà thơ không thể cảm nhận và thể hiện được một cách tài hoa, sinh động những vẻ đẹp của người quê, cảnh quê trong những câu thơ tươi tắn, nồng nàn như vậy.

    Quê hương (1939) của Tế Hanh thật đúng là mảnh hồn trong trẻo nhất mà ta gặp trong thơ trước Cách mạng tháng Tám.

  • Đáp án đúng của hệ thống
  • Trả lời đúng của bạn
  • Trả lời sai của bạn
Đánh giá bài viết
20 4.734
Sắp xếp theo

    Đề thi học kì 2 lớp 8 Online

    Xem thêm