Cảm nhận hình tượng cây xà nu trong đoạn đầu
Cảm nhận hình tượng cây xà nu trong đoạn đầu do VnDoc biên soạn bám sát chương trình Ngữ Văn 12 sẽ giúp các em học sinh có thêm tài liệu học tập Nghị luận văn học, ôn thi học kì và luyện tập các đề văn lớp 12 có đáp án. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết.
Phân tích hình tượng cây xà nu
Bản quyền tài liệu thuộc về VnDoc.
Nghiêm cấm mọi hành vi sao chép nhằm mục đích thương mại.
I. Dàn ý Cảm nhận hình tượng cây xà nu trong đoạn đầu
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Trung Thành, truyện ngắn Rừng xà nu và hình tượng cây xà nu trong đoạn đầu.
2. Thân bài
a. Khái quát chung về cây xà nu
Cây xà nu chính là cây thông 3 lá, người dân tộc ở các vùng núi Tây Nguyên gọi là cây loong rúh.
Thân cây thẳng tròn, có vỏ màu nâu xám, nứt dọc rãnh sâu, tán cây hình trứng rộng. Lá cây cứng, hình kim, dài 20-25 cm và thường có màu xanh ngọc, đính 3 lá trên một đầu cành ngắn.
b. Hình tượng cây xà nu trong đoạn đầu Rừng xà nu
Cây xà nu hiện lên với hàng ngàn, hàng vạn cây, cây nào cũng bị thương do bom đạn của quân giặc, có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, ở chỗ viết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu.
Cây có sức sống mãnh liệt, sự sinh sôi nảy nở phong phú: cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn lao thẳng lên bầu trời, rất ham ánh nắng mặt trời.
Đứng trên đồi xà nu, nhìn ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
→ Cây xà nu với sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của mình là đại diện, biểu tượng cho những người dân làng Xô Man kiên cường, gan dạ, can đảm, trước sự hung hăng, tàn bạo của quân giặc nhưng tất cả đều dũng cảm đấu tranh cho dù phải hi sinh tính mạng của mình.
3. Kết bài
Khái quát lại hình tượng cây xà nu trong đoạn đầu và cây xà nu xuyên suốt truyện ngắn đồng thời nêu cảm nghĩ.
II. Văn mẫu Cảm nhận hình tượng cây xà nu trong đoạn đầu
1. Cảm nhận hình tượng cây xà nu trong đoạn đầu mẫu 1
Trong kho tàng nền văn học Việt Nam vô cùng phong phú, chúng ta không thể không nhắc đến đề tài kháng chiến suốt bao nhiêu năm gian khổ. Có nhiều tác giả đã vô cùng thành công khi viết về cuộc sống của con người trong thời kì chiến đấu, một trong số đó phải kể đến nhà văn Nguyễn Trung Thành với truyện ngắn Rừng xà nu. Đầu truyện ngắn, hình ảnh cây xà nu hiện ra gây ám ảnh với bạn đọc.
Cây xà nu chính là loại cây thông ba lá, người dân tộc ở các vùng núi Tây Nguyên gọi là cây loong rúh. Thân cây thẳng tròn, có vỏ màu nâu xám, nứt dọc rãnh sâu, tán cây hình trứng rộng. Lá cây cứng, hình kim, dài 20-25 cm và thường có màu xanh ngọc, đính 3 lá trên một đầu cành ngắn.
Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi bếp lửa gia đình, khói xà nu nhuộm bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi sáng sân nhà Ưng trong những đêm lễ hội...”. Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà nu. Khi Nguyễn Trung Thành viết: “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng nó bắn đã thành lệ, ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn”, nhà văn đã phản ảnh không khí căng thẳng của thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự sống và cái chết. Nổi bật trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những đặc điểm nổi bật của câu xà nu. Cũng như bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và khí trời "trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy... ít có loài cây nào ham ánh sáng đến thế" cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên giữa bầu trời cao rộng.
Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như bao cánh rừng khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội "Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn". Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷ diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt "cạnh cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời". Tư thế vươn lên mạnh mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh "đố chúng nó giết được cây xà nu đất ta". Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng xà nu vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ "cứ thế hai ba năm sau, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng Xô man".
Cây xà nu với sức sống mãnh liệt của mình đã bao phủ, che chở cho dân làng Xô Man suốt những năm tháng kháng chiến và cả trong cuộc sống đời thường. Khắp nơi trên mảnh đất ấy, cây xà nu mọc lên tươi tốt, đứng trên đồi xà nu, nhìn ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
Cây xà nu là đại diện cho người dân Xô Man, đức tính kiên cường, sức sống mạnh mẽ của xà nu cũng là những phẩm chất tốt đẹp của con người nơi đây. Nhiều năm tháng qua đi nhưng cây xà nu nói riêng và hình tượng dân làng Xô Man nói chung vẫn giữ nguyên đẹp ban đầu và gây ấn tượng sâu sắc với nhiều thế hệ bạn đọc.
2. Cảm nhận hình tượng cây xà nu trong đoạn đầu mẫu 2
Nếu súng là phương tiện đấu tranh của người lính thì nhà văn lại dùng chính ngòi bút của mình để làm vũ khí chống lại giặc ngoại xâm. Trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhà văn Nguyễn Trung Thành không chỉ có những trải nghiệm phong phú của một người lính mà còn có nguồn chất liệu hiện thực dồi dào về cuộc chiến tranh. Những tác phẩm của ông đều tái hiện được không khí dữ dội của cuộc kháng chiến và vẻ đẹp anh hùng bên trong mỗi con người Việt Nam. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông có thể kể đến là "Rừng xà nu". Qua tác phẩm "Rừng xà nu" nhà văn đã khắc họa thành công hình ảnh của cây xà nu, qua đó làm nổi bật vẻ đẹp sử thi của những con người anh hùng làng Xô Man.
Nguyễn Trung Thành (1932) là nhà văn có duyên nợ với đất rừng Tây Nguyên cho nên những sáng tác của ông đều mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Tác phẩm "Rừng xà nu" được sáng tác năm 1965 là tác phẩm nổi tiếng nhất trong số những sáng tác của Nguyễn Trung Thành ở những năm kháng chiến chống Mỹ. Hình tượng cây xà nu là hình tượng xuyên suốt tác phẩm đã mang lại một không khí đậm đà hương vị núi rừng Tây Nguyên.
Xà nu là một loài cây họ thông, nhựa và gỗ của chúng đều đem lại giá trị sử dụng cao, chúng có gắn bó mật thiết với con người Tây Nguyên. Bất cứ cuộc chiến tranh nào đi qua cũng để lại muôn vàn sự đau thương và mất mát. Với cây xà nu cũng vậy, chúng phải hứng chịu hầu hết đạn đại bác nhưng vẫn có sức sống mãnh liệt, kiên cường. Hình ảnh rừng xà nu xuất hiện từ ngay những dòng đầu của tác phẩm và được nhắc lại nhiều lần đã tạo ấn tượng ám ảnh trong lòng người đọc. Rừng xà nu rộng lớn, đông đảo, hùng vĩ, là nạn nhân của bom đạn nên cả rừng không có cây nào là không cây nào bị thương. Rừng xà nu nằm trong sự hủy diệt tàn bạo của chiến tranh khiến cho "có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão", "ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn". Bởi vậy cây xà nu không chỉ được biết đến là hiện thân của cái đẹp mà chúng còn phải gánh chịu nhiều đau thương giống như những người lính phải từ bỏ sinh mạng trong chiến tranh.
Đau thương là thế, hi sinh là thế nhưng những cây xà nu vẫn rất mạnh mẽ để vươn lên. Chúng khao khát sống đến mãnh liệt, ham ánh sáng mặt trời đến mức "nó phóng rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng". Nhờ có sức sống kiên cường, bất khuất, bất diệt mà những thế hệ xà nu cũng vì thế mà chúng cứ nối tiếp nhau. "Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời". Hình ảnh của cây xà nu đã giúp ta gợi nhớ đến hình ảnh cây tre Việt Nam "Chẳng may thân gãy cành rơi/ Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng". Từ đó, ta thấy được ý chí chiến đấu bền vững, quật cường của nhân dân ta khi lớp này già đi thì đã có lớp trẻ khác thay thế. Bên cạnh những cây xà nu con không chịu được vết thương thì vẫn có những cây vượt lên được hơn cao đầu người khiến cho bom đạn của kẻ thù không thể nào hạ gục được chúng, chúng lớn nhanh thật nhanh để thay thế cho những cây đã ngã. Hình ảnh cây xà nu chính là hình ảnh ẩn dụ cho niềm ham muốn tự do tha thiết của người dân Tây Nguyên vì họ luôn hướng về phía ánh sáng của Đảng, của cách mạng với niềm tin mãnh liệt vào một ngày giải phóng.
Dù phải hi sinh trước bom đạn chiến tranh nhưng cây xà nu vẫn luôn là bức tường thành vững chắc bảo vệ, che chở cho người dân Tây Nguyên. Rừng xà nu còn là ẩn dụ cho những người lính chiến đấu bảo vệ đất nước: "Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng". Sự hy sinh thầm lặng của rừng cây xà nu đã khiến cho người đọc có những liên tưởng xa xăm. Để có được hòa bình như ngày hôm nay thì đã có rất nhiều vị anh hùng đã phải đánh đổi cả sự sống và nhiều thứ tình cảm thiêng liêng khác để một lòng đánh bại quân thù. Nhiều cây xà nu mọc cùng nhau trên một ngọn đồi hết lớp này qua lớp khác tạo thành rừng xà nu chính là vẻ đẹp của sự đông đảo và vững chắc khiến cho không gì có thể đánh bại được chúng: "Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân trời". Rừng xà nu là biểu tượng của Tây Nguyên nói riêng và của toàn dân tộc Việt Nam nói chung vì chúng có những phẩm chất đáng trân trọng giống như con người Việt Nam vậy.
Cây xà nu là hình tượng thẩm mĩ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng đã được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng tất cả niềm say mê , tin yêu và trân trọng. Nghệ thuật dùng từ, các biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, lời văn giàu sức tạo hình và biểu cảm đã khiến cho cây xà nu trở thành một sinh vật sống động gợi cho người đọc nhiều suy tưởng về lịch sử chống giặc oai hùng của dân tộc. Ẩn sâu sau những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh tốt chính là tinh thần đoàn kết, cùng nhau chiến đấu của buôn làng Tây Nguyên.
Hình tượng cây xà nu ở đoạn đầu truyện ngắn "Rừng xà nu" của tác giả Nguyễn Trung Thành đã đem đến cho bạn đọc những cảm nhận thú vị về thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu mang giá trị thẩm mĩ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng đã được tác giả Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng tất niềm tin yêu thiên nhiên và tổ quốc.
3. Cảm nhận hình tượng cây xà nu trong đoạn đầu mẫu 3
Nếu súng là phương tiện đấu tranh của người lính, thì nhà văn lại sử dụng chính ngòi bút của mình để tạo ra vũ khí tinh thần, chống lại sự xâm lược của giặc ngoại. Nguyên Trung Thành, một người trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến đối với Pháp và Mỹ, không chỉ tích luỹ những kinh nghiệm đầy màu sắc của một chiến sĩ, mà còn đồng thời đạt được nguồn tài liệu thực tế về cuộc chiến tranh đầy biến động. Các tác phẩm của ông không chỉ tái hiện không khí gay gắt của cuộc kháng chiến mà còn lồng ghép vẻ đẹp anh hùng bên trong mỗi con người Việt Nam. Trong danh sách những tác phẩm nổi tiếng của ông, "Rừng xà nu" nổi bật, và qua tác phẩm này, ông đã thành công trong việc vẽ nên bức tranh sáng tạo về cây xà nu, đồng thời tôn vinh vẻ đẹp sử thi của những anh hùng trong làng Xô Man.
Nguyễn Trung Thành (sinh năm 1932) là một nhà văn có mối liên kết sâu sắc với vùng đất rừng Tây Nguyên, và do đó, những sáng tác của ông mang đậm tinh thần sử thi và cảm hứng lãng mạn. "Rừng xà nu," tác phẩm sáng tạo năm 1965, đứng đầu danh sách các tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Trung Thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Hình tượng của cây xà nu trở thành trung tâm của tác phẩm, tạo nên không khí đậm chất núi rừng Tây Nguyên.
Xà nu, thuộc họ cây thông, nhựa và gỗ của nó có giá trị sử dụng cao và đã gắn bó sâu đậm với con người Tây Nguyên. Bất kỳ cuộc chiến tranh nào đi qua cũng để lại những thương tổn và mất mát. Giống như con người và lính chiến, cây xà nu cũng phải gánh chịu vô số đạn đại bác, nhưng vẫn tỏ ra mạnh mẽ, kiên cường. Hình ảnh rừng xà nu xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm và liên tục lặp lại, gợi lên trong tâm hồn người đọc một sự ấn tượng mạnh mẽ. Rừng xà nu rộng lớn, đông đảo, hùng vĩ, nhưng trở thành nạn nhân của bom đạn, khiến "có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão", và "ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn." Cây xà nu, tương tự như những người lính, phải chịu đựng những tổn thương, nhưng nhờ tinh thần kiên định và ý chí sống mãnh liệt, chúng vẫn đứng vững.
Mặc cho đau thương và hy sinh, những cây xà nu vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ, không ngừng đòi hỏi ánh sáng mặt trời, "phóng rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng." Điều này tượng trưng cho sự kiên cường và mong muốn sống của họ, và truyền cảm hứng về hy sinh và sự sống trong tâm hồn của người đọc. Hình ảnh của cây xà nu đã giúp chúng ta nhớ đến hình ảnh của cây tre Việt Nam, mà trong tình thế khó khăn, "Chẳng may thân gãy cành rơi/ Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng." Điều này tôn vinh ý chí chiến đấu bền bỉ, sức mạnh và khả năng phục hồi của nhân dân Việt Nam, khi một thế hệ gia điệp thì thế hệ sau đã sẵn sàng tiếp nối. Bên cạnh những cây xà nu không thể chịu đựng được những vết thương, vẫn có những cây mạnh mẽ vượt qua thử thách, tạo nên hình ảnh sống động về tinh thần đoàn kết và hy sinh không ngừng của con người. "Cạnh một cây xà nu mới gục đổ, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời." Hình ảnh này phản ánh tinh thần chiến đấu bất khuất và ý chí vươn lên của nhân dân Tây Nguyên. Mặc cho đau thương, hy sinh và mất mát, cây xà nu luôn tồn tại để che chở và bảo vệ nhân dân. Rừng xà nu trở thành một bức tường vững chắc bảo vệ người dân, giống như lòng dũng cảm của lính chiến vậy: "Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng." Sự hi sinh im lặng của rừng xà nu đã kích thích trí tưởng tượng của người đọc, đẩy họ suy tư về những hy sinh vĩ đại để đạt được hòa bình, giống như ngày hôm nay. Để bảo vệ quê hương, đã có nhiều anh hùng phải đánh đổi cả cuộc sống và nhiều thứ quý báu khác. Những cây xà nu mọc cùng nhau trên một ngọn đồi, thế hệ này thay thế thế hệ khác, tạo nên một rừng xà nu mạnh mẽ và vững chắc. Hình ảnh này tượng trưng cho sức mạnh đoàn kết và ý chí không ngừng phát triển của dân tộc: "Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân trời." Rừng xà nu trở thành biểu tượng của Tây Nguyên và cả của toàn dân tộc Việt Nam, với những phẩm chất đáng trân trọng, giống như con người Việt Nam.
Cây xà nu trong "Rừng xà nu" không chỉ là một hình ảnh thẩm mĩ độc đáo, mà còn là biểu tượng tượng trưng độc đáo, giàu ý nghĩa. Nguyễn Trung Thành đã khắc họa hình tượng này bằng lòng đam mê, lòng tin và trái tim trân trọng. Nghệ thuật ngôn ngữ, biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, lời văn giàu tính thẩm mĩ và biểu đạt đã khiến cho cây xà nu trở thành một sinh vật sống động, đồng thời thể hiện sự phục tùng của nó trong cuộc chiến tranh, nhưng cũng gợi lên sự vĩ đại và kiên cường. Hình ảnh của cây xà nu đã giúp ta thấu hiểu sâu sắc về lịch sử chiến đấu của nhân dân và tạo nên niềm tự hào trong tâm hồn của người Việt Nam.
4. Cảm nhận hình tượng cây xà nu trong đoạn đầu mẫu 4
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Chẳng biết từ bao giờ, mảnh đất xứ người đã trở thành quê hương thứ hai của bao người xa quê. Quang Dũng đã từng lưu luyến với mảnh đất Tây Bắc với những con người nồng hậu, Tố Hữu cũng vấn vương trước cuộc chia tay lưu luyến với người dân Việt Bắc. Và đến với Nguyễn Trung Thành, ta lại thấy một cảm giác gắn bó máu thịt của ông với mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Đọc “Rừng xà nu”, ta không chỉ thấy tình cảm sâu đậm của ông với con người Tây Nguyên mà còn thấy sự gắn bó và tình yêu của ông với núi rừng. Có lẽ cũng vì lẽ ấy mà hai chi tiết đầu và cuối tác phẩm “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.” và “Ba người đứng ở đó trông trông ra xa đến hút tầm mắt cũng không thấy khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời” như một bức tranh thu nhỏ cứ vấn vương mãi trong lòng người đọc.
Nguyễn Trung Thành sinh năm 1932, quê ở huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam. Những năm tháng lăn lộn trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã giúp ông hiểu biết sâu sắc về Tây Nguyên để rồi từ đó, những tác phẩm có tiếng vang ra đời như tiểu thuyết “Đất nước đứng lên”, tập truyện và kí “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. “Rừng xà nu” được viết năm 1965, là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyên Ngọc viết trong những năm tháng chống đế quốc Mĩ. Tác phẩm là câu chuyện về con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ nhưng bên cạnh đó là hình ảnh những cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận mà hai chi tiết trên đã góp phần thể hiện rõ điều đó.
Trước hết ta cần hiểu “chi tiết” là những tiểu tiết có trong tác phẩm thể hiện tư tưởng của truyện. Chi tiết cũng có thể là những yếu tố nhỏ của tác phẩm nhưng thể hiện được tính cách của nhân vật, bản chất của vấn đề. Chi tiết có thể xuất hiện trong thơ hoặc văn xuôi bao gồm chi tiết miêu tả thiên nhiên, miêu tả không gian, chi tiết miêu tả tính cách, diễn biến nội tâm của nhân vật…góp phần quan trọng thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Hai chi tiết đầu và cuối trong tác phẩm “Rừng xà nu” đều là hai chi tiết có chung nội dung là miêu tả vẻ đẹp bất tận của cánh rừng xà nu nhưng được đặt ở hai vị trí khác nhau, phải chăng dụng ý nghệ thuật của hai chi tiết cũng khác nhau?
Mở đầu tác phẩm là bức tranh miêu tả cánh rừng xà nu giữa mưa bom bão đạn vẫn có sức sống kiên cường mạnh mẽ “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Nguyễn Trung Thành đã nói về sức sống ấy bằng một chi tiết có sức khái quát cao “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.” Trong bức tranh ấy có cả cái đau thương của “những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão”, có cả “những cây vừa lớn ngang tầm ngực người đã bị đại bác chặt đứt làm đôi”. Nhưng ở đó lại có cả những cây với “những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng” và những cây mới mọc “ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Những đồi xà nu nối tiếp chạy đến chân trời ấy mở ra một khoảng không gian rộng lớn với những cánh rừng xà nu cứ liên tiếp nhau trải dài. Trong thực tế cây xà nu có sức sống mãnh liệt và thường mọc thành rừng nên với Nguyễn Trung Thành, cho dù bom đạn có dội xuống, có tàn phá thì những cây xà nu ấy cứ mãi vươn lên, có sức sống dẻo dai, mãnh liệt.
Khép lại tác phẩm, nhà văn không dùng hình ảnh người anh hùng Tnú giết giết chết tên giặc trong đồn địch hay ánh lửa đỏ rực trong đêm đồng khởi. Nguyễn Trung Thành kết lại câu chuyện bằng hình ảnh của những cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận như một khúc vĩ thanh cứ ngân vang trong lòng người đọc. Cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường tham gia lực lượng giải phóng. Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa, lúc này cánh rừng xà nu không được miêu tả trực tiếp từ cái nhìn của tác giả mà được khắc họa qua cái nhìn của các nhân vật. “Ba người đứng ở đó trông trông ra xa đến hút tầm mắt cũng không thấy khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Chi tiết cuối ấy như được mở cả về chiều rộng và về chiều sâu. Là một bức tranh thiên nhiên nhưng nó không mang một khoảng không gian nhất định. Không phải “hết tầm mắt”- không phải chỉ dừng lại ở cái hữu hạn trong khả năng của con người mà là “hút tầm mắt” nghĩa là bức tranh ấy không chỉ bao la về bề rộng mà còn thăm thẳm về bề sâu, bề xa của nó. Không còn dừng lại ở “những đồi xà nu” mà là “những rừng xà nu”. Không gian được mở rộng, trải dài vô tận.
Hai chi tiết được đặt ở đầu và cuối tác phẩm tạo nên một kết cấu chặt chẽ, đầu cuối tương ứng. Kiểu kết cấu này ta cũng đã từng bắt gặp trong “Chí Phèo” của Nam Cao. Nếu như trong “Chí Phèo” hình ảnh về một lò gạch bỏ hoang gợi ra nhiều ám ảnh day dứt người đọc về sự quẩn quanh bế tắc của người nông dân thì hai chi tiết trong tác phẩm “Rừng xà nu” lại mang đầy sức gợi mở. Đầu tác phẩm rừng xà nu gợi ra câu chuyện của cuộc đời, con người trong chiến đấu, kết thúc tác phẩm rừng xà nu kết lại câu chuyện nhưng là kết lại đau thương và mở ra khung cảnh mới- khung cảnh ngập tràn sắc xanh của sức sống bất diệt.
Hình tượng rừng xà nu xuất hiện ở đầu và cuối tác phẩm còn góp phần khắc họa hình tượng rừng xà nu xuyên suốt tác phẩm. Trước hết nó mang nét đặc trưng của con người Tây Nguyên, gắn bó với đời sống của dân làng, nó có mặt trong mọi sinh hoạt hàng ngày, có mặt trong công cuộc chiến đấu. Đó còn là hình ảnh biểu tượng cho những đau thương mất mát cũng như sức sống kiên cường của con người Tây Nguyên. Hình ảnh xà nu ngày càng bát tận hơn ở chi tiết cuối ấy như để khẳng định cánh rừng xà nu kia dù phải chịu bao sự tàn phá của kẻ thù thì vẫn cứ mãi vươn lên. Và đó cũng chính là sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, bao người đã hi sinh và thế hệ sau lại nối tiếp. Nếu như ở chi tiết đầu là “những đồi xà nu nối tiếp đến chân trời” như sự tập hợp của nhiều cá thể làm nên sức mạnh của tập thể thì chi tiết ở cuối tác phẩm lại là “những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời” – là sự tập hợp của một khối đoàn kết, cũng có thể hiểu đây là sự tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, những thế hệ sau càng đi xa hơn thế hệ trước.Trong tác phẩm đó là sự tiếp nối của những con người trên mảnh đất Tây Nguyên. Thế hệ đi trước như cụ Mết rồi đến anh Quyết, Tnú và Mai và thế hệ nối tiếp là Dít và bé Heng. Như vậy chi tiết cuối của tác phẩm đã mang ý nghĩa khái quát sâu xa hơn, như một khúc vĩ thanh ca ngợi vẻ đẹp bất tận, sức sống bất diệt của cả thiên nhiên và con người giống như:
“Một cây đổ cả rừng cây lại mọc
Người với người đã mấy vạn mùa xuân.”
Nguyễn Trung Thành.
Một ý nghĩa khác mà hai chi tiết mang lại trong hai tác phẩm là không khí Tây Nguyên đậm đà. Hình ảnh cây xà nu ấy đã mang lại nét đặc trưng riêng cho mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nói đến mỗi vùng đất, ta thường nghĩ ngay đến những nét riêng. Những người dân ở Phú Thọ người ta thường tự hào về cây cọ “xòe ô che nắng” ở quê mình, người dân Bến Tre thì tự hào bởi những trái dừa mát lịm thì với người dân Tây Nguyên, bên cạnh cây Kơnia, người ta còn nhắc đến những cánh rừng xà nu xanh tốt. Cây xà nu mang đậm phong vị Tây Nguyên nó cứ hiện lên trên trang văn của Nguyễn Trung Thành ngày càng rõ nét, chân thực như mang chính hơi thở của mảnh đất này.
Như vậy, mở đầu là hình ảnh cây xà nu trong bom đạn nhưng bạt ngàn màu xanh bất diệt. Kết lại tác phẩm cũng là màu xanh trải dài của những cánh rừng xà nu trải dài của những cánh rừng xà nu nối tiếp tới chân trời. Có thể nói hai chi tiết đã gửi đến cho người đọc một ấn tượng sâu đậm về khung cảnh rừng xà nu bạt ngàn bất tận. Hơn mười lần hình ảnh cây xà nu được nhắc đến trong tác phẩm đủ để minh chứng mối quan hệ mật thiết giữa rừng xà nu và cuộc sống con người. Phải chăng tình cảm mà tác giả gửi gắm qua hình ảnh cây xà nu cũng chính là niềm tự hào về vẻ đẹp thiên nhiên và con người Tây Nguyên?
Viết về cánh rừng xà nu nói chung với hai chi tiết này nói riêng, Nguyễn Trung thành đã sử dụng bút pháp của khuynh hướng sử thi. Nhà văn đã tô đậm vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên trên mảnh đất Tây Nguyên anh hùng.Nó gợi ra vẻ đẹp của những cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận.
Hai chi tiết được nhắc đến thực sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với chủ đề tư tưởng của tác phẩm. “Rừng xà nu” là một thiên truyện mang ý nghĩa của một khúc sử thi trong văn xuôi hiện đại. Với lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh, tác phẩm đã tái hiện được vẻ đẹp tráng lệ hào hùng của núi rừng, của con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu có lần nói đại ý : Người cầm bút có biệt tài, có thể chọn trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc với một vài diễn biến sơ sài nhưng đó có khi lại là cái khoảnh khắc chứa cả một đời người, một đời nhân loại. Phải chăng Nguyễn Trung Thành cũng đã tìm thấy cái khoảnh khắc ý nghĩa ấy khi ông miêu tả những cánh rừng xà nu cứ mãi nối tiếp nhau chạy đến chân trời.
5. Cảm nhận hình tượng cây xà nu trong đoạn đầu mẫu 5
“Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những gian khổ, hi sinh” – nhà văn Nguyễn Khải đã từng viết như thế. Cũng là cảm hứng về sự bất diệt, “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành trở thành một bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến kiên cường, bất khuất của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Nguyễn Trung Thành – nhà văn của đất và người Tây Nguyên trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến. Nếu trong thời kì kháng Pháp ông nổi tiếng với tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” thì “Rừng xà nu” chính là “hịch” thời chống Mĩ vẽ nên con đường mà nhân dân Tây Nguyên phải đi trong chiến tranh Cách mạng. Trong tác phẩm này, rừng xà nu là hình tượng tiêu biểu, là phông nền cho sự xuất hiện của con người Tây Nguyên, mang âm hưởng sử thi hùng tráng cho thiên truyện. Ở đoạn văn mở đầu và đoạn văn khép lại “Rừng xà nu”, hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu, đồi xà nu trở đi trở lại, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
“Rừng xà nu” là câu chuyện về những người con kiên trung của một bản làng Tây Nguyên, vượt lên sự tàn bạo của kẻ thù, vùng dậy quật khởi, một lòng đi theo Cách mạng. Người đi trước ngã xuống, người đi sau nối tiếp đứng dậy cầm vũ khí chiến đấu. Cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng tiêu biểu cho các thế hệ nhân dân nối tiếp nhau đánh giặc cứu nước. Trong cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man, rừng xà nu được tác giả nhắc đến như một dụng ý nhất định, tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chiến tranh Cách mạng.
Ở trang văn đầu, Nguyễn Trung Thành đã mở ra một “thế giới Tây Nguyên” đẹp trong đau thương mất mát, lung linh như một huyền thoại trong câu chuyện của những người già làng kể cho đồng bào nghe bên bếp lửa bập bùng giữa nhà rông. Tác giả đã dụng công miêu tả hình tượng cây xà nu, rừng xà nu dưới tầm đại bác. Rừng xà nu là một hình tượng nghệ thuật đẹp, một bức tranh thiên nhiên đậm đà hương vị Tây Nguyên, tạo nên không khí sử thi cho câu chuyện.
Trước hết, rừng xà nu là bức tranh thiên nhiên kì vĩ, tráng lệ, bạt ngàn của núi rừng Tây Nguyên. Xà nu, loại cây họ thông, dấu ấn tuyệt vời của miền núi cao điệp trùng san giả. Những cây xà nu hợp thành những cánh rừng xà nu, những ngọn đồi xà nu xanh bất tận: “trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Bằng nghệ thuật miêu tả đặc sắc, dường như Nguyễn Trung Thành đang dẫn người đọc vào những cánh rừng, tận hưởng sự mát lành, bạt ngàn và bất tận của những cánh rừng ngày đêm chở che cho buôn làng, cưu mang đồng bào Tây Nguyên trong chiến tranh và trong cuộc sống bình thường.
Tuy nhiên, ở đoạn văn này, ấn tượng sâu sắc nhất về rừng xà nu chính là thương tích. Rừng xà nu “ở trong tầm đại bác của đồn giặc”, vị trí đắc địa ấy biến rừng xà nu trở thành đối tượng của sự hủy diệt. Rừng xà nu hiện lên trước mắt người đọc với thương tích đầy mình sau những lần dang ra hứng chịu mưa bom bão đạn: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương”. Hình hài vết thương mà cây xà nu gánh chịu cũng thật đa dạng và nhói lòng: “Có cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình”, có cây “bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi”,… Vết thương trên cây xà nu cũng hệt như vết thương trên cơ thể con người, nó “không lành được, cứ loét mãi ra”, “dần dầm bầm lại, đen và đặc quyện”, nhựa xà nu là “từng cục máu lớn”, cây đau đớn quá thì “năm mười hôm thì cây chết”. Thật xót xa! Nguyễn Trung Thành miêu tả cây xà nu như miêu tả một con người sống giữa núi rừng Tây Nguyên, mang trong mình truyền thống yêu nước của buôn làng dũng mãnh đứng “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Nhưng con người ấy cũng có phút giây ngã gục bởi bom đạn đại bác. Rừng xà nu hiện lên đau thương như nỗi đau của con người trong chiến tranh Cách mạng. Đó là cái chết của anh Xút bị treo cổ trên cây vả đầu làng, cái chết uất nghẹn của bà Nhan bị giặc chặt đầu cột tóc treo đầu súng, sự hi sinh của anh Quyết, của mẹ con Mai và vô vàn những con người khác trong cánh rừng này. Nguyễn Trung Thành đâu né tránh thực tại khổ đau?
Vậy mà, rừng xà nu vẫn mạnh mẽ, giàu sức sống. Trước sự hủy diệt bạo tàn, rừng xà nu vẫn sinh sôi. Cảm hứng về sự sống bất diệt được tác giả hướng tới ngợi ca. Sau đau thương, rừng xà nu vươn lên từ trong sự hủy diệt bạo tàn của quân thù: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, nhiều cây đã “vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã”. Dường như xà nu mạnh mẽ khỏe khoắn đến độ không bom đạn nào tiêu diệt được, “hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Đặc tính “ham ánh sáng” cũng được nhà văn đề cập trong đoạn văn này: “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp”, đẹp vô ngần. Nếu cây xà nu này ngã xuống, cây xà nu khác mọc lên lớn nhanh che chở cho làng Xô Man thì con người Strá cũng vậy. Thế hệ trước ngã xuống, thế hệ sau đứng lên, truyền thống yêu nước cứ ngấm mãi trong máu. Ánh sáng tinh khôi mà xà nu vươn lên tiếp nhận cũng như ánh sáng Cách mạng, ánh sáng của tự do và bầu trời yên bình mà người làng Xô Man khao khát, ước mơ. Sức sống của rừng xà nu cũng là sức sống mãnh liệt của con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến một mất một còn.
Mọi diễn biến trong truyện đều dựa trên phông nền xanh ngát của rừng xà nu. Đoạn kết truyện như khúc vĩ thanh vang vang trong lòng người. Đến lúc này, các hình tượng (con người và thiên nhiên) đã hiện lên với vẻ đẹp hoàn chỉnh, tuyệt vời. Hình ảnh cây xà nu và người anh hùng Cách mạng lung linh trên trang văn, giọng điệu nhẹ nhàng mà có sức ngân vang đến lạ.
“Tnú lại ra đi”, chỉ một câu ngắn gọn, tác giả đã khắc đậm vẻ đẹp của nhân vật Tnú, một vẻ đẹp dứt khoát, mạnh mẽ, như bao cuộc ra đi khác trong đoạn đời mà người anh hùng Tnú đã trải qua. Tnú ra đi mang trong tim ba mối thù sôi sục: thù của bản thân (đôi bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt), thù của gia đình (vợ con bị sát hại dã man) và thù của buôn làng (con người Xô Man và cánh rừng xà nu bị hủy diệt thương tâm) chính là động lực để Tnú tham gia lực lượng Quân giải phóng. Tnú ra đi, tìm “những thằng Dục” để trả thù. Tnú ra đi trong khi đôi bàn tay không còn lành lặn nữa, đôi bàn tay thương tích nhưng Tnú vẫn có thể cầm được súng, bóp chết kẻ thù. Phải chăng anh đã “Lấy nỗi đau vô hình làm sức mạnh vô biên”?
Hình ảnh cụ Mết, Dít đưa Tnú ra đến rừng xà nu cạnh con nước lớn mang nhiều ý nghĩa. Cụ Mết vẫn là cây xà nu đại thụ, điểm tựa vững chắc của dân làng Xô Man thời chống Mĩ, người đã đặt niềm tin và sự kì vọng vào Tnú – đứa con của dân làng Xô Man, của dân tộc Strá. Dít – cô bé nhỏ nhắn là hiện thân cho sự tiếp nối Mai, một thế hệ trẻ Tây Nguyên trưởng thành nhanh chóng, quả cảm, gan góc, một cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Cũng như bản làng, Dít cũng dành tình yêu thương và sự thán phục Tnú.
Việc miêu tả hình ảnh rừng xà nu ở cuối truyện có dụng ý nghệ thuật rõ nét. Hình tượng rừng xà nu lúc bấy giờ vẫn là hiện thân cho sự sinh sôi nhanh chóng, và dường như là thách thức, bất chấp súng đạn quân thù. Dẫu cho “trận đại bác đêm qua đã đánh ngã bốn năm cây xà nu to”, nhưng “vô số những cây con đang mọc lên”, có những cây mới nhú lên như cái mầm sống ra khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê vung lên, mũi lên căm hờn. Hình ảnh so sánh: “Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê” cũng đầy ẩn ý. Tuổi trẻ Tây Nguyên lúc bấy giờ đã ý thức được: phải dùng vũ khí mới có thể đánh bại bạo lực phản Cách mạng, chứ không còn tay không chiến đấu với quân thù. Người đọc cứ nghe mãi một khúc vĩ thanh xa mờ và bất tận. “Rừng xà nu” khép lại bằng những câu văn độc đáo gợi liên tưởng đến cuộc sống đau thương nhưng kiên cường, bất khuất, sức sống mãnh liệt của nhân dân Tây Nguyên, của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến. Hình ảnh “những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời” gợi liên tưởng đến sự hồi sinh của cả một dân tộc máu lửa, “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”!
Hai đoạn văn nằm hai hai vị trí, tạo thành kết cấu đầu cuối tương ứng cho tác phẩm. Cả hai đoạn văn đã khái quát một cách cụ thể vẻ đẹp của hình tượng cây xà nu và nhân vật Tnú, đồng thời tạo nên sự liên kết giữa Tnú và rừng xà nu, giữa đồng bào Xô Man với thiên nhiên núi đồi trập trùng bất tận. Người đọc nhận ra một rừng xà nu đau thương nhưng bất diệt, vươn dậy và mạnh mẽ trong bom đạn quân thù. Hình tượng Tnú hiện lên với đầy đủ những phẩm chất quý báu: gan góc, dũng cảm, cuộc đời bi tráng và ý chí quyết đoán của Tnú tiêu biểu cho con đường đến với Cách mạng của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc chiến chống đế quốc Mĩ xâm lược. Với kết cấu này, ta thấy sự liên kết chặt chẽ, không rời rạc giữa đoạn đầu và đoạn cuối tác phẩm. Cây xà nu bị hủy diệt và tiếp tục sinh sôi bất tận là chi tiết được nhắc đi nhắc lại trong hai đoạn này, nhấn mạnh sức sống kiên cường của con người Tây Nguyên, tạo nên vẻ đẹp thiên nhiên và tô đậm chủ đề tư tưởng của tác phẩm: Để giữ gìn sự sống của đất nước và nhân dân, không còn cách nào khác là đứng lên “đồng khởi”, cầm vũ khí chống lại thế lực tàn ác. Biện pháp nhân hóa, ẩn dụ được Nguyễn Trung Thành vận dụng miêu tả cây xà nu gợi liên tưởng về cuộc sống và con người Tây Nguyên. Lời văn giàu chất tạo hình. Bức tranh thiên nhiên đã đem lại màu sắc sử thi, chất Tây Nguyên riêng biệt cho thiên truyện.
Rừng xà nu dang cành lá bảo vệ, che chở cho dân làng. Tnú và cộng đồng dân tộc làng Xô Man ra đi chiến đấu để giữ gìn cho màu xanh bất tận. Mối quan hệ tương hỗ, có trước có sau, nhân nghĩa ân tình được thể hiện đậm nét trong hai đoạn văn. “Rừng xà nu” tái hiện một giai đoạn đen tối mà Cách mạng miền Nam bị khủng bố ác liệt, đồng thời vực dậy sức mạnh của con người. Qủa thật, phải vùng lên chiến đấu mới có thể dẹp tan những thế lực bạo tàn, để duy trì sự sống cho đất nước và nhân dân trường tồn mãi mãi…