Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Cảm nhận khổ 3 Tây Tiến

VnDoc gửi tới các bạn tài liệu Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến. Tài liệu bao gồm dàn ý và 16 bài văn mẫu hay cho các em tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng xây dựng bài viết và nâng cao kỹ năng viết văn của mình. Sau đây mời các bạn tham khảo chi tiết.

1. Dàn ý cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến

Dàn ý Cảm nhận khổ 3 Tây Tiến mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến, dẫn dắt vào khổ thơ thứ ba.

2. Thân bài

a. Khái quát về tác giả, tác phẩm

Bài thơ Tây Tiến được sáng tác năm 1948 khi Quang Dũng đã rời đơn vị chuyển sang đơn vị khác. Khi dự hội nghị toàn quân ở Phù Lưu Chanh tác giả bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm kháng chiến cùng đồng đội ở đơn vị cũ trong những tháng năm ở miền biên cương Tây Bắc. Những ngày tháng gian khổ mà hào hùng ấy đã rung lên những dây tơ xúc cảm trong tâm hồn để nhà thơ viết nên bài "Tây Tiến".

Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng.

b. Phân tích khổ thơ thứ ba

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu mắt giữ oai hùm.”

Căn bệnh sốt rét rừng làm cho da của người lính xanh xao, beo bủng như lá cây và rụng hết tóc. Tuy nhiên họ vẫn làm chủ tình thế, vẫn oai phong lẫm liệt. Chính màu xanh đó cũng giúp họ ngụy trang để chiến đấu với quân thù.

“giữ oai hùm” hoàn cảnh thiếu thốn, khắc nghiệt như thế nhưng họ vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, vẫn giữ nguyên được vẻ oai phong lẫm liệt.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

“mắt trừng”: lòng căm thù giặc sâu sắc. Ở họ là sự khát khao giành chiến thắng, gửi những giấc mộng đẹp, những ước mơ đẹp về nơi quê hương yêu dấu của mình.

Trái tim rạo rực yêu thương: tuy chiến đấu gian khổ nhưng những người lính vẫn luôn nhớ về quê nhà, về nơi có người con gái mà họ yêu thương, nhớ nhung. Ban ngày hết lòng chiến đấu, đêm đến ôm nỗi nhớ vào giấc mộng.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Nhìn thẳng vào sự thật tàn khốc: nhiều người lính đã ngã xuống.

Họ là những người lính trẻ tuổi, cuộc đời còn dài tuy nhiên họ đã quyết định ra đi, hi sinh tương lai, tuổi xuân của mình vì độc lập tự do của tổ quốc.

“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Khi người chiến sĩ hi sinh, họ chỉ được bọc trong manh chiếu rách để chôn cất nhưng sự ra đi vì vinh quang đó được ví như mặc áo long bào → thể hiện sự tôn vinh.

Sự ra đi đó làm cả núi sông, đất trời lên tiếng như một lời tiễn biệt đồng thời thể hiện sự phẫn nỗ, căm hờn trước tội ác của kẻ thù.

→ Sự hi sinh vì lí tưởng cao đẹp của người lính đáng tự hào, tôn vinh. Họ mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng, hào hùng, lẫm liệt.

3. Kết bài

Khái quát lại nội dung đoạn 3 đồng thời rút ra bài học, liên hệ thực tiễn.

Dàn ý Cảm nhận khổ 3 Tây Tiến mẫu 2

1. Mở bài

- Dẫn dắt vấn đề: Trong nền thơ văn kháng chiến, ta không thể không nhắc tới những tác giả tiêu biểu: Tố Hữu, Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng,... trong số đó nổi bật là nhà thơ Quang Dũng với bài thơ Tây Tiến.

- Nêu vấn đề: Bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng đối với mảnh đất Tây Tiến thân thương và những người đồng chí, đồng đội cùng "vào sinh ra tử"; đặc biệt khổ 3 của bài thơ đã khắc họa hình tượng những người lính vô cùng đặc sắc: "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc... Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

2. Thân bài

- Cảm nhận hình tượng người lính oai hùng, lẫm liệt, đậm chất bi tráng qua hai dòng đầu: "Tây Tiến đoàn binh... dữ oai hùm"

+ Đoàn binh Tây Tiến: Đoàn quân được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào chặn đánh các đợt tiến công biên giới Việt - Lào, khi đó Quang Dũng là đội trưởng của đoàn quân đó

+ Đoàn quân của Quang Dũng hiện lên kì dị, lạ thường: Tuổi đời trẻ măng nhưng đầu ai nấy đều "không mọc tóc"

=> Ngoại hình tiều tụy, đầu trọc da xanh đã phản ánh hiện thực trần trụi của chiến tranh; đó chính là kết quả của những cơn đói khát, những trận sốt rét nơi rừng thiêng nước độc, những khó khăn, gian khổ mà người lính phải chịu đựng

=> Liên hệ với hình ảnh người lính trong thơ Chính Hữu: "Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh/ Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi"

+ Tuy trong gian khổ, người lính vẫn giữ được tư thế hiên ngang, bất khuất, oai hùng "dữ oai hùm"

- Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của những người lính (trong những câu thơ tiếp theo)

+ Tâm hồn mơ mộng, tràn trề sức xuân: "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới... kiều thơm" => Những chàng trai tuổi 18, đôi mươi xuất thân là những học sinh, sinh viên đất Hà thành nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà tạm gác bút nghiên, cầm súng lên đường ra chiến trận.

+ "Mắt trừng": Đôi mắt đang dõi theo kẻ thù, tràn đầy sự căm hận và sự quyết tâm chống thù

+ "Mộng biên giới": Giấc mộng hòa bình, giấc mộng chiến thắng trở về quê hương, gia đình...

+ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm": Nỗi nhớ gia đình, nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ người thương

=> Hình ảnh những người lính Tây Tiến trẻ trung, hòa hợp giữa vẻ đẹp của khát vọng và vẻ đẹp trong tâm hồn.

- Cảm nhận về vẻ đẹp bi tráng của người lính qua việc Quang Dũng miêu tả sự hi sinh anh dũng: "Rải rác biên cương... khúc độc hành"

+ Âm điệu câu thơ như chùng xuống trước sự mất mát, hi sinh của các chiến sĩ, trước những ngôi mộ vô danh nằm rải rác giữa biên cương

+ "Mồ viễn xứ", "biên cương": Từ Hán Việt tạo không khí trang trọng, bi hùng như một bản hùng ca tiễn biệt người lính

+ Nhưng dù có phải đối mặt với cái chết thì người lính vẫn nguyện hiến dâng tuổi xuân, thậm chí cả tính mạng của mình cho nền độc lập tự do của dân tộc "chẳng tiếc đời xanh", coi cái chết nhẹ tựa lông hồng "anh về đất"

+ Cái chết của các anh được lí tưởng hóa, mĩ lệ hóa "Áo bào thay chiếu" => Sự hi sinh đầy cao đẹp, thiêng liêng

+ Trước những hi sinh của các anh, con sông Mã lịch sử "gầm lên khúc độc hành" như "gầm" lên khúc tráng ca tiễn biệt đồng đội để họ đi vào cõi bất tử.

- Nêu lại đại ý toàn khổ 3 bài thơ Tây Tiến.

3. Kết bài

Khẳng định lại vấn đề và nêu cảm nghĩ của bản thân.

2. Văn mẫu Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến

Cảm nhận khổ 3 Tây Tiến mẫu 1

“Tây Tiến” là bài thơ hay nhất của Quang Dũng cũng là một trong những bài thơ tuyệt bút về “anh bộ đội Cụ Hồ” trong kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng là nhà thơ – chiến sĩ, vừa cầm súng đánh giặc, vừa làm thơ. Ông viết về đồng đội, về đoàn binh Tây Tiến thân yêu của mình. Thơ của Quang Dũng nóng bỏng hào khí chiến trường.

Sau một thời gian xa đơn vị và đồng đội, ông viết bài thơ “Tây Tiến” này vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa điểm bên bờ sông Đáy hiền hòa. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ và niềm tự hào đối với đoàn binh Tây Tiến, đối với con sông Mã và núi rừng miền Tây xa xôi. Đó là nỗi nhớ “chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp và cảm động một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh. Đây là đoạn thơ thứ 3 trong bài “Tây Tiến” đã khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

(…) Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, đoàn binh Tây Tiến hiện ra giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da xanh phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực: “không mọc tóc”. Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh những năm đầu kháng chiến vốn thế. “Không mọc tóc” là hình ảnh phản ánh cái khốc liệt của chiến trường:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.

Cái hình hài không lấy gì làm đẹp: “quân xanh màu lá”, “không mọc tóc” tương phản với “dữ oai hùm” là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải khiếp sợ. “Dữ oai hùm” là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng. Các chiến binh “Sát Thát” đời Trần: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão); “Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói” (Trương Hán Siêu). Nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế “bình Ngô”: “Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Bình Ngô đại cáo) – Một dân tộc anh hùng trên trận tuyến đánh quân thù, thời đại nào cũng có những chiến sĩ “tì hổ” và “dữ oai hùm” như thế đó! Với niềm tự hào, Quang Dũng đã viết nên một câu thơ rất hay: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”, lấy cái “thô”, cái “mộc” để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.

Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật… muôn lần khó khăn, thử thách nhưng học vẫn có những giấc “mơ”, giấc “mộng” rất đẹp:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, nơi còn đầy bóng giặc. “Mắt trừng” – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt. “Mộng qua biên giới” – mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Lại có những giấc mơ đẹp. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai Hà thành “xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa: “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ). Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù. Nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội. Quên sao được những hàng me, hàng sấu, những phố cũ, trường xưa, “Những phố dài xao xác hơi may”?.. Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thương yêu, những “dáng kiều thơm” từng hò hẹn. Hình ảnh “Dáng kiều thơm” trong câu thơ của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút nhà thơ – chiến sĩ nó trở nên có hồn, đặc tả chất lính hào hoa, trẻ trung, lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc.

Nếu người nông dân mặc áo lính trong thơ Chính Hữu mang theo nỗi nhớ “giếng nước gốc đa”, nhớ mái nhà gianh, nhớ ruộng nương…; trong thơ Hồng Nguyên là nỗi nhớ “người vợ trẻ – Mòn chân bên cối gạo canh khuya”,… thì người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng, nỗi nhớ gắn liền với “mộng” và “mơ”. Mộng lập chiến công, mơ “dáng kiều thơm”. Hữu Loan trong bài thơ “Màu tím hoa sim” cũng viết rất hay về nỗi nhớ của người lính chống Pháp:

“Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến tranh

Mấy người đi trở lại

Lỡ khi mình không về

Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê…”

Viết về “mộng” và “mơ” của người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan yêu đời của đồng đội. Đó là một nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung “anh bộ đội Cụ Hồ” xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp.

Bốn câu thơ tiếp theo là những nét vẽ bỗ trợ, tô đậm chân dung người lính:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Trong gian khổ và chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây. Họ nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sĩ “rải rác biên cương”. Câu thơ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt, đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận vì một lí tưởng rất đẹp. “Đời xanh” là đời trai trẻ, là tuổi thanh xuân của “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…”, những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Họ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo về độc lập, tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Quang Dũng ghi lại cảnh tượng bi tráng giữa chiến trường miền Tây thưở ấy:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Các tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm “áo bào” bình dị ấy: “anh về đất”. Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ra trận giết giặc vì quê hương. Anh ngã xuống là: “về đất”, nằm trong lòng Mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ “chết”, từ “hi sinh” mà lấy cụm từ “về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản, nhẹ nhàng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương, đã chết vì đất nước quê hương. “Anh về đất” bằng tất cả tấm lòng chung thủy của người chiến sĩ. Tiếng thác nước sông Mã “gầm lên” giữa núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn liệt sĩ” tống tiễn linh hồn liệt sĩ về nơi an giấc ngàn thu. Câu “Sông mã gầm lên khúc độc hành” là một câu thơ hay vì gợi tả được không khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo nên âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Phong cách ngôn ngữ của Quang Dũng rất đặc sắc, bên cạnh những từ ngữ bình dị đời lính như: gục, không mọc tóc, dữ, trừng, về đất, chiếu, gầm lên… lại có một số từ Hán Việt như: mộng, mơ, biên giới, dáng kiều, biên cương, viễn xứ, áo bào, khúc độc hành – nhờ đó mà cái bình dị làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng, cái bình thường tô đậm cái anh hùng, vĩ đại. Chất bi tráng và màu sắc lãng mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch sử.

Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ “Tây Tiến” là đoạn thơ độc đáo nhất. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc, tạo nên nhưng câu thơ “có hồn”. Người lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc.

“Anh Vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế!”

(Cá nước – 1947, Tố Hữu)

Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến mẫu 2

Nhắc tới thơ văn trong kháng chiến, chúng ta không thể không nhắc tới những nhà văn nhà thơ như Tố Hữu, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thi, ... và có lẽ chúng ta không thể nào không nhắc tới nhà thơ Quang Dũng. Ông là một người thi sĩ đa tài, vừa viết thơ, vừa vẽ tranh, lại có thể sáng tác kịch. Trong sự nghiệp thơ văn của mình, tác phẩm ông để lại không ít nhưng nổi tiếng nhất có lẽ chính là tác phẩm Tây Tiến. Bài thơ là nỗi nhớ tha thiết của Quang Dũng với miền Tây Bắc thân thương, với đồng đội của mình. Bài thơ đã làm nổi bật lên một hồn thơ lãng mạn, sâu lắng, thấm đượm nghĩa tình, tinh thần dân tộc của Quang Dũng, đặc biệt đoạn thơ khắc họa hình tượng người lính vô cùng đặc sắc:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành".

Tây Tiến được Quang Dũng sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh trong nỗi nhớ đơn vị, đồng đội của mình. Chính trong nỗi nhớ dạt dào ấy, ông đã khắc họa hình ảnh những người lính Tây Tiến với những nét vẽ thật đẹp vừa hào hùng lại vừa lãng mạn.

Đọc những dòng thơ đầu tiên, hiện lên trước mắt người đọc là hình tượng người lính oai hùng, lẫm liệt, đậm chất bi tráng:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm"

Đoàn binh Tây Tiến là đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, đánh chặn các đợt tiến công biên giới Việt - Lào và Quang Dũng chính là đội trưởng của đoàn quân ấy. Hai câu thơ đầu mở ra, giữa cái mỹ lệ, nên thơ của núi rừng, vẻ đẹp của người lính cụ Hồ hiện lên thật bi tráng. Không phải những đoàn quân với những người lính khỏe mạnh, trên đầu mang một màu tóc xanh của tuổi trẻ, đoàn quân của Quang Dũng hiện lên thật kì dị lạ thường. Cả một đoàn quân tuổi đời còn trẻ măng nhưng ai cũng "không mọc tóc". Vì đâu mà cả một đoàn binh lớn nhường ấy lại có điều dị thường đến vậy? Phải chăng đây là kết quả của những cơn đói, cơn khát, của những trận sốt rét khủng khiếp đã biến những người lính trẻ tuổi thành cả một "đoàn binh không mọc tóc" như vậy? Ngoại hình tiều tụy, ốm yếu, đầu trọc, da xanh đã gợi lên trong lòng chúng ta biết bao sự bi thương. Hình ảnh ấy tuy có gân guốc thế nhưng đó lại là cái hiện thực - một hiện thực thật trần trụi. Các chiến sĩ Tây Tiến ngày đó phải hoạt động trong rừng núi phía Tây Bắc của Tổ quốc, nơi rừng thiêng nước độc, nơi ấy có những trận sốt rét đến kinh người, và cả những ngày hành quân đói rét vất vả nữa. Chúng ta cũng từng bắt gặp hình ảnh người lính với những trận sốt rét mà vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình trong thơ của Chính Hữu:

"Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi"

Người lính Tây Tiến vẫn mang thêm chút đặc biệt hơn ở một phần nào đó. Phải chăng là những mái tóc còn xanh chẳng còn nữa, những người lính trở thành cả "đoàn binh không mọc tóc"? Đoàn quân đang trải qua những gian khổ, khó khăn, cản bước những bước tiến hành quân của họ?

Nhưng nếu như ở câu trước hình tượng những người lính hiện lên thật trần trụi, bi thương thì ngay ở câu thơ sau, người ta lại thấy Quang Dũng thể hiện hình ảnh những người lĩnh thật oai phong:

"Quân xanh màu lá giữ oai hùm"

"Quân xanh" ở đây phải chăng là những tán lá ngụy trang, là màu áo xanh người lính hay chính là làn da xanh tái vì bệnh tật và đói rét của những chiến sĩ giải phóng quân? Một hình ảnh hiện thực trần trụi được Quang Dũng đưa trực tiếp vào trong thơ. Chẳng hề có một sự phóng đại hay cách điệu nào hết. Đó là hiện thực, là thực tại của những người lính đoàn quân Tây Tiến. Thế nhưng, tuy có xanh xao, mệt mỏi, vất vả là thế, nhưng họ vẫn giữ vững tinh thần "giữ oai hùm". Dù là nơi rừng thiêng nước độc, nhưng những người anh hùng giải phóng quân vẫn giữ được tư thế hiên ngang, bất khuất, toát lên vẻ oai hùng như chúa sơn lâm.

Hai câu đầu, hình tượng người lính của đoàn quân Tây Tiến hiện lên thật sống động biết bao. Đoàn quân ấy đang đi giữa rừng xanh, đi giữa những núi rừng âm u hiểm trở và gặp biết bao gian lao, vất vả, bệnh tật đói rét. Thế nhưng, các anh dù có thế nào vẫn giữ được một tư thế hiên ngang, "oai hùm" giữa chốn rừng thiêng. Có thể nói, Quang Dũng đã đưa vào đây chất liệu hiện thực - một hiện thực trần trụi và gửi vào đó một chút lãng mạn của thi ca.

Bước sang những câu thơ tiếp theo, người ta thấy hiện lên là vẻ đẹp tâm hồn của những chiến sĩ ấy. Một vẻ đẹp tâm hồn mơ mộng, tràn trề sức xuân:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Tây Tiến là đoàn binh với thành phần chủ yếu là những người con đất Hà Thành, là những học sinh, sinh viên đang còn tuổi chứa chan xuân xanh tươi đẹp, thế nên ẩn sau ngoại hình xanh xao ấy là cả một bầu trời tâm hồn lãng mạn. Những người lính ấy đến với biên cương bằng sức trẻ, bằng hoài bão, bằng khát vọng hòa bình. Họ nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc mà lên đường tìm lại độc lập cho dân tộc bởi giặc ngoại xâm đã giày xéo quê hương đến tiêu điều. Vậy nên, "mắt trừng" kia phải chăng chính là đôi mắt đang mở to, dõi theo kẻ thù, quyết tâm thề sống chết với kẻ ngoại bang xâm lược? Đôi mắt trừng ấy cũng là sự căm hận quân thù, sục sôi ý chí chiến đấu. Không chỉ vậy toát lên ý chí chiến đấu, đôi mắt ấy còn "gửi mộng qua biên giới" đến với những nơi xa xôi, đến với Hà Nội thân yêu - nơi có người thân, gia đình của những chàng trai Tây Tiến. "Mộng biên giới" - có chăng chính là giấc mộng hòa bình, giấc mộng được chiến thắng trở về với quê hương, với gia đình, với người thương của mình. Và đôi mắt ấy cũng không chỉ ánh lên khát vọng mà còn ánh lên cả cái tình, cái cảm xúc yêu thương trong đó nữa.

"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Đôi mắt ấy thao thức trong canh thâu, nhớ về một Hà Nội cổ kính, với phố phường, với gia đình với cả "một dáng kiều thơm" trong trí nhớ. Là những người trí thức buông bỏ bút mực nghiên, vác lên vai cây súng bảo vệ quê hương, thế nên những người lính Tây Tiến luôn giữ trong mình cái vẻ hào hoa, lãng mạn của người trí thức ấy. Họ không như những anh lính mộc mạc trong thơ Chính Hữu:

"Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"

Chính "dáng kiều thơm" ấy là động lực để thôi thúc các anh hoàn thành nhiệm vụ cao cả của mình. Đồng thời nó cũng là niềm khao khát của những người lính biên cương.

Sau mỗi chặng đường hành quân vất vả, phải chăng nỗi nhớ quê, nhớ người thương lại là động lực mạnh mẽ, tiếp thêm sức lực cho các anh để các anh bằng tuổi trẻ, bằng khát vọng của mình đem hòa bình lại cho những "dáng kiều thơm" kia? Quang Dũng cũng thật tinh tế, bởi chỉ bằng hai câu thơ ngắn mà vẻ đẹp tâm hồn người lính Tây Tiến hiện lên thật hào hoa, thật lãng mạn biết chừng nào. Và bốn câu thơ đầu của khổ thơ thứ ba, Quang Dũng đã làm hiện lên trước mắt người đọc thật rõ ràng hình tượng người lính trong đoàn binh của mình. Những người lính ấy vừa oai phong, vừa đẹp vẻ đẹp của khát vọng lại vừa tinh tế, lãng mạn trong vẻ đẹp tâm hồn.

Trong chiến tranh, biết bao người lính đã ra đi với tuổi trẻ, với khát vọng hòa bình, nhưng lại chẳng trở về. Người ta thường nói, chiến tranh vô thường, làm sao tránh được hi sinh, mất mát:

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"

Mất mát, hy sinh có lẽ là những điều hiển nhiên trong mỗi trận chiến. Thế nhưng đọc câu thơ của Quang Dũng, người đọc chúng ta không khỏi xót xa trước những sự mất mát, hy sinh ấy. Âm điệu của bốn câu trước thật hào hùng biết bao thì đến đây, không khí ấy chợt chùng xuống sâu lắng. Trên mỗi chặng đường đi, những người lính lại lần lượt nằm xuống. Những ngôi mộ của họ vô danh, nằm rải rác giữa biên cương, chốn rừng thiêng nước độc. Ở đây, Quang Dũng chọn một từ ngữ Hán Việt "mồ viễn xứ" để diễn tả những cái chết của những người con xa nhà. Họ phải nằm lại nơi đất khách quê người. Từ Hán Việt "mồ viễn xứ", "biên cương" tạo nên không khí thật trang trọng, bi hùng như bài hùng ca tiễn biệt những người lính. Họ ngã xuống nơi đây, trở thành những người lính vô danh góp một phần vào nền độc lập của đất nước:

"Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra đất nước"

Thế nhưng dù có phải đối mặt với cái chết thì những người lính Tây Tiến vẫn quyết tâm ra đi vì khát vọng hòa bình. Vì khát khao cháy bỏng ấy, họ nguyện hiến dâng cho Tổ quốc cả tuổi thanh xuân, cả tính mạng của mình:

"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"

Một vẻ đẹp bi tráng đến thật lãng mạn! "Đời xanh" tức là tuổi thanh xuân của các anh, là tuổi trẻ với bao khát vọng. Thế nhưng, vâng lời kêu gọi của Tổ quốc ra chiến trường diệt quân thù, các anh quyết chí, đồng lòng ra đi, "chẳng tiếc" bất cứ điều gì cả. "Chẳng tiếc" - từ ấy vang lên như một câu trả lời dứt khoát cho tiếng gọi của Tổ quốc vừa ngạo nghễ vừa bình thản. Họ đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trong tim họ, chỉ có khát vọng hòa bình là đang cháy bỏng. Đau thương nhưng lại chẳng hề bi lụy trước số phận của cuộc đời.

Vẫn trong âm hưởng hào hùng, trầm lắng đó, Quang Dũng lại kể tiếp về khát vọng được cống hiến của Tổ quốc của những người lính đoàn quân Tây Tiền:

"Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Họ là những người trẻ, hơn ai hết, họ hiểu được giá trị của thanh xuân, của những ước mơ, khát vọng đời thường "dáng kiều thơm", thế nhưng được chết cho lý tưởng của đất nước thì cũng thật là thiêng liêng, thật là cao đẹp. Người lính hy sinh, trên người đâu còn lại gì. Thế nhưng, ở đây, Quang Dũng đã mỹ lệ hóa thành "áo bào". Tấm áo bào trước đây chỉ dành cho vua chúa quý tộc thì nay được khoác lên người những người lính chiến. Tấm áo ấy như lời vinh danh dành cho người lính vô danh đã ngã xuống, trở về với đất mẹ thân yêu. "Áo bào thay chiếu" là lời nói bi tráng hóa, mỹ lệ hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Và cụm từ "anh về đất" nghe sao có vẻ nhẹ nhàng, nhưng thực chất, đó chỉ là cách nói giảm nói tránh nỗi đau xót, thương cảm vô hạn của Quang Dũng dành cho những người lính hy sinh mà thôi. Với Quang Dũng, họ không chết, họ chỉ trở về với đất mẹ mà thôi. Bởi chúng ta sinh ra từ đất thì sẽ lại trở về với đất mẹ.

Những người lính hy sinh ngã xuống, trở thành những nấm mồ vô danh viễn xứ, nhưng sự hy sinh ấy không vô ích bởi nó góp phần tạo nên hòa bình cho đất nước, làm nên vinh quang cho lịch sử nước nhà. Với những người lính Tây Tiến, con sông Mã là con sông lịch sử. Bởi nó là chứng nhân của thời gian, là người bạn đồng hành của những người lính. Và giờ đây, khi họ ngã xuống, nó "gầm" lên khúc tráng ca tiễn biệt người đồng đội của mình. Tiếng gầm ấy như khúc nhạc tấu độc hành dành cho người lính để họ đi vào cõi bất tử.

Hai câu cuối của khổ ba, Quang Dũng liên tiếp sử dụng các từ ngữ Hán Việt. Nó vừa tạo nên không khí trang trọng, hào hùng, tôn nghiêm khi nói về sự hy sinh của những người lính, vừa tạo nên được vẻ đẹp bi tráng,lãng mạn, lẫm liệt của những người anh hùng xưa. Có thể nói, hai câu thơ cuối đã mỹ lệ hóa cái chết của những chàng trai trẻ, thế nhưng sự mỹ lệ ấy hoàn toàn vừa đủ để tôn lên sự hy sinh cao cả của các chàng trai tuổi mười tám ấy.

Đoạn thơ trên, Quang Dũng đã thể hiện vô cùng thành công nỗi nhớ thiên nhiên Tây Bắc hòa quyện cùng nỗi nhớ đơn vị của mình. Ông cũng sử dụng liên tiếp rất nhiều hình ảnh đặc sắc vừa nhạc vừa họa, những sự so sánh cường điệu tinh tế đồng thời xen lẫn với cảm hứng lãng mạn để nói về đoàn quân của mình. Có thể nói, khổ thơ này là một trong những khổ thơ đặc sắc nhất, kết tinh cho cả bài thơ Tây Tiến.

Tóm lại, khổ thơ thứ ba trong Tây Tiến của Quang Dũng đã dựng lên tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến. Người lính ấy không chỉ là những chàng trai trẻ tuổi hào hoa mà còn là những người anh hùng kiêu hãnh của đất nước. Họ mang trong mình tình yêu quê hương, tình yêu đôi lứa, khát vọng hòa bình và lời thề quyết tâm hiến dâng cho Tổ quốc. Đó là một lý tưởng thật cao đẹp, kiên trung, mỹ lệ. Và Quang Dũng đã khắc họa thật thành công hình tượng người lính đó!

Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến mẫu 3

Có thể nói, nếu chọn năm tác giả tiêu biểu của giai đoạn văn học thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, có thể không có Quang Dũng nhưng nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất định Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử, chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng không thê quên được hình ảnh đoàn quân ấy:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành!

Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp - nói đến gian khổ, hi sinh và địa bàn hoạt động - thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô-típ như thế:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùng

Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực - thực một cách trần trụi: chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiêng lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng, hào hoa.

Vì vậy, khó khăn, gian khổ là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi đi những tình cảm lãng mạn:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

“Mộng” và “mơ” cùa người lính được gửi về hai phương trời: biên cương, nơi còn đầy bóng giặc - mộng giết giặc lập công, và Hà Nội, quê hương yêu dấu - mơ những bóng dáng thân yêu. “Dáng kiều thơm”, ấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ không phải để thối chí nản lòng. Vậy mà một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã khiến cho tác giả của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồn”.

Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi - xưa nay đi chiến trận, mấy ai trở về, các chiến sĩ Tây Tiến cũng không khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ, đến đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi "mồ viễn xứ" của những người con "chết xa nhà". Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt bình thản, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên đường là hình ảnh người anh hùng da ngựa bọc thây mà họ tiếp nhận được trong văn chương sách vở. Một niềm đam mê trong sáng pha chút lãng mạn.

Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp - cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.

Áo bào thay chiếu anh về đất.

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng dưng trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.

Trước đây, khi nhắc đến những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những biểu hiện nào là “mộng rớt”, “buồn rơi” ... nhưng thời gian đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào bản chất, có thời đại ấy mới có văn chương ấy.

Tây Tiến là bài thơ, là tấm lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có nhạc, họa; bên cạnh cái bi là cái hùng, bên cạnh mất mát, đau thương là niềm kiêu hãnh anh hùng. Nửa thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.

Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến mẫu 4

Cả bài thơ là nỗi nhớ dạt dào về Tây Tiến, với những kỉ niệm một thời. những khó khăn trong cuộc sống và chiến đấu. cũng như những giờ phút thanh bình bên người dân Tây Bắc. Bài thơ còn miêu tả rất thực về hình ảnh của người lính. Về tinh thần và những phẩm chất tốt đẹp của họ.

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Môt đoạn thơ khắc họa rõ về những chàng trai Tây Tiến và hình ảnh tả thực gợi lên trong lòng người đọc nhiều niềm thương cảm và cả ngưỡng mộ.

Đoạn được mở đầu bằng lời miêu tả thẳng không chút tránh né sự thật.

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Cuộc sống chốn rừng núi Tây Bắc thiếu thốn vô cùng. Quân chiến đấu không đủ ăn, mặc không đủ ấm. Để chiến đấu họ phải cạo trọc đầu tạo thành đoàn “vệ trọc” “vệ đỏ” để kẻ thù không thể nắm được họ. Nhưng nguyên nhân khác là những cơn sốt rét rừng cực kỳ nguy hiểm, cứ đe dọa, rình rập, sẵn sàng lấy đi tính mạng của họ bất cứ lúc nào.

Trong bài “đồng chí” chính hữu cũng đã có đề cập tới những khó khăn và căn bệnh này

Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá, chân không dày

….

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.

Căn bệnh này thì bất cứ người lính nào cũng gặp nhưng đến với bài Tây Tiến ta những người chưa chứng kiến mới có thể hiểu được một cách chân thực nhất. Đó là sự thật không phải là nói quá hay là nói để tạo ấn tượng. thật thú vị vì nhà thơ lấy chính cái hiện thực khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh tự tốn cho mình. Đó là cái tên khác của Tây Tiến: “đoàn quân không mọc tóc.” Cũng như Phạm Tiến Duật gọi đoàn xe không kính của mình. Đó là một cách gọi dí dỏm thể hiện sự lạc quan và chất lính. Câu tiếp theo chia làm hai vế quân xanh màu lá/ dữ oai hùm. Màu xanh là màu xanh của lá ngụy trang hay chính là màu xanh da thịt của người lính cho quá vất vả và chịu đựng căn bệnh làm da nhợt nhạt không sức sống.

Như Tố Hữu cũng nói:

Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật

Đâu còn tươi nữa những ngày qua.

Cả đoàn quân sao mà yếu ớt nhưng bên cạnh đó là cả một khí thế oai phong. Cái bi đặt bên cái tráng làm nổi bật cái oai phong của đoàn quân. Ba tiếng “dữ oai hùm” tạo nên âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ. Người đọc cảm nhận khí thế của đoàn quân ra trận, dù yếu nhưng đã đánh cho Pháp phải khiếp sợ.

Dù cuộc sống có khó khăn nhưng những người lính Tây Tiến vẫn mang trong mình lắm mộng mơ, và khát vọng hòai bão.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Hai câu mang hai chữ “mộng” và “mơ”. Từ trừng được dùng khá đặc sắc, nó cho thấy bao tâm nguyện, khát vọng hoài bão tự đáy lòng đều gửi cả ở ánh mắt. “Mắt trừng” không phải chỉ hành động mạnh nhìn trừng trừng dữ dằn, dọa nạt mà là cái nhìn đau đáu, khôn nguôi thể hiện những mong ước đến khắc khoải, mong ước về một ngày chiến thắng kẻ thù. Chữ “mộng” khiến câu thơ chùng xuống ẩn chứa cảm xúc bâng khuâng. Câu thơ của Quang Dũng khiến ta nhớ tới một câu thơ của Nguyễn Đình Thi:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Nhớ “người yêu” hay nhớ “dáng kiều thơm” làm hình ảnh người lính trở nên gần gũi hơn rất nhiều. Vì nỗi nhớ rất đỗi bình thường của những chàng thanh niên, nhưng trong lúc khó khăn cũng thật cao quý. Nỗi nhớ và những mộng mơ giúp tiếp thêm sức mạnh và nghị lực để vượt lên hoàn cảnh. Để vượt qua thiếu thốn vật chất, những con đau dằn xé. Để không gục bởi hoàn cảnh trứơc khi gục trước kẻ thù. Quang Dũng đã viết nên bốn câu thơ đầu với cái nhìn đa chiều, phong phú. Để ta thấy đằng sau phong thái hùng dũng cũng có một tâm hồn trẻ và tài hoa.

Hai câu thơ tiếp theo là sự tiếp nối của sự chiến đấu giành độc lập tự do. Đó là sự hy sinh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Nếu ta chỉ đọc câu thơ đầu thì không thể không xúc động trước cái hiện thực quá đỗi bi thương. Cả một đoàn quân đang đi trên con đường dài thì thỉnh thoảng có một người ở lại sau lưng. Bên đường lại mọc lên một nấm mồ. Giữa rừng núi, không một nén hương, không nước mắt người thân. Những cái chết cô độc giữa rừng lạnh lẽo, bi thảm, nhưng câu thơ sau như một lực kéo vô hình nâng câu đầu lên để kéo cái bi thảm thành cái bi tráng. Câu thơ thứ hai chính là câu hát đầu thách thức ngạo nghễ của các chàng trai. Biết đi là hy sinh đó nhưng một khi đã đi thì không quay đầu trở lại. Dù có hy sinh cũng là sự hy sinh xứng đáng. Nói không tiếc thì cũng không thể vì họ là thanh niên còn nhiều cái chưa làm đưọc, nhưng đây là hiến dâng phần còn lại của cuộc đời cho tổ quốc nên không tiếc nữa. Như anh lính trong dáng đứng Việt Nam

Và anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Những sự hy sinh vĩ đại. dù ta không thể biết ai đã hy sinh nhưng Nguyễn Khoa Điềm của từng khẳng định “không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm nên đất nước.”

Một khi xác định được lý tưởng những người lính xem cái chết mình nhẹ tựa lông hồng.

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Cuộc sống thiếu thốn đến nỗi không có mảnh chiếu che thân nhưng với Quang Dũng mảnh áo kia chính là “áo bào” như những chiến tướng của ngày xưa. Một cái chết hào hùng và sang trọng vì là chết cho đất nước. Đất đã sinh ra anh và lại đón nhận anh trở về khi đã làm xong nghĩa vụ thiêng liêng của anh. Anh ra đi không mang theo tiếng khóc của đồng đội nhưng tiếng gầm của sông Mã đã tiễn anh ra đi. Cả quê hương đất nước như đang tiếc thương đưa anh về đất. Vẫn là cái chết nhưng lại hào hùng, không bi lụy mà bi tráng. Đây là điểm nhấn xuyến suốt bài thơ. Là cái đặc sắc của Quang Dũng. Nhưng lúc bài thơ ra đời nhiều người không hiểu được. Họ coi việc nói thực là cái chết là kể lể, yếu mềm theo kiểu tiểu tư sản. nhưng họ chưa hiểu được sâu là đằng sau cái chết là cái hào hùng. Cái chết chỉ là cái nên cho sự vinh quang.

Ở đây sông Mã một lần nữa được nhắc lại khi nói đến Tây Tiến. Điều đó khẳng định sự hy sinh và ra đi của các anh đã đi vào bất tử khi thân xác hòa vào cỏ cây và vào đất mẹ thiêng liêng.

Đoạn thơ đã tạo nên được khí thế của đoàn quân. Những người lính với ý chí kiên cường, nghị lực và những ước mơ. Họ đã ra đi, chiến đấu và hy sinh. Họ đã bảo vệ tổ quốc không tiếc đời mình. Quang Dũng là thể hiện được điều đó bằng bút pháp tả thực và cả lãng mạn. Nhà thơ bộc lộ được tinh thần của một chiến sĩ Cụ Hồ thời chống Pháp.

“Đoàn vệ quốc quân một lòng ra đi

Nào có xá chi đâu ngày trở về.”

Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến mẫu 5

Theo dòng kí ức, ngược về quá khứ, ta đã bắt gặp không biết bao nhiêu hồn thơ khiến mỗi chúng ta đắm say mê mẩn như lạc vào thế giới đó. Quang dũng cũng là một nhà thơ như vậy. Ông là người tài hoa, vẽ tài hát giỏi, thơ hay. Ông để lại cho đời nhiều bài thơ với những âm hưởng đặc sắc. Tiêu biểu là bài thơ Tây Tiến mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng mạn mà ta được học ở chương trình phổ thông. Có thể nói, cả bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến, về những người đồng đội nhưng nỗi nhớ da diết, lắng đọng nhất lại được nhà thơ tập trung thể hiện rõ nhất ở việc khắc họa chân dung người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ ở khổ 3 của bài thơ:

“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh mà lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo dài thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Thật vậy, bài thơ Tây Tiến được ra đời trong những năm không thể nào quên của Quang Dũng. Tây Tiến là một tên một đơn vị bộ đội được thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang Lào bảo vệ biên giới. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại làng Phù Lưu Chanh, với nỗi nhớ Tây Tiến da diết với những năm tháng mưa bom bao đạn không thể nào quên, ông chắp bút cho ra bài thơ đặc sắc Tây Tiến, in trong tập Mây đầu ô năm 1986. Bài thơ là bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên hùng vĩ, về quãng thời gian chiến đấu gian khổ ngày đêm bên nhau với ý chí, tinh thần quật cường. Đặc biệt hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên vừa oai hùng, kiêu ngạo, vừa thơ mộng trữ tình.

Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên vừa chân thực, vừa hào hùng. Nếu ở hai đoạn thơ trước, thiên nhiên là nhân vật chính thì ở khổ ba, con người vượt lên để làm điểm nhấn, chất xúc tác cảm xúc cho bài thơ lên đến cao trào.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Đoạn thơ trên làm sống dậy một hình ảnh đoàn binh Tây Tiến gan góc, dũng cảm. Ở họ mang một hào khí đáng ngưỡng mộ. Họ chỉ là những cô cậu sinh viên hà thành mới từ giã mái trường, gia đình lên đường chiến đấu còn biết bao bỡ ngỡ, lạ lùng với những thứ xa lạ, ngây ngô nhưng họ vượt lên trên cảm giác sợ hãi, thay vào đó là sự oai hùng của tuổi trẻ, của sự nhiệt huyết bừng cháy. Nhà thơ dùng “không mọc tóc” để miêu tả đoàn binh. Đó là hình ảnh chiến sĩ rất khác lạ. Bên cạnh việc chọn ngày đêm phải chống trọi với kẻ thù tàn nhẫn, họ còn phải gồng mình vượt qua thiên nhiên khắc nghiệt. Họ sống và chiến đấu nơi rừng thiêng nước độc, nơi sông sâu núi thẳm thiếu ăn, thiếu thuốc, mắc các dịch bệnh sốt rét dẫn đến trọc đầu. Chính nhà thơ Chính Hữu cũng đã từng đề cập đến bệnh này:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”

Nhà thơ đã lột tả một cách trần trụi sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã khiến cho họ trở nên một cách kì lạ. Đó cũng là một sự thật trần trụi đến khắc khổ của binh đoàn Tây Tiến. Họ có làn da xanh xao vì đói rét nhưng họ vẫn “oai hum” khiến kẻ địch khiếp sợ. Đó mới chính là nét đẹp đáng khâm phục của đoàn binh Tây Tiến.

Mặc dù quyết tâm đánh giặc nhưng trong họ vẫn còn tỏa ra chất lãng mạn vốn có của người lính. Họ không cứng nhắc, khô khan, cũng có những phút giây họ giành cho người thân gia đình. Họ nhớ về quê hương nơi mà người thân họ vẫn ngày đêm trông mong. Họ nhớ về những bóng dáng thân yêu. Hình ảnh “mắt trừng” là mắt quắc lên vẻ dữ tợn nhưng họ gửi mộng đánh thắng quân thù qua biên giới. họ nghĩ đến một viễn cảnh tươi sáng hơn cho gia đình họ.

Có thể thấy Quang Dũng đã khéo léo khắc họa hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng bi tráng nhưng cũng rất đỗi lãng mạn tình tứ chỉ qua vẻn vẹn bốn câu thơ nhưng thấm đượm nỗi lòng thầm kín của nhà thơ.

Sự hi sinh của người lính Tây Tiến cũng rất bi tráng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Hình ảnh người lính hi sinh bản thân nơi chiến trường khắc nghiệt thật khiến ta đau xót. Họ cống hiến bản thân mình cho Tổ quốc, họ ngã xuống nơi chiến trường. Họ nằm lại nơi đất khách quê người, không một vòng hoa, không một nén hương tưởng nhớ. Lạnh lẽo, bi thương nhưng trước khi lên đường cầm súng chiến đấu họ đã xác định ranh giới giữa cái chết với cái sống là quá mong manh. Họ chấp nhận điều đó.

Họ mang tuổi trẻ, nhiệt huyết của mình cống hiến cho quê hương. Tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất, nhiều ước mơ hòai bão lớn lao đầy hứa hẹn nhưng họ chẳng tiếc mà nhiệt tình dâng hiến cả sức trẻ cho Tổ quốc. Đó là một sự hi sinh vĩ đại, thầm lặng đáng ngợi ca và trân trọng biết bao.

Cái chết của họ cũng rất bi tráng. Hình ảnh chiếc “áo bào” thay “chiếu” khiến ta thấm thía biết bao suy ngẫm. Quang Dũng đã khéo léo dùng từ Hán việt để giảm bớt sự bi thương cho cái chết oanh liệt ấy. Đất Mẹ ôm ấp, vỗ về họ như dang những cách tay dài đón họ vào lòng như những đứa con xa quê hương về với cái ôm đầy tình cảm của người mẹ. Quang Dũng đã mượn luôn âm thanh của thiên nhiên như là khúc ca kêu thêm sự đau thương mất mác. Sông Mã gầm lên ai oán. Câu thơ ấy mang âm hưởng dữ dội như cào vào lòng người những vết xước sâu không thể nào quên đi được nhưng nó cũng mang âm hưởng bi tráng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi lụy chút nào. Tây Tiến mùa xuân ấy như khúc ca còn vang mãi trong lòng mỗi người.

Tóm lại, đoạn thơ thứ ba đặc sắc nhất của bài thơ có giọng điệu trang trọng thể hiện tình cảm của nhà thơ một cách sâu sắc. Đặc biệt với những hình ảnh thơ thấm đẫm kỉ niệm mà nhà thơ hồi tưởng lại man mác buồn nhưng thấm đẫm bi tráng hào hùng. Nhà thơ khéo léo sử dụng từ Hán Việt khiến đoạn thơ trang nghiêm lên nhiều hơn. Qua những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, Quang Dũng đã vẽ ra bức tranh về đoàn binh Tây Tiến. Họ oai nghiêm, lẫm liệt yêu nước nồng nàn nhưng cũng rất lãng mạn. Đây là đoạn thơ sâu sắc đúc kết cả cái tình, cái thần cho toàn bài, là điểm nhấn nổi bật mà ta không thể nào quên.

Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến mẫu 6

Quang Dũng (1921 - 1988) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Trong các sáng tác của ông thì Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông. Bài thơ được viết bằng bút pháp lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ, mĩ lệ. Có thể nói, nỗi nhớ da diết những người đồng đội Tây Tiến của Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc hoạ bức chân dung người lính Tây Tiến:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (xuất bản năm 1986) nhưng trước đó đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài thơ này từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm của Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào, tha thiết.

Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ. Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến. Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.

Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những người đồng đội cùng trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã hồi tưởng và vẽ lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân.

Người lính ấy phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu thiếu thốn nên:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người lính thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn bệnh này: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc đánh giáp lá cà, nhữnh cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng.

Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực tình yêu thương:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức “trừng” lên quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành, những người em, những người bạn gái thân thương quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn nhiều chiều, đã khắc hoạ chân dung người lính không chỉ ở dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được thế giới nội tâm, tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ.

Trong chiến tranh, mất mát hi sinh là không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện thực này không che giấu theo cách riêng của ông:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ”, “chiến trường” kết hợp với từ láy “rải rác” đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau thương vì mất mát lắng xuống. Điều nổi bật lên là vẻ đẹp lãng mạn của lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến. Cách nói “chẳng tiếc đời xanh” vang lên khảng khái khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến.

Hai câu thơ:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân chiến đấu không có đến cả manh chiếu bó thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm “anh về đất” làm vợi đi cái bi thương, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông Mã. Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ có nhịp điệu chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng. Quang Dũng và cả đoàn quân Tây Tiến nguyện thề “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể hiện quyết tâm gắn bó máu thịt với những ngày những nơi mà đoàn quân đã đi qua. Tây Tiến mùa xuân ấy đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của lịch sử. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.

Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Đoạn thơ với, cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân dung tập thể những người lính Tây tiến đậm chất bi tráng. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền tây.

Cảm nhận khổ 3 Tây Tiến mẫu 7

Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh người lính hiện lên với vẻ đẹp hào hùng mà thơ mộng. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong khổ thơ thứ ba của bài thơ:

Tây Tiến nhìn từ chiều sâu kỉ niệm thật có những hồi ức khó quên. Những có lẽ đậm sâu nhất lòng Quang Dũng là dáng dấp người lính Tây Tiến từ lâu được khắc tạc thành những anh hùng bất tử trong trí nhớ. Bắt đầu là nhớ về hình ảnh những “đoàn binh không mọc tóc”:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Bài thơ làm sống dậy hình ảnh của một đoàn quân Vệ quốc. Bước chân họ in trên khắp các nẻo đường đất nước. Họ tình nguyện dấn thân vào cuộc kháng chiến, gian khổ lắm lúc vượt quá sức chịu đựng của những chàng trai Thủ đô mới từ giã mái trường, góc phố. Một sự thật trần trụi và khắc khổ về người lính thời chiến hiện ra: Họ sống và chiến đấu nơi rừng sâu núi thẳm, thiếu ăn, thiếu thuốc, sốt rét liên miên đến rụng tóc, trọc đầu, da xanh tái. Quang Dũng chỉ phản ánh lại hiện thực chứ không hề cường điệu. Đâu phải riêng Quang Dũng mới nhắc về sự thật ấy. Tố Hữu cũng từng đau lòng mà viết: “Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ”. Nhưng vốn mang trong mình khí chất của người chinh phu tráng sĩ, Quang Dũng nói về cái bi chỉ cốt để gợi cái tráng. Người chiến sĩ chủ động “không mọc tóc” chứ không phải “tóc không mọc”. Ta nghe trong đó chút dí dỏm tươi vui, cũng là niềm lạc quan không ngại khổ ngại khó.

Quyết tâm giết giặc, gian khổ đói rét không làm giảm chất lãng mạn vốn có trong từng chiến sĩ. Giữa những cuộc hành quân chiến đấu, họ vẫn dành riêng cho mình dăm ba phút để nhớ về quê hương, nhớ về những bóng dáng thân yêu: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.” Tâm hồn lãng mạn đưa các anh về cùng những giấc mơ. Là mơ chứ không phải nhớ, là cảm xúc nằm trong tiềm thức chứ không phải trong ý thức, đó là động lực để cho các anh cầm chắc tay súng, như nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng nói về cảm xúc ấy:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Nhớ về đồng đội, Quang Dũng cũng không né tránh những mất mát hy sinh, nhưng hẳn rằng Tây Tiến là một trong số ít bài thơ viết về điều đó một cách thấm thía bằng cảm hứng bi tráng:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Chốn biên cương nơi bom rơi đạn nổ đã lấy đi bao xương máu, để lại những nấm mồ xanh đã hóa thành bất tử. Nhìn thẳng vào sự thật, ta thấy ở đó bao mất mát hy sinh. Nhưng nhìn xa hơn sự thật, ta thấy đằng sau sự hy sinh là chí khí người anh hùng “chẳng tiếc đời xanh”, dám quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đời xanh là tuổi trẻ với bao nhiêu hoa mộng. Đẹp là thế, hứa hẹn nhiều là thế nhưng các chiến sĩ ta chẳng tiếc mà nhiệt thành hiến dâng cho Tổ quốc. Hỏi có sự hy sinh nào cao quý hơn, đáng ca ngợi hơn? Một lần nữa, Quang Dũng khắc tả được tinh thần của những chinh phu tráng sĩ thời xưa:

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao

Ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây và coi đó là vinh quang tột đỉnh, còn chiến sĩ Tây Tiến thì “áo bào thay chiếu anh về đất.” Nhịp điệu câu thơ chậm rãi và trang trọng. Một chi tiết rất thực được nhắc đến trong câu thơ thấp thoáng phong vị cổ này là hình ảnh áo bào thay chiếu. Không có manh chiếu, các anh “về đất” bằng chiếc áo bào. Ta không thấy ở đó sự thiếu thốn mà chỉ thấy khí chất của người anh hùng sánh ngang tầm với non sông. Âm thanh của sông Mã gầm lên vừa như tiếng khóc của thiên nhiên đất trời, vừa như khúc nhạc kì vĩ đưa cái chết của người lính vào cõi trường cửu.

Như vậy, qua phân tích trên, khổ thơ thứ ba của bài thơ “Tây Tiến” là một khổ thơ hay. Hình ảnh người lính của binh đoàn Tây Tiến hiện lên đầy chân thực.

Cảm nhận khổ 3 Tây Tiến mẫu 8

Hình ảnh người lính nói chung và những người lính thời kỳ chống Pháp nói riêng từ lâu đã đi vào văn chương như một nguồn thi cảm. Các nhà thơ viết về người lính với tất cả niềm kiêu hãnh, tự hào. Giữa muôn vàn những tác phẩm như vậy, Tây Tiến là bài thơ có vị trí đặc biệt. Hình tượng người lính cụ Hồ còn thể hiện rõ hơn trong khổ thứ 3.

Về xuất thân, các chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Mặc dù hoàn cảnh chiến đấu rất gian khổ, thiếu thốn về vật chất, thuốc men với căn bệnh sốt rét hoành hành dữ dội nhưng những người lính Tây Tiến vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Có thể nói những người lính Thủ đô đã đi vào cuộc kháng chiến mang theo vẹn nguyên cái mộng mơ, lãng mạn, hào hoa của người con đất Hà Thành.

Bằng bút pháp lãng mạn mà không thoát li hiện thực, bài thơ đã khắc họa sừng sững bức tượng đài người lính trường tồn, bất tử mãi mãi với không gian, thời gian.

Dường như khi người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ là khi anh tạm nghỉ chân trước cuộc đời. Cái chết không đồng nghĩa với ngừng chiến đấu vì tâm hồn, vì ước nguyện của anh sẽ mãi trường tồn với thời gian. Anh ngã xuống nhưng vẫn kịp trao ngọn lửa tuổi trẻ cho những đồng đội tiếp tục con đường cách mạng vinh quang.

Sự hi sinh của các anh làm người đọc không khỏi nghẹn ngào: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Chữ “rải rác” được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh cho sự quạnh quẽ, lạnh lẽo, hoang vắng gợi cảm giác xót xa đau đớn nhưng đôi cánh của lí tưởng quên mình vì Tổ quốc“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã xoa dịu nỗi đau làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến.

Có lẽ hình tượng người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử với muôn đời. Dòng lịch sử có thể đổi thay nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình tượng đẹp đẽ nhất. Qua dòng hồi tưởng của Quang Dũng, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên trong sự đối mặt với khó khăn, gian khổ, hi sinh nhưng lúc nào cũng lạc quan phơi phới yêu đời. Với âm hưởng thơ lúc dữ dội, khi sôi nổi, lúc lại vang vọng, trầm lắng, bài thơ đã dẫn hồn người đọc trở về một thời quá khứ xưa, để cùng lắng cảm trong nỗi nhớ thương da diết của Quang Dũng.

Cảm nhận khổ 3 Tây Tiến mẫu 9

Quang Dũng là một nhà thơ đa tài với nhiều tác phẩm nổi bật. Bài thơ Tây Tiến đã khắc họa được hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên đầy chân thực, đặc biệt là khi đọc khổ thơ thứ ba:

"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Đoàn quân Tây Tiến trước hết hiện lên qua hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”. Cụm từ “không mọc tóc” cho thấy sự chủ động của người lính. Ở nơi chiến trường gian khổ, mọi công việc sinh hoạt đều diễn ra một cách đơn giản nhất. Họ chọn cách cắt đi mái tóc của mình để thuận tiện cho cuộc sống nơi chiến trường. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh đoàn binh không mọc tóc còn nói về một thực tế khốc liệt nơi chiến trường. Những cơn sốt rét rừng khiến cho người lính bị rụng hết tóc. Tiếp đến là hình ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu cho người đọc. Cách thứ nhất đó là màu xanh của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai đó chính là khuôn mặt xanh xao của những người lính bởi những cơn sốt rét rừng. Dù được hiểu theo cách nào, chúng ta vẫn thấy được sự khó khăn, gian khổ mà người lính Tây Tiến đã trải qua.

Nhưng không chỉ dũng cảm, Quang Dũng còn cho thấy họ là những lính lãng mạn, hào hoa. Xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản, người lính Tây Tiến xung phong vào nơi chiến trường trận mạc trở thành những người lính nhưng vẫn mang giữ tâm hồn của những chàng sinh viên. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” - đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Với hình ảnh này, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây Tiến.

Nhà thơ tiếp tục khắc họa hình ảnh đoàn quân Tây Tiến qua sự hy sinh. Việc sử dụng biện pháp đảo ngữ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” kết hợp với từ láy “rải rác” và các từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” khiến cho giọng thơ bỗng nhiên trở nên trang trọng hơn. Ở đây không còn chỉ là một cái chết, mà là rất nhiều cái chết. Chiến trường là nấm mồ chung của biết bao con người. Nhưng dù đồng đội của các anh đã ra đi, nhưng các anh vẫn nguyện đem thân mình dâng hiến cho tổ quốc. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” như một lời khẳng định. Những người lính nguyện đem thân mình cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Các anh chẳng tiếc nuối những năm tháng tuổi trẻ. Nhưng làm sao mà không tiếc nuối cho được. Họ mới chỉ là những chàng trai tuổi mười tám đôi mươi còn nhiều thơ mộng. Nhưng vì lý tưởng cách mạng họ nguyện hy sinh tất cả. Hình ảnh “áo bào” gợi ra hai cách hiểu sâu sắc. Những người lính khi ra đi, đồng đội của các anh không có gì để chôn cất nên các anh phải dùng những chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng - đó là tấm chiến báo khoác lên mình những chiến tướng. Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những chiến công vang dội giống như những vị tướng thời xưa. Với hình ảnh này, người lính đã được bất tử hóa. Các anh không chết đâu, các anh vẫn mãi sống trong lòng của người dân Việt Nam. Đặc biệt nhất là câu thơ cuối cùng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Trước sự hy sinh ấy, con sông Mã - con sống gắn bó với cuộc sống người lính Tây Tiến tại núi rừng Tây Bắc dường như cũng không thể im lặng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã vốn là vật vô tri vô giác lại được nhân hóa qua động từ “gầm”. Cái chết của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót mà vang lên khúc tráng ca tiễn biệt. Quả là khi đọc đến những câu thơ này, mỗi người đều sẽ cảm thấy thật xúc động.

Khổ thơ thứ ba đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến vô cùng chân thực. Người đọc qua đây hiểu thêm về sự khốc liệt nơi chiến trường, cũng như tinh thần lạc quan của người lính.

Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến mẫu 10

Năm tháng trôi qua, chiến tranh đã trở thành những điều cũ thuộc về hồi ức, song có những thứ vẫn in hằn trong tâm trí những người đang sống. Hình tượng người lính chính là điều đặc biệt đó. Có rất nhiều tác phẩm viết về người lính nhưng “Tây Tiến” – Quang Dũng là tác phẩm tiêu biểu ấn tượng nhất. Trong dòng hồi ức và nỗi nhớ da diết, nhà thơ đã tái hiện hình tượng người lính Tây Tiến rất đỗi hào hùng, gợi lên nhiều xúc cảm trong lòng người đọc:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Rài rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,

Áo bào thay chiếu anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Nếu như mở đầu bài thơ, tác giả tái hiện khung cảnh thiên nhiên rừng núi hoang vu, hiểm trở - những khó khăn trên đường hành quân thì đến đây, ông lại hoài niệm về hình ảnh của đoàn chiến binh Tây Tiến:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Câu thơ mở đầu dường như chỉ mang chút ngang tàng tinh nghịch chất lính song ẩn sâu trong đó lại là hiện thực đầy khắc nghiệt của điều kiện sống. Nơi rừng thiêng, nước độc, người lính phải đối mặt biết bao gian khổ. Không mọc tóc chính là hậu quả của những cơn sốt rét rừng, bệnh tật hành hạ khiến họ trở nên xanh xao, màu da giống như hòa cùng màu quân phục. Hai câu thơ đã tái hiện sinh động hình ảnh thực về người lính khi vừa chiến đấu với quân thù vừa chiến đấu với bệnh tật.

Tuy nhiên, những khó khăn khắc nghiệt vẫn không thể khiến họ trở nên yếu đuối, mất đi vẻ oai phong dữ dội:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Mắt trừng lên dữ dội là để gửi mộng vượt biên cương, để "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Binh đoàn Tây Tiến hầu hết là những chàng trai hào hoa chốn hà thành, khoác áo lính lên đường bảo vệ biên cương nhưng dấn thân vào gian khổ, họ vẫn giữ trong mình tâm hồn lãng mạn đầy thơ mộng. Rời xa quê nhà, họ luôn lưu giữ trong lòng mình bóng dáng thanh lịch, thướt tha của người con gái thân thương. Đó không phải tư tưởng tiểu tư sản mộng rớt như nhiều người đánh giá mà là tình cảm hết sức chân thật của người chiến sĩ, nó mang một ý nghĩa nhân văn chân chính gửi gắm ước mơ tươi đẹp của con người về một cuộc sống hoà bình, hạnh phúc. Nó trở thành động lực để người lính ra đi chiến đấu.

Đoạn thơ là sự kết hợp tinh tế ngòi bút tả thực và tinh thần lãng mạn, thể hiện phong cách tài hoa của hồn thơ Quang Dũng. Bằng thủ pháp dường như đối lập, Quang Dũng đã vừa khắc họa được vẻ đẹp hào hùng, bi tráng, vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và nhạy cảm của người chiến sĩ Tây Tiến. Họ chính là những người anh hùng vĩnh cửu của dân tộc, sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất...”

Chiến tranh vốn là những mất mát, những đau thương, hiện thực khắc nghiệt và hiểm nguy đã khiến rất nhiều người phải ngã xuống. Những người lính Tây Tiến h sinh mà không nuối tiếc tuổi thanh xuân, họ ra đi mà vẫn mang theo những tình riêng mơ mộng. Nơi biên cương viễn xứ họ về với đất mẹ mà không manh chiếu niệm thân, chỉ có "áo bào thay chiếu anh về đất”. Hai chữ “áo bào” trong đoạn thơ đã thể hiện niềm trân trọng và tiếc thương, nâng cao hình tượng người lính, làm mờ đi thực trạng thiếu thốn ở chiến trường. “Anh về đất” nhẹ tựa lông hồng, hi sinh cho tổ quốc và sống mãi trong lòng quê hương để sông Mã cất lên khúc tráng ca thương tiếc tiễn biệt: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành".

Một tiếng “gầm” như găm chặt nỗi đau đớn dồn nén, quặn thắt, lặng lẽ chảy ngược vào tim. Hiện thực chiến tranh vốn dĩ là đau thương như thế.

Có thể nói, với tám câu thơ ngắn mà chứa chan niềm thương nỗi nhớ, bút pháp hiện thực kết hợp yếu tố hiện thực, Quang Dũng đã đưa người đọc trở lại một thời Tây Tiến với bao bi tráng. Đặc biệt, khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến rất hào hùng mà cũng hào hoa, bi tráng mà lãng mạn. Đoạn thơ từ đó đã góp phần thể hiện phong cách tài hoa độc đáo của Quang Dũng, góp phần đưa “Tây Tiến” trở thành một tác phẩm văn học đầy giá trị thời kỳ kháng chiến. Để rồi đến tận hôm nay người ta vẫn luôn nhớ về “Tây Tiến” với tấm lòng ngợi ca, trân trọng.

Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến mẫu 11

Những bài thơ hay thường tạo nên nhiều kiểu rung cảm thẩm mỹ nơi người đọc, thậm chí còn gây nên nhiều tranh luận xung quanh các câu chữ, hình ảnh, cảm xúc... Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ như thế. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, Tây Tiến không chỉ đứng vững mà còn có sức sống kì diệu. Trong tâm hồn thi nhân, Tây Tiến là một thời để thương, để nhớ, nhớ những kỉ niệm của người chiến binh trong những ngày tháng sống và chiến đấu cùng binh đoàn, nhớ cảnh rừng núi Tây Bắc vừa hiểm trở vừa hùng vĩ vừa không kém phần thơ mộng, nhớ những tháng ngày hành quân gian khổ, nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ, những thời khắc nghỉ lại bản làng đầm ấm, thắm thiết tình quân dân…

Nếu như ở hai đoạn đầu của bài thơ, người đọc được tiếp cận với hình ảnh người lính một cách gián tiếp thì đoạn thơ thứ ba trực tiếp khắc họa chân dung người lính Tây Tiến:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
............
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Lúc bấy giờ, ngoài Quang Dũng còn có những gương mặt quen thuộc như bác sĩ Phạm Ngọc Khuê, đại đội trưởng - nhạc sĩ Như Trang, nhà thơ Trần Lê Văn. Họ đều là những chàng trai Hà Thành còn rất trẻ. Binh đoàn Tây Tiến phần đông là thanh niên trí thức Hà Nội (các trường: Sư phạm, Bưởi, Thăng Long, Văn Lang...). Họ mang vào chiến trường không chỉ tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà còn cả những nét hào hoa, thanh lịch của người Tràng An. Cuộc sống chiến đấu gian khổ thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ. Tố chất người Tràng An thấm tận máu, tận hồn, là một chàng trai đa tài (làm thơ, vẽ tranh, viết nhạc...), lại đã từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn Tây Tiến, Quang Dũng đã rất thành công khi khắc họa chân dung người lính Tây Tiến, đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm mĩ về những chiến sĩ hào hùng mà rất đỗi hào hoa. Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng thấp thoáng dáng dấp của những chinh phu trong văn học cổ, hay người hùng nước Vệ dứt áo lên đường, không hẹn ngày trở lại..

Thời chống Pháp, thơ viết về anh bộ đội thường viết về những người nông dân mặc áo lính với vẻ đẹp bình dị, mộc mạc.

Rồi "Đồng chí" của Chính Hữu, "Cá nước của Tố Hữu, đều miêu tả người lính “chân quê”:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.

(Đồng chí, Chính Hữu)

Người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng vừa có những đặc điểm riêng lại vừa được khắc họa theo một bút pháp riêng. Bằng bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng triển khai trên nền ký ức (nỗi nhớ), Quang Dũng đã dựng lên tượng đài bằng thơ về người lính Tây Tiến.

Đó là bức chân dung lẫm liệt, oai hùng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Một số ý kiến cho rằng đây là hình ảnh tột đỉnh của sự độc đáo. Ngược lại, một số cho rằng hình ảnh “đoàn binh không tóc” và “dữ oai hùm" là không chân thực, thậm chí còn làm cho hình ảnh anh bộ đội chống Pháp trở nên “quái đản”. Cảm nhận thơ như vậy là vừa chưa đúng với đặc trưng của bút pháp lãng mạn, vừa chưa thật hiểu đầy đủ thực tế của cuộc kháng chiến. Thực tế kháng chiến chống Pháp không chỉ những anh bộ đội “lá ngụy trang reo với gió đèo” mà còn có cả những “anh vệ trọc” nổi tiếng một thời. Cho nên, hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “dữ oai hùm” vừa là một thực tế, vừa là sản phẩm của cảm hứng và bút pháp lãng mạn.

“Đoàn binh không mọc tóc” là hình ảnh đoàn quân bị rụng hết tóc, hậu quả của những cơn sốt rét rừng hoặc phải sống miền “rừng thiêng nước độc”; “quân xanh màu lá” nghĩa là đoàn quân có nước da xanh như tàu lá - đây cũng là hậu quả của những cơn sốt rét rừng cả, do gian khổ và thiếu thốn; thế nhưng đoàn binh vẫn toát lên vẻ “dữ oai hùm”, nghĩa là vẫn dữ tợn như loài hổ báo của rừng xanh. Đây là cách ví người hùng theo lối cổ chứ không phải “làm xấu đi hình ảnh anh bộ đội” như có người đã nghĩ.

Âm hưởng đoạn thơ hào hùng do nhấn mạnh tính chất oai phong lẫm liệt của “đoàn binh”. Cách miêu tả chân dung người lính Tây Tiến khiến ta nhớ tới câu thơ của Phạm Ngũ Lão thời Trần cũng miêu tả người tráng sĩ với “hào khí Đông A”:

Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Múa giáo non sông đã mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu).

Vẻ đẹp của câu thơ chính là ở tinh thần bi tráng lẫm liệt của đoàn binh Tây Tiến một vẻ đẹp có sự cộng hưởng của âm vang truyền thống và tinh thần thời đại, giữa những người chiến binh năm xưa với những người lính cụ Hồ hôm nay.

Hai câu thơ tiếp theo đã khắc họa một cách sinh động đời sống tâm hồn của những chiến sĩ Tây Tiến:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

“Hai câu thơ như nhốt cả hai thế giới” (Vũ Quần Phương), “thấy nổi lên lời độc tấu của chàng trai Hà Nội” (Đặng Anh Đào) vừa rất hào hùng lại rất hào hoa. Hình ảnh “mắt trừng” thể hiện ý chí quyết tâm ngùn ngụt của ngọn lửa chiến đấu bảo vệ biên cương. Hình ảnh ấy cũng biểu hiện hoài bão, khát vọng lập công và cháy bỏng căm thù của người lính Tây Tiến. Và ngay trong cuộc sống chiến đấu gian khổ dữ dằn đó, những người lính vẫn để tâm hồn cho những hình ảnh thật dịu hiền, thân thương: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Chiến tranh thật tàn khốc nhưng chiến tranh không thể cướp được chất hào hoa của những chàng trai Hà thành. Không gì có thể ngăn được những phút giây mơ mộng trong tâm hồn người lính. Có một thời, người ta đã gán cho Tây Tiến những “mộng rớt“, “buồn rớt” chính là vì những câu thơ như thế này. Thực ra câu thơ đã diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt rất thành công vẻ đẹp này trong bài thơ Đất nước:

Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Khác với nỗi nhớ của người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi và các nhà thơ khác, Quang Dũng thể hiện tình cảm của người lính qua giấc mơ, khiến cho nỗi nhớ cũng lãng mạn như chính tâm hồn họ vậy. Giấc mơ đã nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào hoa!

Nói đến chiến tranh, nói đến đời lính không thể không nói đến cái chết. Quang Dũng cũng không né tránh và nhà thơ đã nói theo cách riêng của mình:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Chất “tráng sĩ ca” được bộc lộ một cách hào hùng và cũng đầy bi tráng. Nhà thơ mượn một ý thơ cổ (Chinh phụ ngâm) nhưng tình ý thì rất mới. Ba chữ “mồ viễn xứ" gợi cảm giác buồn thầm lặng - sự hy sinh thầm lặng của những chiến sĩ vô danh. Ý nghĩa câu thơ mở ra thật lớn: “rải rác” đây đó nơi “biên cương”, những nấm mồ “viễn xứ” không một vòng hoa, không một nén hương, thật lạnh lẽo, thê lương. Bức tranh chiến trận sẽ trở nên ảm đạm nếu nhìn bi quan như vậy. Nhưng hồn thơ Quang Dũng mỗi khi chạm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bởi đôi cánh lí tưởng. Câu thơ sau như một lực nâng vô hình đã đưa câu thơ trước lên cao. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Cái bi thảm bỗng trở nên bi tráng. Với tinh thần dấn thân, tự nguyện, quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất họ đã hiến dâng cho một lý tưởng cao đẹp nhất. Họ ngã xuống thanh thản không chút vướng bận, không mảy may hối tiếc, cái chết được xem “nhẹ tựa lông hồng”.

Viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ đã né tránh cái chết. Còn Quang Dũng cảm nhận cái chết như là một hiện thực tất yếu của chiến tranh. Cái chết của những người lính qua con mắt thơ Quang Dũng rất đỗi hùng tráng mà không hề giả dối. Cái bi tráng của câu thơ đã khẳng định được phương châm sống của cả một thế hệ cha anh trong những năm tháng chống Pháp gian khổ: "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có hiểu được ý chí sắt đá của một dân tộc mới thấy hết được cái hay trong câu thơ Quang Dũng.

Hai câu sau vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy:

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Nhà thơ đã nói lên một sự thật bi thảm là: Người lính hy sinh trên đường hành quân đến một manh chiếu liệm cũng thiếu. Con mắt thơ Quang Dũng đã bao bọc đồng đội mình trong những tấm áo bào sang trọng. “Áo bào” là sự kết hợp hai từ: “áo vải” và “chiến bào” khiến cho “áo bào” vừa bình dị vừa sang trọng. Đây là cách nói mà theo Quang Dũng là để “an ủi linh hồn những người lính”. Xuất phát điểm là tình yêu đồng đội. Chính tình yêu thương đã khiến hồn thơ hào hoa Quang Dũng tìm được hình ảnh đẹp để “sang trọng hóa” cái chết của người lính. Người lính ngã xuống với chiến bào đỏ thắm trong vầng hào quang lồng lộng của các chiến binh xưa. “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Câu thơ mang sức mạnh ngợi ca. Không thể tìm được từ nào hay hơn để thay thế cho từ “về đất” trong câu thơ này. “Về đất” không những diễn tả được sự hi sinh của người chiến sĩ mà còn thể hiện được sự trân trọng, yêu thương của những người đồng đội ở lại. “Về đất” cũng là hòa vào linh hồn đất nước để bất tử cùng hồn thiêng sông núi và trường tồn cùng đất nước. Dòng sông Mã đã tấu lên “khúc độc hành” dữ dội hùng tráng để tiễn đưa hương hồn người chiến sĩ với bao tiếc thương, cảm phục. Những mất mát đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Các anh đã hi sinh cho mảnh đất nảy nở đầy thơ, đầy nhạc và cùng với thiên nhiên, linh hồn các anh vẫn hát mãi khúc quân hành.

Đặc sắc của đoạn thơ không chỉ ở thủ pháp đối lập mà còn bộc lộ trong việc dùng từ, đặc biệt là dùng các động từ. Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Nội lực trong cảm hứng thơ Quang Dũng thường dội xuống ở các động từ”. Động từ “gầm” trong câu thơ khiến âm hưởng cứ âm vang mãi như dội mãi vào núi rừng miền Tây và ngân lên trong tâm hồn độc giả. Cộng hưởng với các động từ là các từ Hán - Việt (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, sông Mã, khúc độc hành). Nhà thơ đã đưa người đọc vào một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đã bộc lộ được sự hài hòa giữa cái bi và cái hùng tạo nên chất bi tráng trong bức tượng đài cao cả về người lính Tây Tiến.

Đây là đoạn thơ mang tính chất cao trào trong toàn bộ khúc độc hành Tây Tiến. Chất bi tráng đã tạo nên một tượng đài độc đáo về người lính Tây Tiến. Đoạn thơ khép lại nhưng cùng với khúc độc hành của dòng sông Mã, âm hưởng của Tây Tiến vẫn vang cả núi rừng và vọng qua năm tháng.

Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến mẫu 12

“Tây Tiến” của Quang Dũng là một trong số những bài thơ hay viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đến với khổ thơ thứ ba của bài thơ, người đọc sẽ cảm nhận được hình ảnh chân dung người lính vô cùng chân thực:

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Ở bốn câu thơ đầu, hình ảnh người lính được nhà thơ xây dựng với nét đẹp vừa hiên ngang mà cũng vừa thơ mộng. Chân dung của họ được nhà thơ Quang Dũng khắc họa qua hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”. Trong những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ khó khăn, bom đạn hóa chất của kẻ thù đã làm cho mái tóc của người lính không còn đẹp đẽ nữa. Nhưng ở đây lạ là “không mọc tóc” có nghĩa là người lính Tây Tiến đã chủ động lựa chọn cạo trọc đầu để thuận tiện cho sinh hoạt kháng chiến. Thế mới thấy tâm thế luôn sẵn sàng chiến đấu của họ cao đến nhường nào.

Kế tiếp là hình ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu. Đó có thể là màu xanh của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai chính là khuôn mặt xanh xao của những người lính bởi những cơn sốt rét rừng. Dù hiểu theo cách nào, người đọc cũng sẽ thấy được những khó khăn gian khổ mà họ phải trải qua. Nhưng không vì những khó khăn ấy mà các anh mất đi tinh thần lạc quan. Các anh đã lựa chọn chủ động đối mặt với khó khăn, coi đó giống như là sức mạnh để tiếp tục cuộc hành quân của mình. Tuy trong gian khổ mà vẫn hiên ngang, bất khuất.

Nhưng họ không phải chỉ là những con người khô khan mà cũng rất đỗi mơ mộng. Những người lính ấy tuổi mới chỉ mười tám đôi mươi - vẫn còn là những học sinh, sinh viên mang trong mình nhiều lý tưởng mơ mộng. Vì nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc mà tạm gác bút nghiên, cầm súng để chiến đấu. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” - đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Nhiều nhà nghiên cứu khi đọc câu thơ này của Quang Dũng đã cho rằng nó mang cái “buồn rớt, mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản. Nhưng ở đây không phải vậy, qua hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây Tiến. Quả là cái nhìn phiến diện một thời.

Đến bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã miêu tả sự hy sinh anh dũng của những người lính. Biện pháp tu từ đảo ngữ “Rải rác” – “biên cương mồ viễn xứ”. Cùng với từ láy “rải rác” kết hợp các từ Hán Việt “biên cương”, “mồ viễn xứ” khiến cho giọng thơ trở nên trang trọng hơn. Phải hiểu rằng đây không chỉ là một cái chết mà là nhiều cái chết. Những người lính hết thế hệ này đến thế hệ khác, họ đã lên đường chiến đấu và hy sinh cho nền độc lập của dân tộc. Cho dù có phải đối mặt với cái chết, các anh vẫn nguyện dâng hiến hết tuổi thanh xuân cho tổ quốc: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Câu thơ giống như một lời thề nguyện: “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” - đêm hết tuổi xuân thậm chí là tính mạng cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Để rồi khi họ ra đi “áo bào thay chiếu anh về đất” - hình ảnh “áo bào” có thể được hiểu là tấm áo khoác bên ngoài của những người lính. Những người lính khi ra đi, đồng đội của các anh không có gì để chôn cất nên các anh phải dùng những chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng - đó là tấm chiến báo khoác lên mình những chiến tướng. Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những chiến công vang dội giống như những vị tướng thời xưa. Hình ảnh “áo báo” đã bất tử hóa cái chết của người lính. Trước sự hy sinh ấy, con sông Mã dường như cũng không thể im lặng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã vốn là vật vô tri vô giác lại được nhân hóa qua động từ “gầm”. Cái chết của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót mà vang lên khúc tráng ca tiễn biệt.

Quả là Quang Dũng đã xây dựng được một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến vừa chân thực vừa lãng mạn.

Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến mẫu 13

“Tây Tiến” là một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào chống lại thực dân Pháp. Đa phần những người lính trong binh đoàn Tây Tiến đều là học sinh sinh viên, trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Năm 1948, sau khi chuyển sang đơn vị khác, nhà thơ đã nhớ về binh đoàn Tây Tiến và sáng tác ra “Tây Tiến”. Đến với khổ thơ thứ ba, Quang Dũng đã giúp người đọc cảm nhận được hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên vô cùng chân thực:

“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
…..
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Đầu tiên, chân dung của người lính Tây Tiến được khắc họa qua hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” – một hình ảnh rất thật. Bởi trong những năm tháng chiến tranh gian khổ, ở nơi chiến trường đầy những bom đạn, hóa chất của kẻ thù đã khiến cho mái tóc của người lính không còn đẹp đẽ nữa. Kỳ lạ là cách nói “không mọc tóc” đã thể hiện được tâm thế chủ động của người lính. Họ đã lựa chọn cạo trọc đầu để thuận tiện cho sinh hoạt kháng chiến. Một hình ảnh rất độc đáo nữa đó là “Quân xanh màu lá dữ oai hùng”.

Màu xanh ở đây có thể hiểu là của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Nhưng cũng có thể đó là khuôn mặt xanh xao của người lính trước những cơn sốt rét rừng. Dù hiểu theo cách nào, người đọc cũng sẽ thấy được những khó khăn gian khổ mà họ phải trải qua. Dù trong chiến tranh, khó khăn là vật nhưng vẫn không làm mất đi tinh thần lạc quan của người lính.

Vì nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc mà tạm gác bút nghiên, cầm súng để chiến đấu. Hình ảnh “mắt trừng” gửi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” – đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch.

Bất kì một trận chiến nào cũng đều có mất mát, hy sinh. Nhưng sự hy sinh của họ lại được Quang Dũng khắc họa thật hào hùng. Từ láy “rải rác” kết hợp với cụm từ Hán Việt “biên cương mồ viễn xứ” làm cho câu thơ trở nên trang trọng hơn. Câu thơ giúp người đọc hình dung được đó không chỉ là một cái chết mà rất nhiều cái chết. Với lời khẳng định “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, chúng ta đã thấy được tinh thần của một thế hệ trẻ Việt Nam bấy giờ. Dù tuổi đời còn trẻ, nhưng vẫn quyết ra đi để bảo vệ tổ quốc – “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”.

Tiếp đến là hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các anh đang mặc. Điều kiện chiến tranh khắc nghiệt, thiếu thốn đến không có cả chiếu để bọc thi thể người lính đã hi sinh. Những người đồng đội của các anh phải lấy chiếc áo mà các anh đang mặc để chôn cất. Cách nói “về đất” là nói giảm, nói tránh để giảm bớt đau thương và cũng là sự ngợi ca, trân trọng dành cho người anh hùng của quê hương đất nước. Hình ảnh cuối cùng “sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự thành kính đưa tiễn các anh. Sự hy sinh của người lính Tây Tiến đã khiến cho thiên nhiên vạn vật cũng phải khóc thương

Như vậy, Quang Dũng đã giúp người đọc hiểu rõ hơn về hình ảnh người lính Tây Tiến với những nét đẹp tiêu biểu. Khổ thơ thứ ba đã đem đến cho người đọc ấn tượng sâu sắc.

Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến mẫu 14

Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh. Nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử.

Và trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian:

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
………..
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như ‘tiến”, “mọc tóc”. Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ “đoàn binh” âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng.

ình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về tổ quốc, hướng về thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội.

Người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam.

Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc – những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa.

Nếu như ở bốn câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ.

Có thể thấy câu thơ: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi “viễn xứ”. Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ “rải rác” dễ gợi sự hoang lạnh, lại là “rải rác” nơi “viễn xứ”, những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút.

Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ “áo bào thay chiếu anh về đất”. Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận.

Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca:

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp.

Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến mẫu 15

Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân hiện lên qua nét vẽ gián tiếp thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc nhưng cũng rất đỗi tài hoa và lãng mạn.

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm"

Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm, đoàn binh Tây Tiến hiện lên giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da xanh xao vì sốt rét, thiếu thốn. Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh khốc liệt và gian khó. Cái hình hài kì dị "xanh màu lá", "không mọc tóc" tương phản với "dữ oai hùm" là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc khiếp sợ. "Dữ oai hùm" là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng. Các chiến binh "Sát Thát" thời Trần: "Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói" (Trương Hán Siêu) hay nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế "bình Ngô": "Sĩ tốt kén tay tì hổ - Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh" (Bình Ngô đại cáo). Một dân tộc anh hùng anh hùng trên trận tuyến đánh quân thù thời đại nào cũng có những chiến sĩ "tì hổ" và "dữ oai hùm" như vậy. Với niềm tự hào, nhà thơ đã viết nên một câu thơ vô cùng đặc sắc, lấy cái "thô", cái "mộc" để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.

Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật,... muôn vàn khó khăn, thử thách nhưng họ vẫn có những giấc mơ thanh xuân rất đẹp:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội. "Mắt trừng" là hình ảnh gợi lên sự dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa trận mạc. "Mộng qua biên giới" là giấc mộng tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ biên cương, lập nên chiến công nêu cao tinh thần anh hùng của cha ông. Bên cạnh đó, họ cũng có những giấc mơ rất đẹp về bóng dáng thướt tha trên đường phố Hà thành. Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, các anh vẫn mơ về Hà Nội. Hình ảnh "dáng kiều thơm" trong câu thơ Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời "tiền chiến" nhưng dưới ngòi bút nhà thơ - chiến sĩ nó trở nên có hồn, đặc tả chất lính hào hoa, trẻ trung, lãng mạn của người lính trẻ.

Nếu người nông dân mặc áo lính trong thơ Chính Hữu mang theo nỗi nhớ "giếng nước gốc đa", nhớ mái nhà tranh, nhớ đồng ruộng, hay thơ Nguyên Hồng nhớ "người vợ trẻ" "mòn chân bên cối gạo canh khuya" thì người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng lại "mộng" lập chiến công, "mơ dáng kiều thơm". Hữu Loan trong bài thơ "Màu tím hoa sim" cũng viết rất hay về nỗi nhớ của người lính thời chống Pháp:

"Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến tranh

Mấy người đi trở lại

Lỡ khi mình không về

Thì thương người vớ bé bỏng chiều quê..."

Bốn câu thơ tiếp theo là những nét bổ trợ, tô đậm bức tranh chân dung người lính:

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành."

Trong gian khổ và chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây. Họ nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sĩ "rải rác biên cương". Câu thơ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào:

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ"

Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt, đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Các anh ra trận vì một lý tưởng cao đẹp, lên đường vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Câu thơ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: "Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ". Nhà thơ đã ghi lại cảnh tượng bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy:

"Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành."

Các tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với "áo bào" bình dị ấy "anh về đất". Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản nhẹ tựa lông hồng. Anh ra trận giết giặc vì quê hương. Anh ngã xuống là "về đất", nằm trong lòng mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ "chết", từ "hi sinh" mà là "về đất" để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản. Tiếng sông Mã "gầm lên" giữa núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài "Chiêu hồn liệt sĩ" tiến linh hồn liệt sĩ về nơi an giấc ngàn thu. Câu "Sông Mã gầm lên khúc độc hành" là một câu thơ hay vì gợi tả được không khí thiêng liêng, trang trọng đồng thời tạo nên âm điệu trầm hùng, thương tiếc.

Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến mẫu 16

Một văn sĩ Pháp khi trả lời thư của một bạn trẻ: Hãy truy cứu nguyên do mà mình cầm bút, hãy kiểm tra xem nó có bắt rễ từ chỗ sâu xa nhất của trái tim không? Hãy tự thú xem nếu không viết liệu trái tim có chết không? Và trước hết hãy tự hỏi mình vào giờ khắc tĩnh mịch nhất trong đêm: ta có phải viết không? Cứ theo những lời khuyên của Rai-tơ thì những ngày xa binh đoàn Tây Tiến nếu không viết một bài thơ để thương, để nhớ thì chưa chắc Quang Dũng đã chết nhưng ông sẽ cùng đau khổ vì nỗi "nhớ chơi vơi", vì nỗi nhớ về đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch và sẽ trở thành nỗi ám ảnh day dứt. "Tây Tiến" là tác phẩm đã lưu giữ những kỉ niệm hào hùng, đáng nhớ của một thời tiến quân về miền Tây cùng quân dân nước bạn Lào chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là một tiếng thơ bi tráng của thi ca Việt Nam trong những ngày dầu cả dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến trường kì, toàn dân, toàn diện. Quang Dũng đã khắc tạc thành công tượng đài nghệ thuật bằng ngôn từ về đoàn quân Tây Tiến trong sự hài hào giữa vẻ đẹp hào hoa và hào hùng.

Nhà thơ Trần Lê Vân, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung với Quang Dũng viết về hoàn cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ như sau: "Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ) anh viết bài thơ "Tây Tiến". Muốn hiểu được bài thơ "Tây Tiến", trước hết cần phải có những hiểu biết về đoàn quân Tây Tiến cùng với địa bàn hoạt động của nó.Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt - Lào, đánh tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến ở những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về qua miền Tây Thanh Hóa. Những nơi này lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng dậm, nhiều thú dữ. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc số này). Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ vẫn sống lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kỳ gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn. Có thể nói, hình tượng những người lính trong thi phẩm được khắc họa với vẻ đẹp tinh thần vừa hào hùng vừa hào hoa. Những con người mang trong mình lý tưởng cứu nước cao đẹp nên có ý chí, nghị lực phi thường để đối mặt, vượt lên những thử thách khốc liệt của cuộc sống, sinh hoạt, chiến đấu của chiến trường. Đó còn là những người mang vẻ đẹp hào hoa với trái tim nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc sống, con người miền Tây và nỗi nhớ bay bổng lãng mạn, đằm thắm về quê hương. Có lẽ khắc họa vẻ đẹp những người lính Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ thực sự xúc động hồn thơ mà còn phát huy tài năng của một cây bút tài hoa trong thơ ca cách mạng Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Nếu như các nhơ cùng viết về người lính bằng cảm hứng hiện thực với vẻ đẹp hồn nhiên, chân chất giản dị thì Quang Dũng lại tạc vào thời gian, vào lịch sử dân tộc hình tượng người lính có một không hai bằng cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở "cái tôi" đầy tình cảm, cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ.

Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu ở cảm hứng hướng tới cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lý tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc. "Tây Tiến" không hề che giấu cái bi, không né tránh những gian khổ khắc nghiệt của hiện thực. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng có thể đem đến cho người lính sức mạnh và niềm tin vào tương lai. Chất lãng mạn hòa hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp của bài thơ.

Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng và sự duyên dáng, thơ mộng của Tây Bắc, hình tượng người lính Tây Tiến xuất hiện với một vẻ đẹp đầy tính bi tráng:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."

Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát được chân dung chung của cả đoàn quân. Cái bi cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hòa quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ cho nhau, tạo nên vẻ đẹp bi tráng - cái thần thái chung của cả bức tượng đài. Thơ ca thời kháng chiến chỉ viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài "Đồng chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:

"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi"

Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài "Cá nước" với những hình ảnh thật cụ thể:

"Giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ"

Cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao của người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngòi bút của ông, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc của người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kỳ, giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng mà chứa đựng một sự thực nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến người thì cạo trọc để thuận lợi trong những trận cận chiến với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc trọc đầu.

Cái vẻ xanh xao vì thiếu thốn, sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên oai phong dữ dằn của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ "mắt trừng" của họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của thi nhân, không phải những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng dữ dằn bề ngoài của họ, là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khát khao yêu đương "đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".

Như vậy, trong khổ thơ này, nhà thơ đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy thơ mộng của họ. Ngòi bút Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lý tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gọi lên qua hình ảnh của những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì tổ quốc của những người lính Tây Tiến "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".

Những người lính Tây Tiến tuy xanh xao, vẻ ngoài kì dị những vẫn chói ngời vẻ đẹp lý tưởng, mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cái sự thật bi thương: Những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có cả đến manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm "anh về đất" và rồi bị át đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:

"Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành."

Trong cái âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Giọng điệu chủ đạo của những đoạn thơ thứ ba này sang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.

Những người lính Tây Tiến là tượng đài nghệ thuật lãng mạn thấm đẫm chất bi tráng, giàu chất hiện thực về người lính vệ quốc trong kháng chiến chống Pháp. Đó là biểu tượng về vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam trong những năm tháng ấy. Quang Dũng đã kế thừa thành tựu nghệ thuật của thơ ca trung đại, lãng mạn trong việc khắc họa những con người lý tưởng của thời đại. Hình tượng người lính Tây Tiến vừa anh hùng vừa hào hoa. Họ là những con người vĩ đại nhưng cũng rất đỗi đời thường. Có lẽ vì vậy mà hình tượng thơ đã tạo được sức sống lâu bền trong dòng chảy của thời gian, lịch sử.

Vẫn là thủ pháp nghệ thuật tương phản đối chọi nhau. Bi mà không lụy, buồn đau mà hào hùng, mất mát hi sinh mà vẫn lạc quan. Và như thế, chính chất lãng mạn của bài thơ đã nần người đọc lên, vực dậy những người lính mệt mỏi đang dãi dầu không bước nữa, xóa tan đi bao nhọc nhằn đau khổ, lãng quên đi bao nỗi hiểm nguy và lấy lại cân bằng trong tâm hồn người lính, giúp họ vững bước đi lên. Chất lãng mạn ấy chính là sức mạnh, là vẻ đẹp của người lính Tây Tiến.

Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến mẫu 17

Tây Tiến, mảnh đất linh thiêng và nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ về thiên nhiên núi rừng miền tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Khi viết về đề tài người lính thì trong thơ Chính Hữu là những người lính vệ quốc chân chất, mộc mạc. Tuy nhiên, trong Tây Tiến của Quang Dũng hình tượng người lính mang một vẻ đẹp hào hoa và bi tráng. Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn, "Tây Tiến" có thể sẽ mất đi vẻ đẹp trọn vẹn của nó." Đặc biệt, khi đến với khổ thơ thứ 3 bài Tây Tiến, Quang Dũng đã rất thành công khi khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

(…) Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, đoàn binh Tây Tiến hiện ra giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da xanh phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực: “không mọc tóc”. Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh những năm đầu kháng chiến vốn thế. “Không mọc tóc” là hình ảnh phản ánh cái khốc liệt của chiến trường:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.

Cái hình hài không lấy gì làm đẹp: “quân xanh màu lá”, “không mọc tóc” tương phản với “dữ oai hùm” là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải khiếp sợ. “Dữ oai hùm” là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng. Các chiến binh “Sát Thát” đời Trần: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão); “Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói” (Trương Hán Siêu). Nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế “bình Ngô”: “Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Bình Ngô đại cáo) – Một dân tộc anh hùng trên trận tuyến đánh quân thù, thời đại nào cũng có những chiến sĩ “tì hổ” và “dữ oai hùm” như thế đó! Với niềm tự hào, Quang Dũng đã viết nên một câu thơ rất hay: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”, lấy cái “thô”, cái “mộc” để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.

Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật… muôn lần khó khăn, thử thách nhưng học vẫn có những giấc “mơ”, giấc “mộng” rất đẹp:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, nơi còn đầy bóng giặc. “Mắt trừng” – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt. “Mộng qua biên giới” – mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Lại có những giấc mơ đẹp. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai Hà thành “xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa: “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ). Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù. Nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội. Quên sao được những hàng me, hàng sấu, những phố cũ, trường xưa, “Những phố dài xao xác hơi may”?.. Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thương yêu, những “dáng kiều thơm” từng hò hẹn. Hình ảnh “Dáng kiều thơm” trong câu thơ của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút nhà thơ – chiến sĩ nó trở nên có hồn, đặc tả chất lính hào hoa, trẻ trung, lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc.

Nếu người nông dân mặc áo lính trong thơ Chính Hữu mang theo nỗi nhớ “giếng nước gốc đa”, nhớ mái nhà gianh, nhớ ruộng nương…; trong thơ Hồng Nguyên là nỗi nhớ “người vợ trẻ – Mòn chân bên cối gạo canh khuya”,… thì người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng, nỗi nhớ gắn liền với “mộng” và “mơ”. Mộng lập chiến công, mơ “dáng kiều thơm”. Hữu Loan trong bài thơ “Màu tím hoa sim” cũng viết rất hay về nỗi nhớ của người lính chống Pháp:

“Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến tranh

Mấy người đi trở lại

Lỡ khi mình không về

Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê…”

Viết về “mộng” và “mơ” của người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan yêu đời của đồng đội. Đó là một nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung “anh bộ đội Cụ Hồ” xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp.

Bốn câu thơ tiếp theo là những nét vẽ bỗ trợ, tô đậm chân dung người lính:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Trong gian khổ và chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây. Họ nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sĩ “rải rác biên cương”. Câu thơ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt, đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận vì một lí tưởng rất đẹp. “Đời xanh” là đời trai trẻ, là tuổi thanh xuân của “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…”, những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Họ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo về độc lập, tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Quang Dũng ghi lại cảnh tượng bi tráng giữa chiến trường miền Tây thưở ấy:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Các tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm “áo bào” bình dị ấy: “anh về đất”. Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ra trận giết giặc vì quê hương. Anh ngã xuống là: “về đất”, nằm trong lòng Mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ “chết”, từ “hi sinh” mà lấy cụm từ “về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản, nhẹ nhàng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương, đã chết vì đất nước quê hương. “Anh về đất” bằng tất cả tấm lòng chung thủy của người chiến sĩ. Tiếng thác nước sông Mã “gầm lên” giữa núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn liệt sĩ” tống tiễn linh hồn liệt sĩ về nơi an giấc ngàn thu. Câu “Sông mã gầm lên khúc độc hành” là một câu thơ hay vì gợi tả được không khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo nên âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Phong cách ngôn ngữ của Quang Dũng rất đặc sắc, bên cạnh những từ ngữ bình dị đời lính như: gục, không mọc tóc, dữ, trừng, về đất, chiếu, gầm lên… lại có một số từ Hán Việt như: mộng, mơ, biên giới, dáng kiều, biên cương, viễn xứ, áo bào, khúc độc hành – nhờ đó mà cái bình dị làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng, cái bình thường tô đậm cái anh hùng, vĩ đại. Chất bi tráng và màu sắc lãng mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch sử.

Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ “Tây Tiến” là đoạn thơ độc đáo nhất. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc, tạo nên nhưng câu thơ “có hồn”. Người lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc.

“Anh Vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế!”

Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến mẫu 18

Đất nước Việt Nam ta đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đó là một khoảng thời gian đầy khó khăn, mất mát, đau thương nhưng cũng mang đậm dấu ấn của sự hào hùng, bi tráng. Đã có rất nhiều tác phẩm văn học thành công khắc họa hình tượng người chiến sĩ thời kì này như "Đồng chí", "Bài thơ về tiểu đội xe không kính", "Việt Bắc",... Trong đó, không thể không kể đến bài thơ "Tây Tiến". Khổ thứ ba của bài đã tái hiện một cách vô cùng chân thực vẻ đẹp vừa lãng mạn, hào hoa, vừa anh dũng, gan trường của người lính chống Pháp khi xưa.

Đầu tiên, bức chân dung những chiến sĩ Tây Tiến đã được hiện lên qua bút pháp tả thực với sự bi tráng, oai hùng:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"

Trong những tháng ngày chiến đấu gian khổ, người lính phải đối diện với bao khó khăn, bệnh tật. Nào là thời tiết khắc nghiệt, bom bay đạn lạc. Nào là những cơn sốt rét rừng đã từng cướp đi bao sinh mạng. Không phải là hình ảnh người lính cường tráng, khỏe mạnh, sức vóc mẫu mực như trong những câu chuyện thần thoại, cổ tích. Người lính Tây Tiến lúc này hiện lên xanh xao, tiều tụy, ai ai cũng "không mọc tóc". Đây chính là sự thật trần trụi của chiến tranh, của chốn rừng thiêng nước độc đầy hiểm nguy. Màu xanh của rừng núi, của quân trang hay chính của nước da nhợt nhạt bởi bệnh tật. Cái đói, cái rét xuất hiện như một lời lên án, tố cáo hiện thực nghiệt ngã mà chiến tranh gây ra. Nhưng đối diện với điều khó khăn ấy, các chiến sĩ vẫn giữ cho mình thái độ lạc quan, khí chất oai phong, lẫm liệt. Họ vững tinh thần "giữ oai hùm", không để ảnh hưởng đến mục tiêu, nhiệm vụ chung. Chính khí thế hiên ngang, tự tin, bất khuất ấy đã làm nên vẻ đẹp đầy cao cả, lớn lao của những anh bộ đội Cụ Hồ.

Bên cạnh sự quả cảm cùng chất bi tráng, người lính Tây Tiến còn hiện lên với tâm hồn lãng mạn, trẻ trung:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Trong những đêm làm nhiệm vụ, người lính lúc nào cũng phải ở tâm thế sẵn sàng. Hình tượng "mắt trừng" có thể chính là sự tập trung làm nhiệm vụ, dõi theo từng bước chân của kẻ thù. Từ "trừng" không chỉ thể hiện trạng thái mở to của đôi mắt người lính mà còn là thái độ căm thù cùng quyết tâm chiến đấu, thề sống chết với quân địch. Bên cạnh đó, ánh mắt người lính còn "gửi mộng qua biên giới". Đây có thể là giấc mộng về ngày đất nước hòa bình, độc lập, cũng có thể là nỗi nhớ, sự hồi tưởng về quê hương, về Hà Nội với "dáng kiều thơm". Những người lính Tây Tiến đa số đều là sinh viên Hà Thành. Họ còn trẻ, còn nhiều mơ mộng, khát khao riêng. Nhưng vì Tổ quốc, họ đã gác lại sách bút, cầm súng lên đường ra trận. Chính nỗi nhớ về quê hương cùng "dáng kiều thơm" trong giấc mộng đêm khuya là động lực để họ tiếp tục cố gắng, vững tay súng bảo vệ nước nhà. Khói đạn chiến trường, bệnh tật hiểm nghèo cũng không thể làm mờ đi vẻ đẹp trẻ trung, hào hoa cùng tâm hồn lãng mạn của những anh chiến sĩ trẻ.

Không chỉ vậy, hình tượng người lính Tây Tiến còn xuất hiện với những lí tưởng cao đẹp, tiêu biểu cho hào khí anh hùng của cả một thời đại:

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Bút pháp tả thực một lần nữa đã nói lên cái bi, cái mất mát mà chiến tranh gây nên. Sự hi sinh là một điều không thể tránh khỏi. Câu thơ "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" đã nhắc đến thực tại đau thương ấy một cách trực tiếp, đánh mạnh vào cảm xúc của độc giả về cái bi, cái mất mát, cái đau buồn. Nhịp thơ cũng chậm lại, trầm xuống, sâu lắng hơn hẳn bốn câu thơ trước đó. Chữ "rải rác" khiến người đọc liên tưởng được số lượng những chiến sĩ đã ngã xuống ở nơi "viễn xứ". Ngay đến cả việc chôn cất họ cũng chỉ được làm qua loa: "Áo bào thay chiếu anh về đất". Ở nơi rừng núi hoang vu, trong hoàn cảnh thiếu thốn đủ đường, người chiến sĩ chỉ có tấm áo mỏng để khoác lên. Tất cả những từ Hán Việt được sử dụng: "biên cương", "viễn xứ", "áo bào" đã tăng thêm sự trang trọng cho đoạn thơ. Đồng thời, biến những câu thơ trở thành một khúc ca đưa tiễn người lính. Thế nhưng cho dù có hi sinh, có phải nằm lại nơi đất khách quê người, họ vẫn tiếp tục đi, tiếp tục hành quân, chiến đấu mà "chẳng tiếc đời xanh". Hai chữ "chẳng tiếc" vang lên một cách hào sảng, vô tư, tự nguyện. Tuổi trẻ của họ cứ vậy mà dành hết cho đất nước. Bỏ qua những khát vọng, ước mơ cá nhân, những người lính đã cống hiến tất cả thanh xuân, đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Các anh đi với thái độ ngạo nghễ, bình thản, dứt khoát coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Chính thái độ ấy đã nâng tầm hình tượng người chiến sĩ, đại diện cho hào khí, tinh thần bất khuất của cả một thế hệ trẻ thời chống Pháp. Trước sự hi sinh của người lính Tây Tiến, thiên nhiên cũng phải bày tỏ nỗi tiếc thương: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành". Sông Mã gắn liền với bước đường hành quân của binh đoàn, trở thành một "người" đồng chí, đồng đội thân thiết, là chứng nhân lịch sử cho chiến công của các anh. Giờ đây, chứng kiến những người lính lần lượt ngã xuống, dòng sông ấy đã "gầm" lên khúc ca đầy bi tráng, đưa tiễn người bạn của mình "về đất", đi vào cõi bất tử.

Chỉ với tám câu thơ ngắn gọn, tác giả Quang Dũng đã thành công tái hiện hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến vừa hào hoa, lãng mạn, vừa quả cảm, oai hùng. Bằng bút pháp tả thực kết hợp với những hình ảnh giàu sức gợi, ngôn từ chọn lọc đầy trang trọng, đoạn thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của người lính mà còn đem đến vô vàn cảm xúc cho độc giả.

Nhìn chung, khổ thơ thứ ba được coi như sự kết tinh sâu sắc nhất cho toàn tác phẩm. Đoạn trích thành công dựng nên hình tượng bất tử của người lính Tây Tiến, đồng thời diễn tả được hào khí, tinh thần bất khuất, kiên cường cùng lí tưởng cao đẹp của cả một thế hệ trẻ trong kháng chiến chống Mỹ. Qua đó, người đọc lại càng thêm trân trọng, biết ơn công lao của biết bao thế hệ trước đã ngã xuống vì độc lập, hòa bình ngày nay.

Cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến mẫu 19

Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng viết : "Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy." Thật vậy! Cái nhụy sống ấy đã nảy nở trong trái tim của Quang Dũng - một con người rất mực đa tài. Quang Dũng, lớp nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã mang đến cho đời cái "nhụy" có vị ngọt của cảm hứng "lãng mạn, anh hùng" trong những năm kháng chiến đau thương. Để rồi, kết trái thành "Tây Tiến", một bản hùng ca tuyệt vời về với hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

...

Sông Mã gầm lên khúc độc hành."

Chính vẻ đẹp nơi người lính ấy đã tô vẽ nên vẻ đẹp trong ngòi bút của Quang Dũng. Không chỉ viết thơ, Quang Dũng còn làm văn, vẽ tranh, soạn nhạc, nhưng thơ ca chính là cây cầu linh diệu nhất bắc nhịp nhà thơ với cuộc đời. Hồn thơ Quang Dũng mang nét phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và rất đỗi tài hoa. Ông xuất thân là một người lính của binh đoàn Tây Tiến, một đơn vị quân đội thành lập mùa xuân năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Các chiến binh Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội trong đó có nhiều học sinh, sinh viên như Quang Dũng. Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh - một làng ven bờ sông Đáy, Quang Dũng viết bài "Nhớ Tây Tiến" sau đổi tên thành "Tây Tiến" in trong tập "Mây đầu ô" (1986). "Tây Tiến" là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ.

Quang Dũng đã khắc họa thành công tập thể người lính Tây Tiến như một bức tượng đài bằng thơ về những người lính, và bức họa ấy vẫn luôn sừng sững, sống mãi những vẻ đẹp hào hùng của một thời trai trẻ:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm"

Nhà thơ dùng từ "đoàn binh" để khẳng định một lực lượng đông đảo, "đoàn binh" Tây Tiến là đội quân mạnh và hừng hực khí thế. Đầy hiên ngang và tự tin, nhịp thơ như nhịp bước chân hành quân của người lính, đưa ta đến gần hơn với bức chân dung về các anh, từ ngoại hình bên ngoài đến cảm xúc, ý chí nung nấu trong tâm can. Đó là những người lính đầu "không mọc tóc", da "xanh màu lá". Ấy là sự ngụy trang đề phòng quân địch. Nhưng chân thực hơn, ấy là sự tàn phá của bệnh tật, của hoàn cảnh sống thiếu thốn trăm bề. Nơi rừng thiêng nước độc, nơi chiến trường xa xôi, binh đoàn Tây Tiến làm sao tránh khỏi những cơn sốt rét rừng, những lần thiếu thuốc men, lương thực, khó khăn cứ nối tiếp khó khăn, sự khắc nghiệt vẫn luôn thử thách ý chí người lính trẻ như thế. Giống như trong một vần thơ khác, tác giả Chính Hữu đã từng khắc họa rõ nét những thiếu thốn, gian khổ trong thuở đầu ra trận ấy:

"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai, quần tôi có nhiều mảnh vá

Miệng cười buốt giá, chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"

("Đồng chí" - Chính Hữu)

Giữa những gian khổ, khó khăn của thực tại, những người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp vẫn mang trong mình sự lạc quan, dí dỏm trong những vẫn thơ Chính Hữu, còn giọng thơ "Tây Tiến" lại sục sôi khí thế, căng tràn ý chí, viết về gian khổ, khó khăn nhưng nhà thơ Quang Dũng vẫn luôn song hành đem đến những vần thơ đầy quyết tâm "dữ oai hùm". Nét hào hùng được nhấn mạnh giữa một hiện thực nhiều gian khổ, đậm tô những hình ảnh chân thực nhưng đó cũng là cách nói dí dỏm, vui tươi hóa của Quang Dũng về những người đồng đội của mình. "Dữ oai hùm" là hình ảnh khẳng định tinh thần vượt lên trên khó khăn vì mục tiêu chiến đấu phía trước, bệnh tật, thiếu thốn không thể đánh bại được ý chí quyết tâm của những người lính Tây Tiến. Những chi tiết tả thực đã khắc họa một diện mạo rất độc đáo về người lính đang chiến đấu nơi biên cương Tổ quốc, đồng thời phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. Mượn hình ảnh ẩn dụ để gợi tả chất kiêu hùng, cách viết đối lập giữa cái yếu đuối về thể chất, xanh xao tiều tụy, đầu "không mọc tóc", da "xanh màu lá" với sức mạnh của tinh thần, ý chí, ngang tàng, lẫm liệt, sức mạnh "dữ oai hùm". Quang Dũng đã thật khéo khi lấy cái "thô", cái "mộc" để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ hào hùng, dũng cảm và lạc quan.

Nhưng chỉ dừng lại ở đó thì đâu gì gọi là Quang Dũng bởi những người lính dũng cảm, lạc quan ấy còn mang một tâm hồn hào hoa và lãng mạn của những chàng trai Hà Thành. Quang Dũng đã viết hai câu thơ rất đặc sắc:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

"Mắt trừng" là đôi mắt mở to, đầy cảnh giác, ánh mắt "trừng" của người lính Tây Tiến vẫn luôn hướng về bên kia biên giới, ánh mắt của sự căm thù, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Ánh mắt trừng mà Quang Dũng khắc họa có sức mạnh như lời tuyên chiến trước quân thù, rất oai phong, hào hùng thể hiện ý chí và quyết tâm của những người lính vệ quốc:

"Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi

Nào có xá chi đâu ngày trở về

Ra đi ra đi bảo tồn sông núi

Ra đi ra đi thà chết chớ lui."

Và gửi theo ánh mắt quyết tâm và lòng kiên trì ấy là giấc mộng chinh phu - giấc mộng của chí trai thời loạn, giấc mộng lập công danh, đền nợ nước trả thù nhà. Những chàng trai tuổi đời còn rất trẻ đã không do dự xếp bút nghiên lên đường ra mặt trận, sẵn sàng gánh trên vai "món nợ" núi sông. Chỉ với một hình ảnh thôi mà nhà thơ Quang Dũng đã khiến ta yêu nhiều và khâm phục nhiều tinh thần của người lính Tây Tiến. Những năm tháng ấy, các anh ngay cả khi đang cảnh giác trước quân địch, cũng ôm nỗi nhớ niềm thương về thị thành quê hương "đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Mơ về Hà Nội với "dáng kiều thơm", với hình ảnh những thiếu nữ Hà thành duyên dáng trong tà áo dài thướt tha, một giấc mơ lãng mạn và hào hoa mà ta chỉ có thể bắt gặp ở tâm hồn người lính trẻ xuất thân chủ yếu là thanh niên tri thức thu đô, ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Sau mỗi chặng đường hành quân vất vả, phải chăng nỗi nhớ quê nhà, nhớ người thương lại là động lực mạnh mẽ, tiếp thêm sức lực để các anh vững tin vào khát vọng của mình, khát vọng lập công danh, đem hòa bình lại cho Tổ quốc. Vũ Quần Phương có nhận xét: "Hai câu thơ như chứa đựng cả thế giới". Sự tương đồng trong hai nét nghĩa "mộng" và "mơ", sự tương phản của hai thế giới "nghĩa chung" và "tình riêng" đã cùng làm nên vẻ đẹp toàn vẹn của người lính: họ không chỉ có lí tưởng cao cả, ý chí kiên cường, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn mà còn là những chàng trai lãng mạn, mơ mộng có trái tim chan chứa tình yêu thương. Cũng giống như hình ảnh trong một buổi sáng mùa thu trước cách mạng:

"Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy"

(Nguyễn Đình Thi)

Hình ảnh những chàng trai Hà Nội trong đoàn quân Tây Tiến cũng thật kiêu hùng, lãng mạn khi tình yêu thương là động lực để họ ra đi chiến đấu, còn lý tưởng cách mạng lại khiến tình yêu thương thêm cao cả, lớn lao. Đó chính là nét đẹp khắc họa chân thực và cảm động về cả thế hệ người Việt Nam dằn lòng gạt tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn.

Khép lại đoạn thơ, Quang Dũng đưa ta đến với hiện thực đau thương, nơi biên cương hẻo lánh rải rác những ngôi mộ không bia. Sự lạnh lẽo, hoang vắng tràn vào từng câu chữ cho sự khốc liệt và hơn hết là những đau thương, mất mát của cuộc chiến tranh:

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ"

Trên nền hiện thực ấy, những người lính bước qua con đường đầy máu và mộ phần để tiếp tục ra chiến trường giành lại tự do cho dân tộc mà không hề nao núng. Chính vì thế, nhà thơ sử dụng một loạt những từ Hán Việt như "biên cương", "viễn xứ" làm cho câu thơ trở nên trang trọng, mang trong mình không khí cổ kính, như đang kể lại những trận chiến lừng danh thuở xưa của cha ông ta. Lồng ghép vào trong đó là lý tưởng của một thời đại mới "chẳng tiếc đời xanh" - "Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". Chúng ta nhận thấy rõ sự đối lập khốc liệt giữa những sự vật: "chiến trường" - là mưa bom bão đạn, là cái chết cận kề, "đời xanh" - là tuổi trẻ, là ước vọng, là tương lai. Quang Dũng đã thay đồng đội mình, những anh hùng Tây Tiến, tuyên ngôn đầy ngạo nghễ, thể hiện sự lạc quan và tràn đầy chất lính: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". "Chẳng tiếc" vang lên như một lời khẳng định coi nhẹ cái chết, trong tim họ. Lời khẳng định của những chiến binh Tây Tiến năm ấy đã thể hiện vẻ đẹp lý tưởng của thế hệ thanh niên một thời:

"Chúng tôi đi không tiếc đời đời mình

Những tuổi hai mươi làm sao chẳng tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc"

("Khúc bảy", Thanh Thảo)

Với thi nhân, chết không bao giờ là hết. Bằng việc sử dụng hình ảnh "áo bào thay chiếu", ông đã bi tráng hóa cái chết của con người, tráng lệ hóa sự hi sinh của người lính, "anh về đất" biến cái chết trở thành một sự nghỉ ngơi sau những quãng đường xông pha chiến trận làm không khí cả bài thơ bi nhưng không hề lụy. Cái chết của các anh, sự hy sinh của các anh luôn là sự nhắc nhớ trong trái tim đồng đội, đồng bào, sự hi sinh ấy lặng lẽ, âm thầm nhưng luôn cao cả và đáng kính:

"Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra đất nước."

("Đất Nước", Nguyễn Khoa Điềm)

Trở lại với những vần thơ "Tây Tiến", Quang Dũng không trốn tránh hiện thực mà đã khắc họa sự hi sinh của những người lính một cách thanh thản, thầm lặng và cao cả, gây xúc động lòng người, lay động thiên nhiên. Và "Sông Mã" được nâng tầm như một nhân chứng lịch sử, chứng kiến hết tất cả tội ác của kẻ thù và cả những chiến công hiển hách của binh đoàn Tây Tiến:

"Sông Mã gầm lên khúc độc hành".

Sông Mã từng xuất hiện trong tiếng gọi tha thiết ở đầu bài thơ "Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!" như một biểu tượng của miền Tây, của Tây Tiến, của quá khứ, nay sống Mã trở lại với âm thanh dữ dội, hào hùng trong cảnh tiễn đưa tử sĩ. Từ âm thanh của tiếng sóng sông Mã, nghệ thuật nhân hóa trong cụm từ "gầm lên" thể hiện trọn vẹn sự dữ dội trong những cung bậc cảm xúc sâu sắc nhất với những bi phẫn, đau xót, tiếc thương. Sông Mã từng gắn bó với các anh trong suốt chặng đường hành quân gian khổ qua miền Tây, nay sông Mã lại là chứng nhân lịch sử thay cho cả thiên nhiên, đất trời, núi sống gầm vang "khúc độc hành" bi tráng đưa tiễn những người con yêu quý trở về yên nghỉ trong lòng đất mẹ. Có thể thấy "khúc độc hành" vừa mạnh mẽ hào tráng vì là khúc ca dành cho những người chiến sĩ anh hùng, vừa phảng phất âm hưởng cô đơn, ngậm ngùi, buồn bã bởi đây là cảm giác không tránh khỏi khi đứng trước cái chết, khi phải đưa tiễn những người thân yêu trong chuyến đi cuối cùng.

Với nét vẽ vô cùng tinh tế về người lính Tây Tiến, ta càng thấy rõ vẻ đẹp của ngòi bút xứ Đoài mây trắng. Một ngòi bút hồn hậu, phóng khoáng lãng mạn và tài hoa. "Tây Tiến" không những là bài thơ nổi bật bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Quang Dũng mà còn mang đậm phong cách thơ của ông. Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo của bài thơ, là mạch cảm xúc nhớ nhung xuyên suốt về những thời đã qua của nhà thơ về đồng đội, đơn vị của mình. Chính cảm hứng lãng mạn đã biến một bài thơ viết về người lính cách mạng thành một bài thơ mang đậm nét trữ tình, đong đầy cảm xúc. Nhưng trong mạch cảm xúc ấy còn có sự hòa phối của bút pháp hiện thực đã lột tả một cách chân thực cuộc sống người lính nơi chiến trường với những gian khổ, thiếu thốn, khắc nghiệt của chiến tranh để ta thấy trong cái phóng khoáng, lãng mạn của tuổi trẻ ấy vẫn tràn đầy mất mát, đau thương của một thời khói lửa.

"Tây Tiến" đã thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của Quang Dũng, đó là bút pháp tương phản đầy ấn tượng của cảm hứng lãng mạn, là chất họa chất nhạc đậm nét với giá trị biểu cảm mạnh mẽ, là cái bi tráng đưa đến những xúc động sâu sắc nhất trong lòng người đọc. Qua đó nhà thơ đã khắc họa sâu đậm hình ảnh người lính Tây Tiến trong cả cuộc sống chiến đấu gian khổ và sự hi sinh anh dũng, làm hiện lên vẻ đẹp toàn diện trong tâm hồn các anh, những người lính kiêu dũng, ngang tàng và lãng mạn, tài hoa.

Quá khứ và chiến tranh đã lùi xa, chỉ còn tình yêu và nỗi nhớ thương ở lại. Bài thơ "Tây Tiến" của thi nhân đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh của mình, để lại biết bao những xúc cảm bâng khuâng trong lòng độc giả. Thời gian vẫn cũ mòn cùng với các việc trôi chảy lở bồi của nó, và dẫu cho qua bao nhiêu năm tháng nữa qua đi làm cũ rách những trang thơ, thì giá trị của "Tây Tiến" vẫn sẽ tiếp tục lớn lên cùng với sự nuôi nấng màu mỡ của bao lớp tầng phù sa văn hóa mà người xưa gửi lại. Xin được mượn lời thơ của nhà thơ Giang Nam để thay lời kết cho bài viết. Có phải chính những vần thơ đã thêm một lần nữa giúp khẳng định ý nghĩa của "Tây Tiến" trong lòng độc giả:

"Tây Tiến biên cương mờ khói lửa

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy con người ấy

Vẫn sống muôn đời với núi sông."

Chia sẻ, đánh giá bài viết
13
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 12

    Xem thêm