Đề kiểm tra cuối tuần môn Tiếng Việt lớp 4: Tuần 16
Bài tập cuối tuần môn Tiếng Việt lớp 4 Tuần 16
Đề kiểm tra cuối tuần môn Tiếng Việt lớp 4: Tuần 16 bao gồm chi tiết các phần đọc hiểu và trả lời câu hỏi, chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn có đáp án án chi tiết cho mỗi phần giúp các em học sinh ôn tập, hệ thống lại toàn bộ kiến thức đã học môn Tiếng Việt lớp 4 tuần 16. Mời các em học sinh cùng tham khảo chi tiết.
- Đề kiểm tra cuối tuần môn Tiếng Việt lớp 4: Tuần 15
- Đề kiểm tra cuối tuần môn Tiếng Việt lớp 4: Tuần 13
- Đề kiểm tra cuối tuần môn Tiếng Việt lớp 4: Tuần 14
Đề kiểm tra cuối tuần môn Tiếng Việt lớp 4
I – Bài tập về đọc hiểu
Kiến Mẹ và các con
Gia đình kiến rất đông. Kiến Mẹ có những chín nghìn bảy trăm con. Tối nào cũng vậy, trong phòng ngủ của các con, Kiến Mẹ vô cùng bận rộn Kiến Mẹ phải dỗ dành, hôn lên má từng đứa con và nói:
- Chúc con ngủ ngon! Mẹ yêu con
Cứ như vậy cho đến lúc mặt trời mọc, lũ kiến con vẫn chưa được mẹ hôn hết lượt. Điều đó làm Kiến Mẹ không yên lòng. Thế là, suốt đêm Kiến Mẹ không ngủ để chăm sóc đàn con.
Thấy Kiến Mẹ vất vả quá, bác Cú Mèo đã nghĩ cách để giúp Kiến Mẹ có thời gian nghỉ ngơi. Buổi tối, khi đến giờ đi ngủ, tất cả lũ kiến con đều lên giường nằm trên những chiếc đệm xinh xắn. Sau đó, Kiến Mẹ đến thơm vào má chú kiến con nằm ở hàng đầu tiên. Sau khi được mẹ thơm, chú kiến này bèn quay sang thơm vào má chú kiến bên cạnh và thầm thì:
- Đây là mẹ gửi một cái hôn cho em đấy!
Cứ thế, lần lượt các chú kiến con hôn truyền cho nhau và nhờ thế Kiến Mẹ có thời gian chợp mắt mà vẫn âu yếm được tất cả đàn con.
(Theo Chuyện của mùa Hạ)
Khoanh tròn chữ cái trước ý trả lời đúng
Câu 1. Mỗi buổi tối, Kiến Mẹ thường làm gì trong phòng ngủ của các con?
a- Dỗ dành và hôn lên má từng đứa con
b- Đếm lại cho đủ những đứa con yêu
c- Sắp xếp chỗ ngủ cho từng đứa con
Câu 2. Điều gì làm Kiến Mẹ không yên lòng và suốt đêm không được nghỉ?
a- Chờ các con đi kiếm ăn ở xa về tổ cho đầy đủ
b- Cho đến lúc mặt trời mọc vẫn chưa hôn hết các con
c- Khó lòng đếm xuể chín nghìn bảy trăm kiến con
Câu 3. Bác Cú Mèo đã nghĩ ra cách gì để giúp Kiến Mẹ có thời gian nghỉ ngơi?
a- Bảo các chú kiến con xếp hàng lần lượt đến hôn Kiến Mẹ
b- Giúp sức cùng Kiến Mẹ lần lượt hôn tất cả các chú kiến con
c- Nhờ kiến con lần lượt chuyển cái hôn của mẹ đến kiến bên cạnh
Câu (4). Có thể dùng tên gọi nào dưới đây phù hợp nội dung chính của câu chuyện?
a- Kiến Mẹ vĩ đại
b- Cú Mèo thông minh
c- Nụ hôn của mẹ
II- Bài tập về Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn
Câu 1. Điền vào chỗ trống:
a) r, d hoặc gi
Trong vòm lá mới chồi non
Chùm cam bà…..ữ vẫn còn đung đưa
Quả ngon….ành tận cuối mùa
Chờ con, phần cháu bà chưa trảy vào.
…..iêng, hai….ét cứa như …..ao
Nghe tiếng chào mào chống gậy …..a trông
Nom Đoài …..ồi lại ngắm Đông
Bề lo sương táp, bề phòng chim ăn
Quả vàng nằm …ữ cành xuân
Mải mê góp mật, chuyên cần tỏa hương.
(Theo Võ Thạnh An)
b) ât hoặc âc
Cuộc sống quanh ta th…. đẹp. Có cái đẹp của đ…..trời : núi cao ch…. ng…, nắng chan hòa như rót m….xuống quê hương, những bông hoa lóng lánh sương mai. Có cái đẹp do bàn tay con người tạo nên : mái chùa cổ kính nổi b….giữa làng quê, những bức tranh rực rỡ sắc màu, những bài ca c… lên nghe rạo rực lòng người. Nhưng quý nh… vẫn là vẻ đẹp của tâm hồn của con người.
(Theo Hòa Bình)
Câu 2. Khoanh tròn từ ngữ không thuộc nhóm nghĩa với các từ ngữ còn lại trong mỗi dãy từ sau:
(1) đèn ông sao, nhảy dây, quân cờ, diều, cờ tướng,dây thừng, bộ xếp hình, khăn bịt mắt, que chuyền, các viên sỏi.
(2) kéo co, chơi ô ăn quan, bịt mắt bắt dê, cờ tướng, chơi chuyền, chồng nụ chồng hoa, lắp ghép hình, rước đèn, nhảy dây, thả diều.
b) Đặt tên cho mỗi nhóm từ (bài 2a) :
(1)………………………………………………………………
(2)………………………………………………………………
Câu 3. a) Chia các câu kể (đã được đánh số) trong đoạn văn sau thành hai nhóm: kể về sự vật và tả về sự vật
(1) Gà của anh Bốn Linh nhón chân bước từng bước oai vệ, ức ưỡn ra đằng trước. (2) Bị chó vện đuổi, nó bỏ chạy. (3) Con gà của ông Bảy Hóa hay bới bậy. (4) Nó có bộ mào khá đẹp, lông trắng, mỏ như búp chuối, mào cờ, hai cánh như hai vỏ trai úp nhưng lại hay tán tỉnh láo khoét. (5) Sau gà ông Bảy Hóa, gà bà Kiên nổi gáy theo. (6) Gà bà Kiên là gà trống tơ, lông đen, chân chì, có bộ giò cao, cổ ngắn.
Câu kể về sự vật |
Câu tả về sự vật |
Các câu……………………… |
Các câu……………………….. |
Chú ý: Chỉ ghi số thứ tự câu vào hai cột
b) Mỗi câu trên kể hoặc tả sự việc gì?
M: Câu 1: Tả cách đi đứng của gà anh Bốn Linh
Câu 2 :…………………………………………..
Câu 3 :…………………………………………..
Câu 4 :…………………………………………..
Câu 5 :…………………………………………..
Câu 6 :…………………………………………..
Câu 4. a) Dựa vào gợi ý, em hãy viết đoạn văn (khoảng 8 câu) giới thiệu một trò chơi hoặc một lễ hội ở quê em.
Gợi ý:
- Quê em ở đâu? Nơi đó có trò chơi (lễ hội) gì làm em thích thú, muốn giới thiệu cho các bạn biết?
- Trò chơi (lễ hội) thường diễn ra ở vị trí nào? Hình thức tổ chức trò chơi (lễ hội) ra sao?
- Trò chơi (lễ hội) được diễn ra như thế nào? Có những nét gì độc đáo, thú vị làm em và mọi người thích thú?
………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………….
b) Dựa vào dàn ý phần thân bài đã viết ở bài tập 4 (tuần 15), hãy viết một đoạn văn (khoảng 5 câu) tả vài nét nổi bật của một đồ chơi em thích.
Chú ý: Cần nêu một vài đặc điểm nổi bật về hình dáng, kích thước, màu sắc, chất liệu hay điểm nổi bật về cấu tạo… của đồ chơi; dùng từ ngữ gợi tả, cách so sánh, nhân hóa để làm cho đoạn văn sinh động, hấp dẫn.
………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………….
Đáp án Đề kiểm tra cuối tuần môn Tiếng Việt lớp 4
Phần I
1. a
2. b
3. c
(4). c
Phần II
Câu 1.
a) Điền theo thứ tự: giữ, dành, Giêng, rét, dao, ra, rồi, giữ
b) Điền theo thứ tự: thật, đất, chất ngất, mật, bật, cất, nhất
Câu 2. a) (1) nhảy dây (2) cờ tướng
b) (1) Từ ngữ chỉ các đồ chơi (2) Từ ngữ chỉ các trò chơi
Câu 3.
a)
Câu kể về sự vật |
Câu tả về sự vật |
Câu 2, câu 3, câu 5 |
Câu 1, câu 4, câu 6 |
b) Câu 2: Kể về việc gà của anh Bốn Linh bỏ chạy khi bị chó vện đuổi
Câu 3: Kể về việc gà của ông Bảy Hóa hay bới bậy
Câu 4: Tả con gà của ông Bảy Hóa
Câu 5: Kể về việc gà bà Kiên nổi gáy theo gà ông Bảy Hóa
Câu 6: Tả con gà của bà Kiên
Câu 4. a) Tham khảo 1:
Hội đua ghe ngo
Những vùng có sông nước rộng như Sóc Trăng, Mỹ Xuyên (Hậu Giang), Cà Mau, Kiên Giang, An Giang thường có lễ hội đua ghe ngo thật độc đáo và thú vị. Hội đua ghe ngo được tổ chức ngay chiều ngày rằm tháng mười hoặc tổ chức vào sáng hôm sau buổi lễ thả đèn. Ghe ngo là một chiếc thuyền độc mộc làm từ thân cây sao to, khoét rỗng làm lòng thuyền, dài từ 25 đến 30 mét, có khoảng 20 đến 24 khoang đủ chứa được từ 43 đến 52 người. Đầu và đuôi ghe có vẽ đầu rồng, đuôi phượng hoặc vẽ cá sấu, hổ, báo…. Ghe được chà cho nhẵn bóng, trôi nhanh gọi là ghe ngo. Ghe chỉ dùng trong cuộc đua một lần trong năm và được cất giữ ở chùa. Mỗi ghe có một ông già giỏi tay chèo chỉ huy hiệu lệnh và động viên đội chèo. Trước ngày đua, người ta ngồi trên ghe tập chèo thuần thục theo nhịp trên cạn cho quen. Những cuộc đua thường có từ 20 đến 40 ghe. Cả vùng sông nước tưng bừng cờ hoa, trống hội, tiếng hét hò vang khắp mặt sông.
(Theo Nguyễn Trọng Báu)
Tham khảo 2:
Ở quê em, vào những ngày hội làng, già trẻ lớn bé lại tập trung ở đình làng, cùng nhau chơi những trò chơi truyền thống. Trong đó trò ưa thích nhất là kéo co.
Trò chơi này được nhiều người yêu thích, bởi cách chơi đơn giản, lại không phải chuẩn bị nhiều. Mọi người khi chơi lại dễ đoàn kết, giao lưu với nhau. Thật tiện lợi! Để chơi kéo co, thì cần có một sợi dây thừng bền, chắc chắn và thật dài. Sợi dây thừng này được sử dụng từ năm này qua năm khác, nên các góc cạnh đã được mài mòn đi rồi. Dần dần sợi dây ấy không còn chỉ là công cụ nữa, mà trở thành linh hồn của trò chơi. Nếu đổi thành sợi dây khác, thì có khi chẳng có cảm xúc được như thế.
Trò kéo co ở làng em có luật chơi khác so với những nơi khác. Thông thường, người ta sẽ có một vạch thẳng ở giữa hai đội chơi. Đội nào kéo được đối phương về bên mình thì sẽ thắng. Còn ở làng em, sẽ chơi trên một khu đất trống lớn, vẽ ra một hình tròn thật to, sao cho hai đội đứng vừa trong đó. Sau khi trọng tài thổi còi, hai đội sẽ ra sức kéo làm sao cho đội mình ra khỏi vòng tròn trước tiên. Phía bên ngoài, người dân ra sức reo hò cho đội mình yêu thích, bên trong sân, các cầu thủ càng thêm hăng hái kéo dây. Có những trận, kì phùng địch thủ gặp nhau, mãi cả nửa tiếng mới phân thắng bại. Chính những lúc như vậy, mọi người trở nên đoàn kết với nhau hơn. Kết thúc trò chơi, dù ai thắng, ai thua thì mọi người vẫn vui sướng mà chúc mừng nhau, chẳng có hờn giận gì cả. Đó chính là tình làng nghĩa xóm.
Em mong sao, dù thời gian trôi qua, ngày càng có nhiều trò chơi mới hơn nữa. Thì trò chơi kéo co này vẫn sẽ được gìn giữ và phát huy. Để phần nào nét văn hóa làng quê mộc mạc nơi này sẽ trường tồn mãi mãi.
>> Tham khảo: Văn mẫu lớp 4: Hãy giới thiệu một trò chơi hoặc một lễ hội ở quê em
b) Tham khảo: - Đoạn văn tả hình dáng chiếc quạt đồ chơi chạy bằng pin:
Chiếc quạt dài chừng một gang tay của em. Quạt làm bằng nhựa tím, lốm đốm nhũ trắng trông rất đẹp. Bên ngoài chiếc quạt nổi bật những hình vẽ ngộ nghĩnh : một chú bé mắt đen láy với đôi má đỏ đang cầm bút lông, một quả bóng đội mũ chóp cao, trên đỉnh gắn một bông hoa màu xanh da trời nhụy đỏ… Đầu nắp quạt có một sợi dây màu vàng dùng để đeo vào cổ. Mở nắp quạt ra, em thấy hai cánh quạt mỏng như mảnh giấy nhỏ, màu xanh lá cây nhạt. Cánh quạt được xếp nghiêng để có thể quạt gió ra phía trước. Dưới hai cánh quạt có một hộp động cơ bé tí với nhiều dây điện xanh đỏ chằng chịt.
(Theo Trần Mạnh Tường)
Bài văn mẫu tham khảo:
Đồ chơi nhà em có rất nhiều nhưng trong số đó ấn tượng nhất với em vẫn là chú gấu bông đã được tặng trong dịp sinh nhật.
Con gấu bông mẹ em mua tặng cho em nhân ngày sinh nhật, con gấu bông màu vàng, nó được làm bằng lông dày và rất mượt. Mũi của nó màu đỏ được đính bằng nhựa, trên cổ của nó có đeo một chiếc nơ nó có hai tay và hai chân, đầu của nó to và tròn trên đầu có hai cái tai và mũ. Trên khuôn mặt của nó có đôi mắt tròn được làm bằng nhựa thủy tinh, chỗ bụng của nó được làm bằng một loại vải mềm có tác dụng lớn đến những bộ phận khác, bông của nó rất đẹp.
Chân được làm to, chắc chắn giúp nó có thể ngồi chắc chắn hơn. Trên người của nó to, phải chọn một vòng ôm. Em đã gắn bó với nó suốt mấy năm học cấp 1, trong lõi của con gấu được làm bằng một loại bông mềm có màu trắng, trang trí đẹp tạo nên một vẻ thanh thoát và có ấn tượng mạnh mẽ. Gấu bông rất gắn bó với em, em thường ôm nó đi chơi hoặc trước khi đi ngủ đặt kế bên giường. Em và gấu bông cùng hòa vào giấc mơ ngon.
Đối với em gấu bông là một món quà rất ý nghĩa mà em yêu thích. Em sẽ giữ gìn cẩn thận và trân trọng như một người bạn thân đích thực.
Ngoài ra các bạn có thể theo dõi chi tiết đề thi các môn học kì 1 lớp 4 luyện tập các dạng bài tập SGK Toán 4 và SGK Tiếng Việt 4 chuẩn bị cho bài thi cuối học kì 1 đạt kết quả cao. Mời các em cùng các thầy cô tham khảo, cập nhật đề thi, bài tập mới nhất trên VnDoc.com.