Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Mục đích của việc thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế là gì?

Mục đích của việc thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế là gì? vừa được VnDoc.com sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết cho chúng ta thấy được mục đích của việc thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế. Mời bạn đọc cùng tham khảo chi tiết và tải về bài viết dưới đây nhé.

Mục đích của việc thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế

Câu hỏi: Mục đích của việc thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế là gì?

A. Tạo các mối quan hệ chặt chẽ về kinh tế giữa các nước Đông Âu với nhau.

B. Thúc đẩy sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau chặt chẽ hơn về kinh tế văn hóa và khoa học-kỹ thuật giữa Liên – Xô với các nước Đông Âu và các nước Xã hội chủ nghĩa khác.

C. Tạo ra một cộng đồng kinh tế của các nước Xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.

D. Tất cả các mục đích trên.

Trả lời

Đáp án: B

Mục đích của việc thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế là Thúc đẩy sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau chặt chẽ hơn về kinh tế văn hóa và khoa học- kỹ thuật giữa Liên – Xô với các nước Đông Âu và các nước Xã hội chủ nghĩa khác.

1. SEV là gì?

SEV hay hãy vẫn được hiểu là Hội đồng Tương trợ Kinh tế, có tên tiếng Nga là: Совет экономической взаимопомощи Sovyet Ekonomičeskoy Vzaimopomošči, ngoài ra tổ chức này còn được gọi là tổ chức hợp tác kinh tế của những quốc gia trong hệ thống xã hội chủ nghĩa ở giai đoạn từ năm 1949–1991.

Tổ chức bắt đầu được thành lập vào năm 1949 bởi 6 nước thành viên chủ chốt là Liên Xô, Tiệp Khắc, Bulgaria, Ba Lan, Hungary và Romania. Với những mong muốn chính trong sự hình thành của tổ chức Comecon chính là hợp tác cùng phát triển và củng cố vững chắc mối liên kết xã hội chủ nghĩa quốc tế của Joseph Stalin ở lĩnh vực kinh tế với những quốc gia yếu hơn tại khu vực Trung Âu và hiện tại đang có nguy cơ ngày càng bị cô lập khỏi thị trường truyền thống của họ và nhữngnhà cung cấp ở phần còn lại tại khu vực châu Âu.

Với riêng ba trường hợp của các nước Tiệp Khắc, Ba Lan và Hungary vẫn rất để tâm đến nguồn viện trợ Marshall bất chấp những yêu cầu đối với một nền kinh tế thị trường và tài chính chuyển đổi.

Những đòi hỏi này, nhiều khả năng sẽ đem lại mối quan hệ kinh tế vững chắc hơn ở những thị trường châu Âu thoải mái hơn so với Liên Xô, chắc chắn không thể làm ngơ đối với Stalin, đến tháng 7 năm 1947, đã ra lệnh cho những chính phủ đang thống trị hệ thống cộng sản này rời khỏi Hội nghị Paris về dự định phục hồi châu Âu.

Chính điều này đã được miêu tả khá rõ nét chính là “khoảnh khắc của sự thật” tại khu vực châu Âu thời kỳ hậu Thế chiến II. Với quan điểm rõ ràng của Liên Xô, “khối các nước như Mỹ-Anh” và “một số nhà độc quyền Mỹ … hưởng lợi ích chẳng có gì đồng đều với người dân tại khu vực châu Âu” chính vì vậy đã đưa ra lời từ chối sự hợp tác Đông-Tây trong nôi dụng buổi lễ được phía Liên Hiệp Quốc đồng ý, đó là, phê duyệt qua Ủy ban Kinh tế tại Châu Âu.

2. Quá trình hình thành SEV

Sau năm 1945, hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển dẫn đầu là Liên Xô (nước Nga ngày nay). Từ đó giữa các nước cùng chế độ xuất hiện và phát triển quan hệ hợp tác tương trợ. Và để hỗ trợ sự phát triển của các mối quan hệ hợp tác này Hội đồng tương trợ kinh tế được thành lập ngày 8/1/1949 bởi các nước xã hội chủ nghĩa phát triển bấy giờ là Liên xô, Bulgaria, Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan và Romania.

Mục tiêu của Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) mong muốn hợp tác và củng cố mối quan hệ xã hội chủ nghĩa quốc tế của Joseph Stalin ở cấp độ kinh tế với các quốc gia kém hơn Trung Âu và hiện đang ngày càng không bắt kịp với thị trường truyền thống và nhà cung cấp ở phần còn lại của Châu Âu. Với những mong muốn chính trong sự hình thành của tổ chức Comecon chính là hợp tác cùng phát triển và củng cố vững chắc mối liên kết xã hội chủ nghĩa quốc tế của Joseph Stalin ở lĩnh vực kinh tế với những quốc gia yếu hơn tại khu vực Trung Âu và hiện tại đang có nguy cơ ngày càng bị cô lập khỏi thị trường truyền thống của họ và những nhà cung cấp ở phần còn lại tại khu vực châu Âu

– Đến năm 1950 Hội đồng tương trợ kinh tế kết nạp thêm Cộng hòa dân chủ Đức và tiếp những năm sau đó các nước thành viên tiếp tục được tăng lên với sự gia nhập lần lượt của Mông Cổ, Cuba và cuối cùng là Việt Nam. Ba thành viên cuối là ba nước kém phát triển nhất trong khối thời bấy giờ và sự gia nhập của các nước này đã làm tăng gánh nặng cho 6 nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu (Ba Lan, Bulgaria, Hungary, Tiệp Khắc, Romania và Đông Đức). Tuy nhiên so với 03 nước đó thì Mông Cổ phát triển hơn chút, khi trước đó đã được Liên Xô trợ đều đều và không làm tăng gánh nặng nhiều cho khối SEV. Vì thế thực tế, Cuba và Việt Nam mới mang đến gánh nặng nhanh chóng leo thang.

Vào đầu những năm 1950, những quốc gia trong Hội đồng tương trợ kinh tế đã áp dụng các chính sách tự trị. Năm 1960 thì phát sinh thêm 10 ủy ban thường trực nhằm hỗ trợ cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp giữa các quốc gia trong hội đồng.

Hội đồng tương trợ kinh tế phát triển qua hai thời đại đó là thời đại Khrushchev và thời đại Thời đại Brezhnev.-

- Thời đại Khrushchev

Sau cái chết của Stalin năm 1953, Comecon lại bắt đầu tìm thấy chỗ đứng của mình. Đầu những năm 1950, tất cả các quốc gia Comecon đã áp dụng các chính sách tương đối tự trị; bây giờ họ lại bắt đầu thảo luận về việc phát triển các chuyên ngành bổ sung, và vào năm 1956, 10 ủy ban thường trực đã phát sinh, nhằm tạo điều kiện cho sự phối hợp trong những vấn đề này. Liên Xô bắt đầu đánh đổi hàng hóa sản xuất của Comecon. Đã có nhiều cuộc thảo luận về việc điều phối kế hoạch 5 năm. Tuy nhiên, 1 lần nữa, rắc rối nảy sinh. Các cuộc biểu tình của Ba Lan và cuộc nổi dậy của Hungary đã dẫn đến những thay đổi lớn về kinh tế và xã hội, bao gồm việc từ bỏ năm 1957 trong kế hoạch 5 năm của Liên Xô 1956, khi chính phủ Comecon đấu tranh để thiết lập lại tính hợp pháp và hỗ trợ phổ biến của họ. Vài năm tiếp theo chứng kiến 1 loạt các bước nhỏ hướng tới hội nhập kinh tế và thương mại gia tăng, bao gồm cả việc giới thiệu "đồng rúp chuyển đổi", sửa đổi các nỗ lực chuyên môn hóa quốc gia, và 1 điều lệ năm 1959 được mô phỏng theo Hiệp ước Rome năm 1957. Tuy nhiên, 1 lần nữa, những nỗ lực trong kế hoạch trung tâm xuyên quốc gia đã thất bại. Vào tháng 12/1961, 1 phiên họp của hội đồng đã phê chuẩn các Nguyên tắc cơ bản của Phòng Lao động Xã hội Chủ nghĩa Quốc tế, trong đó nói về sự phối hợp chặt chẽ hơn của các kế hoạch và "tập trung sản xuất các sản phẩm tương tự ở một hoặc một số nước xã hội chủ nghĩa". Vào tháng 11/1962, Thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev đã tiếp nối điều này với lời kêu gọi "một cơ quan lập kế hoạch chung." Điều này đã bị Tiệp Khắc, Hungary và Ba Lan phản đối, nhưng mạnh mẽ nhất là Rumani ngày càng mang tính dân tộc. rằng họ nên chuyên về nông nghiệp. Trung và Đông Âu, chỉ có Bulgaria vui vẻ đảm nhận vai trò được giao (cũng là nông nghiệp, nhưng trong trường hợp của Bulgaria, đây là hướng đi được chọn của đất nước ngay cả khi là 1 quốc gia độc lập trong những năm 1930). Về cơ bản, vào thời điểm Liên Xô đang kêu gọi hội nhập kinh tế chặt chẽ, họ không còn quyền áp đặt nó nữa. Mặc dù có sự hội nhập chậm chạp trong gia tăng, dầu mỏ, điện và các lĩnh vực khoa học / kỹ thuật khác và năm 1963 thành lập Ngân hàng Hợp tác Kinh tế Quốc tế, các nước Comecon đều tăng giao dịch với phương Tây tương đối nhiều hơn so với nhau

-Thời kỳ của Brezhnev

Từ khi thành lập đến năm 1967, Comecon chỉ hoạt động trên cơ sở các thỏa thuận nhất trí. Ngày càng rõ ràng rằng kết quả thường là thất bại. Năm 1967, Comecon đã thông qua "nguyên tắc của bên quan tâm", theo đó bất kỳ quốc gia nào cũng có thể từ chối bất kỳ dự án nào họ chọn, vẫn cho phép các quốc gia thành viên khác sử dụng các cơ chế của Comecon để điều phối các hoạt động của họ. Về nguyên tắc, 1 quốc gia vẫn có thể phủ quyết, nhưng hy vọng là họ thường chọn chỉ bước sang 1 bên thay vì phủ quyết hoặc là người tham gia bất đắc dĩ. Điều này nhằm mục đích, ít nhất là 1 phần, trong việc cho phép Romania lập biểu đồ kinh tế của riêng mình mà không để Comecon hoàn toàn hoặc đưa nó vào tình trạng bế tắc. Cũng cho đến cuối những năm 1960, thuật ngữ chính thức cho các hoạt động của Comecon là hợp tác. Thuật ngữ hội nhập luôn luôn bị tránh vì ý nghĩa của sự thông đồng tư bản độc quyền. Tuy nhiên, sau phiên họp của hội đồng "đặc biệt" tháng 4/1969 và sự phát triển và thông qua (1971) của Chương trình toàn diện để mở rộng và cải thiện hợp tác và phát triển hơn nữa về hội nhập kinh tế xã hội chủ nghĩa của các nước thành viên Comecon, các hoạt động của Comecon đã chính thức gọi là hội nhập (cân bằng "sự khác biệt về sự khan hiếm tương đối của hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia thông qua việc loại bỏ một cách có chủ ý các rào cản đối với thương mại và các hình thức tương tác khác"). Mặc dù sự cân bằng như vậy không phải là điểm then chốt trong việc hình thành và thực thi các chính sách kinh tế của Comecon, hội nhập kinh tế được cải thiện luôn là mục tiêu của Comecon. Mặc dù hội nhập như vậy vẫn là một mục tiêu, và trong khi Bulgaria ngày càng hội nhập chặt chẽ hơn với Liên Xô, thì tiến bộ theo hướng này lại liên tục bị thất vọng bởi kế hoạch trung tâm quốc gia phổ biến ở tất cả các nước Comecon, bởi sự đa dạng ngày càng tăng của các thành viên (vào thời điểm này bao gồm Mông Cổ và sẽ sớm bao gồm Cuba) và bởi "sự bất cân xứng áp đảo" và dẫn đến sự mất lòng tin giữa nhiều quốc gia thành viên nhỏ và "siêu nhân" Liên Xô, vào năm 1983, "chiếm 88% lãnh thổ của Comecon và 60% dân số của nó. "Trong giai đoạn này, đã có một số nỗ lực để rời khỏi kế hoạch trung tâm, bằng cách thành lập các hiệp hội công nghiệp trung gian và kết hợp ở nhiều quốc gia khác nhau (thường được trao quyền để đàm phán các thỏa thuận quốc tế của riêng họ). Tuy nhiên, các nhóm này thường tỏ ra "khó sử dụng, bảo thủ, không thích rủi ro và quan liêu", tái tạo các vấn đề mà họ đã dự định giải quyết. 1 thành công kinh tế của những năm 1970 là sự phát triển của các mỏ dầu của Liên Xô. Trong khi không nghi ngờ gì ", Trung và Đông Âu phẫn nộ khi phải trả một số chi phí để phát triển nền kinh tế của người chồng và kẻ áp bức đáng ghét của họ," họ được hưởng lợi từ giá thấp cho nhiên liệu và các sản phẩm khoáng sản khác. Do đó, các nền kinh tế Comecon thường cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ vào giữa những năm 1970. Họ hầu như không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973. Một lợi ích kinh tế ngắn hạn khác trong giai đoạn này là mang lại cơ hội đầu tư và chuyển giao công nghệ từ phương Tây. Điều này cũng dẫn đến việc nhập khẩu các thái độ văn hóa phương Tây, đặc biệt là ở Trung Âu. Tuy nhiên, nhiều cam kết dựa trên công nghệ phương Tây đã không thành công (ví dụ, nhà máy máy kéo Ursus của Ba Lan đã không làm tốt với công nghệ được cấp phép từ Massey Ferguson); đầu tư khác bị lãng phí vào những thứ xa xỉ cho giới thượng lưu, và hầu hết các quốc gia Comecon đã mắc nợ phương Tây khi dòng vốn chết dần khi mờ dần vào cuối những năm 1970, và từ năm 1979 đến 1983, tất cả Comecon đều trải qua thời kỳ suy thoái (với các trường hợp ngoại lệ có thể có của Đông Đức và Bulgaria) họ không bao giờ phục hồi trong thời kỳ Cộng sản. Romania và Ba Lan đã trải qua sự suy giảm lớn trong mức sống.

3. Vai trò của Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV)

- Từ năm 1951 đến năm 1973, tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp bình quân hằng năm của các nước trong khối SEV là khoảng 10%, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của các nước thành viên năm 1973 tăng 5,7 lần so với năm 1950.

- Liên Xô giữ vai trò quyết định trong khối SEV. Từ năm 1949 đến năm 1970, Liên Xô đã viện trợ không hoàn lại cho các nước thành viên tới 20 tỉ rúp.

Trên đây VnDoc.com vừa gửi tới bạn đọc bài viết Mục đích của việc thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế là gì? Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài học rồi đúng không ạ? Hi vọng qua bài viết bạn đọc có thể học tập tốt hơn môn Lịch sử lớp 12 nhé. Để giúp bạn đọc có thêm nhiều tài liệu học tập hơn nữa, VnDoc.com mời bạn đọc cùng tham khảo thêm các môn Toán lớp 12, Ngữ văn lớp 12...

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Lịch sử 12

    Xem thêm