Ở nhà em hoặc nơi em sinh sống có những hiện vật nào có thể giúp tìm hiểu lịch sử
Giới thiệu ngắn gọn về một hiện vật Lịch sử
Giới thiệu ngắn gọn về một hiện vật Lịch sử mà em thích là câu hỏi Lịch sử 6 bài 2 Dựa vào đâu để biết và phục dựng lại lịch sử sách Kết nối tri thức. Để giúp các em học sinh trả lời câu hỏi này, VnDoc gửi tới các em hai mẫu tài liệu giới thiệu về một hiện vật lịch sử cho các em tham khảo, giúp các em có thêm nhiều kiến thức làm bài. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
Đề bài: Ở nhà em hoặc nơi em sinh sống có những hiện vật nào có thể giúp em tìm hiểu lịch sử? Hãy giới thiệu ngắn gọn một hiện vật mà em thích nhất.
Bài tham khảo 1
- Gần nơi em sống có khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám (số 58 Quốc Tử Giám, Văn Miếu, Đống Đa, Hà Nội) có thể giúp tìm hiểu về Lịch sử.
- Giới thiệu về: Bia tiến sĩ trong Văn Miếu
+ Bia tiến sĩ Văn Miếu gồm 82 tấm bia đá khắc các bài văn bia đề danh tiến sĩ Nho học Việt Nam của các khoa thi Đình thời nhà Hậu Lê và nhà Mạc (1442-1779) tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội. Bia được đặt trên lưng rùa đá để biểu thị sự trường tồn của tinh hoa dân tộc, phản ánh được giá trị văn hóa, lịch sử của đất nước trong suốt 300 năm.
+ Năm 1484, với chủ trương đề cao Nho học và tôn vinh bậc tri thức Nho học đỗ đại khoa, vua Lê Thánh Tông đã cho dựng 7 tấm bia tiến sĩ đầu tiên tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám cho các khoa thi năm 1442, 1448, 1463, 1466, 1475, 1478 và 1481 thời Lê Sơ. Trong những năm tiếp theo, nhà Lê Sơ đã cho dựng thêm 5 tấm bia tiến sĩ các khoa thi năm 1487, 1496, 1502, 1511 và 1514. Đến thời nhà Mạc, do tiến hành nội chiến với nhà Lê Trung Hưng nên chỉ dựng được 2 bia tiến sĩ cho khoa thi năm 1518 (thời nhà Lê Sơ) và năm 1529. Như vậy, trong suốt thời kỳ nhà Mạc nắm giữ kinh thành Thăng Long, đã có 22 khoa thi tiến sĩ được tổ chức nhưng chỉ có duy nhất một khoa thi được dựng bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám là khoa thi năm 1529. Sang triều đại Lê Trung Hưng, các khoa thi tiến sĩ Nho học được khôi phục ngay từ thời vua Lê Trung Tông còn đóng đô ở Thanh Hóa. Sau khi chiếm lại được Thăng Long, các khoa thi được tổ chức đều đặn hơn nhưng cũng phải đến năm 1653 thì nhà Lê Trung Hưng mới tiến hành một đợt dựng bia tiến sĩ lớn nhất tại Văn Miếu với 25 bia tiến sĩ cho các khoa thi từ năm 1554 đến năm 1652. Sau đó, tới năm 1717 lại có một đợt dựng bia lớn thứ 2 dưới triều đại nhà Lê Trung Hưng với 21 bia tiến sĩ cho các khoa thi từ năm 1656 đến năm 1715. Với hai đợt dựng bia tiến sĩ lớn và sau đó là các lần dựng bia thường xuyên sau mỗi khoa thi cho tới khoa thi năm 1779 thì nhà Lê Trung Hưng đã dựng phần lớn trong tổng số 82 bia tiến sĩ (68/82). Sang triều đại nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn, kinh đô được chuyển vào Phú Xuân – Huế nên các bia tiến sĩ không còn được dựng tại Văn Miếu (Hà Nội) nữa. Nhà Nguyễn bắt đầu cho dựng bia tiến sĩ tại Văn Miếu Huế từ khoa thi năm 1822.
+ Tất cả 82 bia tiến sĩ ở Văn Miếu (Hà Nội) đều được chế tác theo cùng một phong cách: bia dẹt, trán cong, hình vòm. Các tấm bia được đặt trên lưng rùa, rùa được tạo dáng theo một phong cách chung: to, đậm và chắc khỏe. Cách thức dựng bia cũng rất độc đáo: đá dựng bia được lựa chọn kỹ càng, sau đó được thiết kế, trang trí, chạm khắc các hoa văn và khắc bài văn ký. Vì được làm hoàn toàn bằng tay nên công việc này đòi hỏi sự nhẫn nại và khéo léo rất lớn của những người thợ.
+ 82 bia đá tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) là những tấm bia tiến sĩ duy nhất trên thế giới có bài ký (văn bia) không chỉ lưu danh những tiến sĩ đã thi đỗ trong các kỳ thi trải dài suốt gần 300 năm (từ 1442 đến 1779) mà còn ghi lại lịch sử các khoa thi và triết lý của triều đại về nền giáo dục và đào tạo, sử dụng nhân tài, do đó có tác động to lớn đối với xã hội đương thời và hậu thế. Các bài văn bia còn ghi rõ ngày tháng dựng bia, tên của người soạn văn bia, người dựng bia. Điều này khẳng định tính xác thực, nguyên bản và duy nhất của tư liệu. Các văn bia đều do những danh nhân văn hóa, trí thức lớn của đất nước biên soạn nên về cơ bản chúng là những tác phẩm văn học vô giá. Những văn bia này được viết bằng chữ Hán với cách viết khác nhau khiến cho mỗi tấm bia như một bức tranh chữ, một tác phẩm thư pháp. Mỗi dòng chữ trên 82 tấm bia đá là nguồn sử liệu vô cùng quý giá giúp chúng ta nghiên cứu về con người và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như Nguyễn Trãi, Ngô Sĩ Liên, Nguyễn Quý Đức, Đặng Đình Tướng…
+ Bên cạnh đó, mỗi tấm bia còn là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc tinh tế và độc đáo với những hoa văn trang trí cầu kỳ mang tính cách điệu cao như hoa lá, mây, trăng, long, ly, quy, phượng. Chữ viết trên bia, các hoa văn trang trí cùng phong cách tạo dáng bia, rùa đều mang dấu ấn của thời đại sản sinh ra chúng. Nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật đã coi đây như một tư liệu quan trọng trong quá trình nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật và điêu khắc Việt Nam từ thế kỷ XV đến XVIII.
+ Đến nay, bia tiến sĩ Văn Miếu vẫn là những bản gốc duy nhất được lưu giữ tại chỗ, liên tục kể từ khi dựng. Phần lớn các hoa văn và văn tự còn rõ, có khả năng đọc được. Tính hiếm có và không thể thay thế ở nội dung và cách thức dựng bia, giá trị lịch sử – mỹ thuật và ảnh hưởng xã hội của tấm bia khiến cho 82 bia tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) trở nên vô cùng đặc sắc.
+ Chiều ngày 9/3/2010 tại Ma Cao, Trung Quốc, Ủy ban ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã công nhận 82 bia đá các khoa thi tiến sĩ triều Hậu Lê và Mạc ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) là di sản tư liệu thế giới thuộc chương trình ký ức thế giới của UNESCO.
Bài tham khảo 2
Người dân Việt Nam luôn có truyền thống gìn giữ những nét văn hóa cổ từ xa xưa. Nhắc đến nền văn hóa này phải nhắc đến trống đồng Đông Sơn - niềm tự hào của nền văn hóa Đông Sơn.
Trống đồng Đông Sơn có hình dáng vô cùng cân đối, hài hoà. Từ đó thể hiện một trình độ rất cao về kỹ thuật đúc đồng và nghệ thuật điêu khắc. Điều đặc biệt của trống đồng giúp cho nó trở thành nét đặc trưng cho nền văn hóa Đông Sơn là những hoa văn phong phú được khắc họa, miêu tả chân thật sinh hoạt của con người thời kỳ dựng nước mà truyền thuyết Việt Nam chưa thể khắc họa rõ nét. Trên mặt trống đồng có rất nhiều đồng tròn đồng tâm. Ở chính giữa của trống đồng là hình ngôi sao nhiều cánh tỏa ra xung quanh. Khoảng cách giữa các hình tròn phải bằng nhau, đây chính là nơi để khắc họa các hoa văn. Hình khắc họa trên mặt trống rất đa dạng. Ví dụ như hình vẽ công nhảy múa, hình chim bay, hình hươu nai có gạc, hình chèo thuyền, hình giã gạo,… Các hình vẽ đơn giản chỉ tạo nên bằng những đường thẳng, nhìn khá trừu tượng nhưng vẫn ghi lại được những hoạt động sinh hoạt của người dân thời kì Đông Sơn. Thế nhưng bên cạnh các hình vẽ con người, động vật, cây cỏ, một số loại trống đồng còn khắc họa các hoa văn hình học. Hoa văn hình học thường thấy là đường chấm nhỏ, vành chỉ trơn, vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến, hoa văn răng cưa và vạch ngắn song song và các chữ của người Việt cổ. Thân trống cũng khác các hình như hình vũ sĩ, hình thuyền và một số hình chim…
Trống đồng Đông Sơn là biểu tượng đẹp đẽ cho nền văn hóa Việt cổ. Đây là sản phẩm của nền văn minh nông nghiệp đang phát triển. Các hình vẽ khắc trên trống chứng tỏ thời kỳ này người dân đã biết sử dụng sức kéo động vật vào canh tác. Hơn thế, nó còn thể hiện hình ảnh con người cầm vũ khí bảo vệ quê hương, con người mang tính nhân bản. Và cuối cùng nó thể hiện sự khát khao cuộc sống ấm no, hạnh phúc của người dân thời kì này.
Trống đồng Đông Sơn là di tích còn sót lại, ghi lại cả một nền văn minh của thời kì dựng nước của nhân dân. Chính bởi vậy, chúng ta cần phải biết gìn giữ trống đồng và các di vật khác luôn lâu bền.
............................
Toàn bộ bài mẫu trên đây giúp các em học sinh học tốt phần Vận dụng 4 Lịch sử 6 Kết nối tri thức với cuộc sống bài 2. Mời các em tham khảo chi tiết lời giải môn Lịch sử 6 KNTT tại chuyên mục Giải Sử 6 Kết nối tri thức trên VnDoc nhé.