Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích những ý thơ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Phân tích những ý thơ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là bài phân tích súc tích về tác phẩm Vợ chồng A Phủ, các bạn sẽ được cảm nhận rõ những ý thơ văn xuôi được thả hồn trong tác phẩm. Hy vọng các bạn sẽ có thêm cảm nhận cũng như ý tưởng mới về Vợ chồng A Phủ sau khi tham khảo tài liệu. Ngoài bài Phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ, VnDoc hy vọng đây sẽ là tài liệu tham khảo hay giúp các bạn ôn thi THPT Quốc gia môn Văn hiệu quả.

Đề bài: Tô Hoài cho biết khi sáng tác truyện Tây Bắc ông đã đưa vào truyện những ý thơ trong văn xuôi. Theo anh chị ý thơ ấy biểu hiện như thế nào trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

1. Phân tích ý thơ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ mẫu 1

Tô Hoài là một trong những văn nghệ sĩ đầu tiên rời Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp. Suốt chín năm, ông đi thực tế ở nhiều nơi, chung sống với đồng bào các dân tộc thiểu số như người Thái, người Mường ở chân núi, lưng chừng núi; người Dao, người Mông trên những đỉnh núi đá cao chót vót quanh năm mây phủ… Tây Bắc gắn bó máu thịt với Tô Hoài và đã trở thành quê hương thứ hai của ông bởi những kỉ niệm sâu sắc không thể nào quên, vốn sống phong phú về thiên nhiên và con người Tây Bắc là mạch nguồn cảm hứng vô tận giúp tác giả sáng tác được nhiều tác phẩm về đề tài miền núi mà Truyện Tây Bắc (1953) là tiêu biểu nhất.

Trong tập truyện này, Tô Hoài phản ánh chân thực và sinh động đời sống cơ cực, tối tăm của đồng bào các dân tộc dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp và bọn lang đạo, chúa đất tay sai; đồng thời phản ánh con đường đến với cách mạng, với kháng chiến của họ. Nhà văn cho biết là khi sáng tác Truyện Tây Bắc, ông đã dựa vào những ý thơ trong văn xuôi. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ thể hiện rất rõ điều đó.

Phân tích những ý thơ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Thế nào là ý thơ trong văn xuôi? Có thể hiểu đó là những rung cảm của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con người… được đề cập tới trong tác phẩm. Từ đó, tác giả truyền những rung động, những cảm xúc thẩm mĩ đến người đọc.

Ý thơ trong văn xuôi thể hiện khá rõ qua bút pháp miêu tả thiên nhiên vừa giàu tính hiện thực vừa đậm đà chất trữ tình của Tô Hoài. Tác giả miêu tả cảnh vật Tây Bắc bằng cảm nghĩ và cách diễn đạt của người dân miền núi. Khung cảnh mùa xuân, ngày Tết trên vùng núi cao có sức hấp dẫn lạ kì, vừa là phong tục vừa là bức tranh thiên nhiên thơ mộng với màu sắc rực rỡ và đường nét uyển chuyển giàu chất tạo hình.

Vốn có khả năng quan sát sắc sảo và sự cảm nhận tinh nhạy nên cách tạo dựng bối cảnh, tình huống, miêu tả thiên nhiên trong sáng tác của Tô Hoài thường sống động và đầy chất thơ. Tiêu biểu là cảnh ngày Tết và mùa xuân trên núi cao, là lời hát yêu đương và tiếng sáo du dương gọi bạn tình trong những đêm xuân, là cảnh uống rượu của người Mông…

Đoạn văn tả khung cảnh Hồng Ngài trong những ngày Tết có những chi tiết, hình ảnh mang đậm “hồn” của cảnh vật và con người Tây Bắc: Đến Tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi… Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp trên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên các mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ… Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi…

Tiếng sáo du dương, trầm bổng đêm tình mùa xuân gợi nhớ bài hát quen thuộc của trai gái người Mông thường hát trong những ngày xuân với lời lẽ mộc mạc, hồn nhiên mà không kém phần say đắm:

Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.

Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…

Ngôn ngữ giản dị mộc mạc vậy mà hàm chứa cái lẽ sống phóng khoáng tự do của con người. Lẽ sống đơn giản ấy qua tiếng sáo đã vọng vào tâm hồn Mị, cô gái có một thời thổi sáo rất hay.

Những bức tranh sinh hoạt, những phong tục có từ ngày xưa, đặc biệt là cảnh ăn Tết của người Mông được tác giả miêu tả bầng những hình ảnh, chi tiết tiêu biểu thể hiện đặc điểm riêng rất phong phú, đa dạng của con người và thiên nhiên Tây Bắc:

Tiếng chó sủa xa xa.
Những đêm tình mùa xuân đã tới

Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm cái sân chơi chung ngày Tết. Trai gái, trẻ con ra sân chơi ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy.

Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma. Xung quanh, chiêng đánh ầm ầm người ốp đồng vẫn còn nhảy lên xuống, run bần bật Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay bữa rượu bên bếp lửa.

Tục “cướp vợ” của người Mông được tác giả miêu tả tỉ mỉ gây ấn tượng thú vị, ngạc nhiên đối với người đọc: Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Một đêm khuya, Mị nghe có tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu… Mị bèn nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay dắt Mị bước ra… Tiếc thay, bàn tay ấy không phải là của người yêu Mị mà là của một kẻ trong đám “cướp vợ” của A Sử – gã con trai ngang ngược và độc ác nổi tiếng trong vùng.

Sáng hôm sau, A Sử đến nhà báo cho bố Mị biết: Tôi đã cướp được con gái bố làm vợ, tôi đem về cúng trình ma nhà tôi rồi, bây giờ tôi đến trình cho bố biết Tiền bạc để cưới thì bố tôi bảo đã đưa cả cho bố rồi. Sau lễ cúng trình ma, Mị trở thành con dâu gạt nợ của nhà thống lí, món nợ nhỏ nhoi mà cha mạ cô nợ hắn từ lúc mới lấy nhau.

Ý thơ trong văn xuôi còn thể hiện qua bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc và tinh tế của Tô Hoài, khắc họa nổi bật vẻ đẹp tâm hồn và sức sống, nhất là khát vọng tự do, khát vọng tình yêu và sự đồng cảm của hai nhân vật chính.

Trước hết là nhân vật A Phủ – đầy tớ trừ nợ của nhà thống lí Pá Tra. Tác giả giới thiệu A Phủ bằng sự xuất hiện đột ngột của anh để gây chú ý cho người đọc rồi mới kể về lai lịch. Trong cuộc đánh nhau của trai làng bên với bọn A Sử, A Phủ dám đối đầu với A Sử – tên con trai nhà giàu trâng tráo và hung hãn. A Phủ dũng mãnh giành được thế áp đảo..

Đoạn văn miêu tả cảnh đánh nhau có một loạt từ ngữ miêu tả hành động với nhịp điệu nhanh, mạnh, dồn dập: Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt, Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xẻ vai áo, đánh tới tấp. A Phủ mang dáng dấp và hình ảnh của một chàng trai hào hiệp trong dân gian: to lớn, khỏe mạnh, can đảm và nghĩa khí. Chàng trai ấy không sợ đối mặt với bọn con quan ; ngược lại, anh thẳng tay trừng trị chúng vì chúng dám quấy phá cuộc vui xuân của bạn bè mình. A Phủ nắm lấy cái vòng cổ bạc có tua chỉ xanh đỏ của A sử – dấu hiệu con cái nhà quan – để kéo dập đầu nó xuống, xé áo nó ra mà đánh tới tấp cho hả giận.

Đoạn văn tả cuộc xử kiện là bức tranh phong tục sinh động của xã hội phong kiến ỏ miền núi Tây Bắc: Bọn chức việc khắp vùng Hồng Ngài đến nhà thống lí Pá Tra dự đám xử kiện. Các lí dịch, quan làng, thống quán, xéo phải đội mũ, quấn khăn, xách gậy, cưỡi ngựa kéo đến xử kiện và ăn cỗ.

Trong nhà thống lí đã bày năm cái bàn đèn. Khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp. Cả những người chức việc bên làng A Phủ cũng tới. Nhưng chỉ bọn con trai làng ấy phải ngồi khoanh tay cạnh A Phủ vì họ bị gọi sang hầu kiện, còn bọn chức việc thì nằm dài cả bên khay đèn. Suốt từ trưa cho tới hết đêm, mấy chục người hút. Trên nhất là thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra hút xong một lượt năm điếu, đến người khác hút, lại người khác hút, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về dự kiện. Chỉ có đàn bà ngồi trong buồng hoặc đi lại bên ngoài dòm ngó đám xử kiện và A Phủ quỳ chịu tội ở xó nhà, là không được dự tiệc hút ấy. Lúc một loạt người vừa hút xong, Pá Tra ngồi dậy, vuốt ngược cái đầu trọc dài, kéo đuôi tóc ra đằng trước, cất giọng lè nhè gọi:

Thằng A Phủ ra đây.

A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa tên thống lí Pá Tra rồi quay lại đánh A Phủ. A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá.

Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ… Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút…

Qua cách miêu tả tì mỉ, sinh động, người đọc nhận thấy sự hiểu biết cặn kẽ, tường tận của Tô Hoài về thực tế cuộc sống và phong tục tập quán của xứ sở có nhiều cây thuốc phiện. Tô Hoài đã lưu vào văn chương hình ảnh độc ác của bọn lang đạo, chúa đất vùng cao Tây Bắc cùng sự bất công của hủ tục và nỗi oan khiến chồng chất của người nghèo. Tô Hoài tả cảnh xử kiện ấy với một vẻ ghê rợn rất khó quên.

Trong đọan văn đặc sắc đầy ắp tính hiện thực nói trên thì chi tiết ám ảnh người đọc nhất là chi tiết cuối cùng: Đến lúc không phải quỳ, phải đánh nữa, A Phủ được đứng lên, chân đau bước đi tập tễnh nhưng phải cầm dao làm thịt lợn hầu hạ chính những kẻ đã đánh mình, những kẻ biến mình từ nay thành nô lệ trong nhà thống lí. Sự bất công, bất nhân của đám lang đạo chúa đất dường như đạt tới điểm đình.

Khi miêu tả A Phủ, tác giả cỏ dụng ý thể hiện tính cách của những con người vùng cao Tây Bắc. A Phủ là đứa con của núi rừng tự do. Cuộc sống phóng khoáng gần gũi thiên nhiên và tính tình chất phác, cương trực của A Phủ cũng là nét tính cách đặc trưng của trai làng người Mông.

A Phủ mồ côi cha mẹ, nghèo khổ không có ruộng nương, không có cả cái vòng bạc đeo cổ để đi chơi Tết. A Phủ từng bị bắt bán xuống vùng người Thái dưới chân núi. Cuộc sống cùng cực đã hun đúc cho A Phủ một sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuộng tự do và tính cách gan góc cùng với tài năng lao động đáng quý. A Phủ thành thạo và ham thích những công việc lao động nặng nhọc và khó khăn, nguy hiểm. Anh biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo. A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê, nhiều người nói: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu".

Một chàng trai khỏe mạnh vốn không nợ nần gì nhà Pá Tra, lại lao động giỏi, sống tự do như chim trời giữa núi rừng, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của bọn chúa đất, phải rơi vào thân phận nô lệ. Điều đó làm tăng thêm sức tố cáo sự áp bức bất công của xã hội thực dân phong kiến.

Một hôm, khi đi chăn bò, A Phủ sơ ý để hổ bắt mất một con. A Phủ xin Pá Tra cho mượn súng đi bắn hổ. Pá Tra giận dữ ra lệnh trói đứng A Phủ vào cọc suốt mấy ngày đêm. Đau đớn, đói khát và tủi nhục khiến cho người con trai dũng mãnh ấy tuyệt vọng: một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Trong hoàn cảnh cùng cực tưởng như không còn gì để mà hy vọng, A Phủ đã được một cô gái cùng cành ngộ cứu giúp. Sau khi được Mị cắt dây trói, A Phù ngã khuỵu xuống, nhưng rồi khát vọng sống thôi thúc mãnh liệt khiến anh quật sức vùng lên, chạy.

Mị vốn là một cô gái xinh đẹp, hồn nhiên và đầy sức sống. Khi bị bắt vể làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra, Mị đã phản kháng quyết liệt bằng cách định ăn lá ngón tự tử.. Nhưng rồi kiếp sống nô lệ triền miên dường như đã làm tê liệt sức phản kháng và cô đành cúi đầu cam chịu số phận. Đoạn văn mở đầu tả cảnh Mị ngồi làm việc trước cửa nhà thống lí có nhịp điệu chậm rãi, giống như những câu thơ trữ tình có âm hưởng u buồn, trầm lắng, rất phù hợp với việc diễn tả chân dung và thể hiện tâm trạng chán chường, đau khổ cùng thân phận bị ràng buộc của cô gái bất hạnh. Mị đã phải sống nhiều năm trong không khí ngột ngạt, tù đọng và bị lãng quên: Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi…

Tuy vậy, trong con người Mị vẫn tiềm tàng một sức sống cùng với khát vọng tình yêu và tự do. Sức sống của nhân vật này ẩn giấu ở nội tâm, chỉ bùng lên trong những thời điểm nhất định và biểu hiện qua những hành động quyết liệt, táo bạo. Trong suốt phần đầu của truyện, hầu như Mị không nói lời nào, ngoại trừ câu nói với cha được dẫn lại qua lời người kể chuyện. Điều đó cho thấy Mị là người có đời sống nội tâm âm thầm mà mạnh mẽ.

Sự trỗi dậy của sức sống thanh xuân cùng khát vọng tự do cháy bỏng ở nhân vật Mị thể hiện qua nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế và sâu sắc của tác giả trong đoạn tả đêm xuân ở Hồng Ngài. Tâm trạng của Mị tràn đầy cảm xúc trữ tình. Mị bâng khuâng, da diết nhớ và nuối tiếc quá khứ tươi đẹp chưa xa: Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mà ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Rượu đã tan lúc nào. Người về người ở chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết Mị cũng chẳng buồn đi Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường.

Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…

Tác động của ngoại cảnh là mùa xuân đến cùng tiếng sáo gọi bạn tình, bữa rượu bên bếp lửa đã thức tỉnh Mị. Quá trình thức tỉnh của Mị bắt đầu từ sự bừng dậy trong tiềm thức những hồi ức, kỉ niệm của quá khứ. Rồi Mị chìm đắm trong tiếng sáo. Ý thức về thời gian cũng đã trở lại cùng với khát vọng sống và ý thức về thân phận mình. Từ ý thức tới hành động của Mị đều thể hiện điều đó. Mị thắp đèn sáng lên, quấn lại tóc, rút chiếc váy hoa, chuẩn bị đi chơi.

Bị A Sử đánh và trói vào cột không cho đi chơi, nhưng Mị cũng không hề phản ứng. Mị vẫn mê mải sống với những khao khát cháy bỏng: Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…" Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai đang đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi… Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tình. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.

Đây là đoạn văn hay nhất bởi nó thấm đẫm cảm xúc trữ tình. Ý thơ trong văn xuôi được Tô Hoài thể hiện một cách tài tình qua tiếng sáo. Người đọc lắng nghe thật kĩ tiếng sáo vút lên hòa cùng nỗi niềm của cô gái Mông khi mùa xuân về. Tiếng sáo là ngôn ngữ giao tiếp đặc biệt bằng âm thanh của người Mông. Từ thực tế ấy, Tô Hoài đã công phu sáng tạo và sử dụng rất “dắt” chỉ tiết tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân để miêu tà diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị đang bị cầm giữ trong căn buồng tối tăm, ngột ngạt. Tiếng sáo trở đi trở lại nhiều lần như những lời nhắn nhủ, rủ rê, mời gọi đầy ám ảnh.

Lúc đầu, tiếng sáo vọng lại từ ngoài đầu núi: Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Sau đó, tiếng sáo vẳng lại từ phía đầu làng: Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Rồi tiếng sáo đến gần thêm: Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường. Lúc này, tiếng sáo không chỉ gọi bạn mà là gọi bạn yêu, nó cũng không còn lấp ló mà trở nên lửng lơ, nghĩa là có đường nét hơn và gợi cảm hơn. Cuối cùng, tiếng sáo rập rờn ở ngay trong đầu Mị, cô gái đáng thương đang khát khao tự do và tình yêu.

Nhà văn tả tiếng sáo hết lấp ló lại lửng lơ, rập rờn… Tiếng sáo bên ngoài cộng hưởng với tiếng sáo trong kí ức tạo nên một nhạc điệu tình cảm xao xuyến, bồi hồi. Nghe tiếng sáo văng vẳng đầu làng thì Mị nhớ lại ngày trước, Mị thổi sáo giỏi… Có bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Tiếng sáo đêm xuân gợi dậy cả một thời con gái tươi đẹp, hồn nhiên. Có một sự cộng hưởng lạ lùng giữa tiếng sáo của hiện tại với tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân ngày trước, giữa tiếng sáo gọi bạn tình và tiếng sáo của Mị năm nào. Sau khi bị A Sử trói đứng trong buồng, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi, sợi dây đay thít chặt của gã A Sử tàn bạo chỉ có thể trói buộc được thân xác Mị chứ không thể trói buộc được tâm hồn Mị, một khi tiếng sáo tình yêu đang rập rờn trong đầu cô. Tiếng sáo càng gần thì sự cảm nhận của Mị về cuộc sống, về tình yêu càng mãnh liệt.

Diễn biến phức tạp trong tâm trạng Mị khi đắm chìm trong dòng hồi tưởng và trong hiện tại đã được tác giả thể hiện ở nhiều cung bậc khác nhau và đều đạt tới chiều sâu tâm lí của nhân vật trữ tình. Đoạn văn tả suy nghĩ và hành động đột ngột của Mị trước cảnh A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra trói đứng vào cột bếp đã mấy ngày đêm đang đói khát, đau đớn chờ chết cũng đạt tới trình độ như vậy. Sự thay đổi nhịp điệu, tiết tấu của câu văn, đoạn văn từ chậm sang nhanh nhằm thể hiện sự trỗi dậy bất ngờ của tinh thần phán kháng trong Mị trước cái xấu, cái ác và trước nỗi đau khổ của người cùng cảnh ngộ: Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần. Thường khi đến gà gảy sáng Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà mới bắt đầu dậy ra đem lò bung ngô, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cải xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.

Hành động cắt dây trói cứu A Phủ là điểm đỉnh về vẻ đẹp tâm hồn, nhất là khát vọng tự do và sự đồng cảm sâu sắc của nhân vật Mị. Lúc đầu, thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên bởi cô đã quá quen với những cảnh ngang trái trong nhà Pá Tra. Tâm hồn Mị tưởng chừng đã bị đau khổ làm cho trở nên chai đá, giá lạnh; vì cô cho rằng chắc ít có người khốn khổ như mình. Nhưng rồi một đêm, qua ánh lửa bếp, nhìn sang thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại – biểu hiện sự đau đớn, tuyệt vọng của chàng trai gan góc, khỏe mạnh, thì Mị chợt xúc động. Mị càng thấy thương xót cho thân phận bất hạnh của mình. Những nỗi đau đớn, khổ nhục mà cô phải chịu đựng trong ngần ấy năm trời cuồn cuộn như nước Iũ ùa về trong tâm trí. Mị căm ghét cha con tên thống lí tàn bạo và tội nghiệp cho người thanh niên kia: Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết… Người kia việc gì mà phải chết thế? A Phủ… Mị phảng phất nghĩ như vậy.

Trong lòng Mị trào lên một nỗi thương cảm cho thân phận của A Phủ. Tình thương đó đã thắng sự sợ hãi. Mị nghĩ mình có thể bị trói thay vào đấy và sẽ chết nhưng cũng không thấy sợ. Nỗi thương thân nhanh chóng chuyển thành thương người cùng cảnh ngộ, Tất cả những điều xảy ra trước mắt Mị giống như giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước uất hận trong Mị ; thổi bùng ngọn lửa phản kháng tưởng chừng đã bị dập tắt bởi những cơn gió bạo lực triền miên và đem lại cho Mị một sức mạnh bất ngờ, xua tan nỗi sợ hãi cố hữu ám ảnh cô bấy lâu nay. Mị đã có một hành động bộc phát quyết liệt là cắt đứt dây trói cứu A Phủ và chạy trốn cùng anh ra khỏi nhà thống lí Pá Tra, ra khỏi Hồng Ngài.

Đoạn văn tả suy nghĩ và hành động đột ngột của Mị cắt dây trói cứu A Phủ được tác giả viết bằng một tiết tấu nhanh, dứt khoát, nhằm thể hiện thái độ phản kháng mạnh mẽ của Mị trước cái xấu, cái ác của cha con tên thống lí Pá Tra; sự đồng cảm sâu xa trước sự sống và cái chết của người cùng cảnh ngộ và cũng là của chính mình: Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay…”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ quật sức vùng lên, chạy.

Mị đứng lặng trong bóng tối.

Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:

A Phủ cho tôi đi.

A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:

Ở đây thì chết mặt A Phủ chợt hiểu.

Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.

A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ có nhiều đoạn giống như những bài thơ với vần điệu nhịp nhàng, giàu nhạc tính cùng những hình ảnh chân thực đan xen với những hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng thường thấy trong nghệ thuật thơ ca. Chất thơ trong tác phẩm đã nâng con người vượt lên trên hoàn cảnh tăm tối, khổ đau; truyền cho người đọc tình cảm yêu mến và những rung cảm sâu xa về cuộc sống và con người Tây Bắc. Văn Tô Hoài mang giọng điệu trữ tình hấp dẫn. Tác giả lôi cuốn người đọc bằng sự từng trải, tinh tế, bằng phong vị đậm đà màu sắc dân tộc vùng cao. Đây cũng là thế mạnh, là sở trường trong phong cách sáng tác, khiến cho các tác phẩm của ông để lại dấu ấn sâu đậm và có sức sống lâu dài trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Với bảy mươi năm cầm bút, Tô Hoài đã cống hiến cho đời nhiều tác phẩm xuất sắc. Ông xứng đáng là cây đại thụ của nền văn học việt Nam hiện đại.

2. Phân tích ý thơ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ mẫu 2

Nói về việc sáng tác “Truyện Tây Bắc”, Tô Hoài cho biết, “ngoài tài liệu và trên cả sáng tạo”, ông đã đưa vào trong tác phẩm của mình “những ý thơ”: “Ở mỗi nhân vật và trùm lên tất cả miền Tây, tôi đã đưa vào một không khí vời vợi, làm cho đất nước và con người bay bổng lên hơn, rời bỏ được cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt thường làm co quắp nhân vật, nhỏ bé vấn đề và khung cảnh đi”. Thật vậy, cụ thể trong “Vợ chồng A Phủ”, ta bắt gặp một trong những nét đặc sắc nhất của Tô Hoài là biệt tài phát hiện và chuyển tải chất thơ trong cuộc sống bình dị vào trang viết. Chất thơ man mác bao phủ bầu không khí của tác phẩm là sự cộng hưởng hiệu ứng của nhiều thủ pháp nghệ thuật, ánh lên từ tình huống truyện đầy nhân văn, từ ngôn ngữ hàm súc và giọng điệu trần thuật giàu tính nhạc. Để rồi từ đó, hiện lên trong tác phẩm bàng bạc chất thơ này là thiên nhiên, là lối sống, là phong tục và tâm hồn con người không lẫn vào đâu được.

Chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài hiện lên trước hết qua hình ảnh thiên nhiên vời vợi với những núi non, nương rẫy, sương giăng… không thể lẫn được với một nơi nào trên đất nước ta. Những chi tiết miêu tả thiên nhiên đan xen, hoà quyện trong lời kể của câu chuyện. Có khi, chỉ một vài điểm nhấn, tác giả đã phác ra được cái nét rất riêng của đối tượng. Những ngày sống trong căn phòng ngột ngạt, tù túng của mình ở nhà thống lí Pá Tra, Mị nhìn ra trời qua khung cửa sổ bé bằng bàn tay, lúc nào Mị cũng “chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Không gian ấy chỉ có thể tìm được ở Tây Bắc bởi núi rừng trùng điệp. Ban ngày, ánh mặt trời cũng khó có thể xua tan những màn sương giăng trắng làng bản. Đêm xuống, sương đêm hòa với ánh trăng tạo nên thứ không gian huyền ảo như trong ảo mộng. Đặc biệt, nhà văn đã có những câu văn thật hay nêu bật được hình ảnh đặc trưng về thiên nhiên Tây Bắc những ngày giáp Tết: “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho”, “trẻ con đốt những lều canh nương”, “gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa đã đem phơi trên những mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ, gió và rét rất dữ dội”. Những câu văn mang đầy “ý thơ” đã lột tả được hồn cốt thiên nhiên Tây Bắc với núi rừng trùng điệp, cao rộng vời vợi. Điểm vào cái nền thiên nhiên xanh mướt ấy là những dấu ấn của con người: những nương lúa, nương ngô uốn lượn trên sườn đồi sườn núi; những đống lửa bốc lên từ các lều canh nương; những đám cỏ gianh vàng ửng; những chiếc váy hoa xòe rực rỡ nhiều màu sắc của những cô gái H’mông là điểm nhấn đầy thi vị cho bức tranh thiên nhiên ấy.

Chất thơ còn được nhận ra bởi đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán của con người nơi đây. Đọc truyện, ta rất dễ bắt gặp những hình ảnh thường xuyên xuất hiện trong đời sống hằng ngày của đồng bào Tây Bắc. Đó là ngôi nhà gỗ với bếp lửa đặt trong nhà suốt mùa đông không tắt hòn than, là những công việc hằng ngày như cõng nước, cắt cỏ cho ngựa ăn, quay sợi,… Trang phục đặc trưng của người phụ nữ H’mông vùng cao này là váy xoè sặc sỡ đi kèm với những chiếc vòng bạc lấp lánh.

Truyện cũng miêu tả rất tinh tế một phong tục rất đẹp, rất thơ của đồng bào vùng cao là lễ hội mùa xuân. Tết của người vùng cao không giống tết ở miền xuôi. Người vùng cao có cách tính ngày Tết rất độc đáo thể hiện thuần túy tư duy nông nghiệp. Họ ăn tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có niềm vui thu hoạch mùa màng. Và dù cái Tết năm ấy đến Hồng Ngài “giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội” cũng không ngăn được niềm vui đang trỗi dậy trong tâm hồn những người dân ở đây, đặc biệt là ở những đôi trai gái yêu nhau. Không khí ngày xuân của Hồng Ngài mang những dấu ấn đặc trưng đậm hương vị núi rừng Tây Bắc: Mùa xuân đến, trai gái tìm đến nhau để tỏ tình. Họ bận những bộ quần áo đẹp nhất. Họ chơi ném còn, chơi quay, thổi sáo, đàn môi, uống rượu,… Tất cả đều mê mải, say sưa trong tiếng sáo dìu dặt, tình tứ.

Tô Hoài đã đặc tả không khí ngày tết với những từ ngữ giàu chất tạo hình, qua đó hiện lên bức tranh ngày tết miền núi tràn ngập màu sắc và âm thanh: “Trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ [...] Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Ông cũng đặc biệt chú trọng đến phong tục của họ qua con mắt tò mò, hóm hỉnh của mình: “Trai gái kéo nhau lên núi chơi. Đi chơi trên núi từng đoàn”, “Các chị Mèo đỏ, váy thêu, áo khoác, khăn hoa chùm rực rỡ. Các chị Mèo trắng chít khăn xếp phẳng lì, tóc mai cạo xanh nhẵn”.

Khi viết về những ngày tết ở Hồng Ngài, nhà văn Tô Hoài cũng rất chú ý miêu tả tiếng sáo. Sáo H’Mông có khả năng diễn tả ngôn ngữ của người H’Mông, thay họ nói lên tình cảm trong lòng: “Anh ném pao, em không bắt. Em không yêu, quả pao rơi rồi”. Đó là phương tiện giao duyên hữu hiệu của các chàng trai đối với con gái trong bản làng. Trong “Vợ chồng A Phủ”, ngòi bút Tô Hoài cũng tỏ ra rất thành công khi lột tả được nét đặc trưng, lột tả được “cái hồn” của tiếng sáo: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”, “Tiếng sáo réo rắt suốt đêm ngoài đầu núi tranh”. Tiếng sáo còn là cách tỏ tình đặc biệt của người con trai miền núi: “Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”. Thời gian cứ tiếp nối, những ngày tết vùng cao và đêm tình mùa xuân của ngày xưa và ngày sau dường như vẫn thế. Tiếng sáo gọi bạn tình vượt qua thời gian, tồn tại vĩnh hằng trong trái tim biết bao chàng trai cô gái miền sơn cước.

Bên cạnh những phong tục đẹp đẽ thể hiện tâm hồn thuần phác, nồng hậu của đồng bào Tây Bắc là những phong tục còn mông muội, chứa nhiều điều bất công vẫn còn tồn tại ở Tây Bắc những năm trước Cách mạng. Đó là sự phân chia đẳng cấp giàu – nghèo rất rõ. Trang phục của con nhà giàu cũng có những dấu hiệu khác: “Rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ mà chỉ riêng con cái nhà quan trong làng mới được đeo”. Đó là tục bắt vợ, cúng ma trình vợ đầy mê tín. Cái hủ tục lạc hậu ấy đã trở thành một thứ thần quyền ghê gớm án ngữ tư tưởng của người lao động nơi này, khiến họ luôn bị bóng đêm của sự mông muội đè nén, giày xéo không sao ngẩng đầu lên được. Đó là cái lệ đi ở trừ nợ: “bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Đặc biệt, hình ảnh ngôi nhà gỗ nghi ngút khói thuốc phiện với bữa tiệc phạt vạ được miêu tả trong câu chuyện không thể tìm thấy được ở vùng đất nào khác. Tài năng của nhà văn tập trung trong việc quan sát, dựng cảnh sắc sảo cảnh xử kiện nhà thống lí Pá Tra. Dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn, hủ tục, lề lối, sự tàn bạo, dã man của thế lực phong kiến miền núi đã được lột tả hết sức sinh động: “Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, chửi, lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ… Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút. […] Ngoài nhà vẫn rên lên từng cơn kéo thuốc phiện, như những con mọt nghiến gỗ kéo dài, giữa tiếng người khóc, tiếng người kể lào xào, và tiếng đấm đánh huỳnh huỵch”. Phải thấm thía cảnh sống đau đớn, tủi nhục như thế, ta mới cảm nhận được hết sức mạnh “cởi trói” tựa như bản năng sinh tồn mãnh liệt của những thân phận bị chà đạp.

Tóm lại, nghệ thuật miêu tả sinh hoạt và phong tục của nhà văn đã giúp người đọc có thêm nhiều hiểu biết phong phú về đời sống của đồng bào Tây Bắc. Trong truyện ngắn này, bằng vốn hiểu biết phong phú và khả năng quan sát tinh tế, tác giả đã khắc hoạ lại được những bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng, thể hiện được nhiều phong tục độc đáo và miêu tả sinh động những người H’mông hồn nhiên, ngay thẳng. Từ cảnh xuân trên bản đến cảnh vui chơi trong ngày Tết, cảnh xô xát giữa hai đám thanh niên đến cảnh xử kiện,… tất cả đều được phác họa sống động, tài tình, tạo nên phong vị đặc trưng của vùng núi Tây Bắc cụ thể, xác thực.

Nét đặc sắc nhất của chất thơ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” biểu hiện ở tâm hồn nhân vật Mị. Ẩn sâu trong tâm hồn Mị, một cô gái tưởng chừng như héo hắt, sống một cuộc đời lầm lũi “đến bao giờ chết thì thôi” ấy, có ai ngờ, vẫn le lói những đốm lửa của khát vọng tự do, của tình yêu cuộc sống. Ở nhà thống lí Pá Tra, Mị có cái vẻ ngoài âm thầm chịu đựng nhưng bên trong, kỳ thực, đó lại là một sức sống tiềm tàng, rạo rực. Đúng như Tô Hoài đã nói: “Ở nơi rừng núi mơ màng ấy, các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng”. Tính nhân văn trong câu chuyện là đây. Chất thơ đặc biệt được tác giả tạo nên là đây. Đó là khi nghe tiếng sáo gọi bạn trong những đêm tình mùa xuân vọng về, lòng Mị lại “thiết tha bổi hổi”. Tiếng sáo giao duyên ấy chạm vào phần sâu kín nhất của tâm hồn Mị, phần tâm hồn rạo rực của cô gái trẻ ngỡ như đã chết đi khi cô mang thân phận con dâu trừ nợ nhà thống lí Pá Tra. Tiếng sáo giao duyên ấy đã dẫn lối tâm hồn Mị trở về với ký ức của những ngày tự do xưa: “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Và tiếng sáo giao duyên ấy thức tỉnh tâm hồn Mị: “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Đến đây, ta chợt nhớ lại một câu châm ngôn rằng: “Cái chết không phải là mất mát lớn nhất trong cuộc sống. Mất mát lớn nhất chính là ta để tâm hồn mình lụi tàn ngay cả khi còn sống.” Mị, từ một nhân vật sống không bằng chết, nay đã sống lại trong tâm hồn. Và khi tâm hồn Mị không lụi tàn chính là khi sức sống tiềm tàng, rạo rực trong Mị chỉ chờ cơ hội đến là trỗi dậy mạnh mẽ. Như vậy, trong quá trình xây dựng nhân vật Mị với một cuộc đời đầy bi kịch, nhà văn Tô Hoài đã thật khéo léo thêm vào nhân vật mình một nét tâm hồn rất “thơ” và giàu tính nhân văn. Dù viết về mảng đề tài bi kịch trong cuộc sống của con người, những trang văn của Tô Hoài vẫn thấm đượm chất thơ. Chất thơ ấy chứa đựng trong nỗi khát khao mãnh liệt về một tương lai tốt đẹp, tươi sáng cho mỗi con người.

Làm nên chất thơ của “Vợ chồng A Phủ” không thể không nhắc đến ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn với hàng loạt các âm thanh, các hình ảnh gợi hình, gợi cảm rất nên thơ và đậm màu sắc. Ngôn ngữ văn xuôi của Tô Hoài ngoài cái ý nghĩa cụ thể trong từng câu chữ còn có một cái vô hình khó chỉ ra nhưng hoàn toàn có thể cảm thấy, đó chính là giọng điệu, là âm điệu câu văn cùng tiết tấu nhịp nhàng của nó. Tiết tấu đó chính là sự thể hiện những điệu tâm hồn, những cung bậc khác nhau trong tình cảm của nhà văn. Những điều này sẽ được trình bày cụ thể ở phần sau, khi phân tích về nghệ thuật trần thuật của tác phẩm.

Tóm lại, chất thơ trong văn xuôi của Tô Hoài được tạo nên bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn cái khí sắc lãng mạn với bút pháp trữ tình cùng cái duyên mượt mà của một văn phong điêu luyện. Đó là kết quả từ việc nhà văn vận dụng các loại hình nghệ thuật như hội hoạ, âm nhạc vào nghệ thuật viết văn; là kết quả của sự cộng hưởng giữa thơ ca và văn xuôi. Chất thơ say đắm lòng người không chỉ ở vẻ đẹp huyền diệu của thiên nhiên mà còn ở những cung bậc cảm xúc trong tâm hồn con người. Bên cạnh nghệ thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện, Tô Hoài còn để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bởi khả năng diễn đạt tài tình những rung động sâu xa, tinh tế trong thế giới đa cung bậc và muôn vàn sắc thái của tình cảm. Cảm thức tinh tế của Tô Hoài trong việc nắm bắt và tái hiện sự biến chuyển của màu sắc, âm thanh, ánh sáng, mùi vị trong thiên nhiên là một trong những yếu tố tạo nên bầu không khí trữ tình, trong trẻo, đẹp đẽ bao quanh thế giới nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài. Nhịp điệu, chất nhạc trong văn xuôi Tô Hoài bắt rễ từ vốn hiểu biết tinh tường về ngôn ngữ mẹ đẻ, những trực cảm tinh tế về ngôn ngữ.

3. Phân tích ý thơ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ mẫu 3

Tô Hoài được mệnh danh là nhà văn "sinh ra để viết" (Tế Hanh). Hơn sáu mươi năm cầm bút, ông đã để lại gần hai trăm đầu sách với nhiéu thể loại - truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, hồi kí,... Riêng truyện ngắn, độc giả nhớ nhất và bản thân nhà văn tâm đắc nhất có lẽ vẫn là Vợ chồng A Phủ. Nói về sức cuốn hút của tác phẩm này, người đọc nhắc nhiều đến vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục, tập quán của các dân tộc miền núi; khả năng quan sát tinh tường, lối trần thuật tự nhiên, hóm hỉnh của một người cầm bút từng trải, sắc sảo; tài nghệ phân tích tâm lí nhân vật, vốn ngôn ngữ dồi dào;... Nhưng tôi vẫn nghĩ, điều thú vị nhất là ở chỗ, Tô Hoài đã mang được vào truyện ngắn Vợ chồng A Phủ cái chất thơ riêng của miền Tây Bắc.

Trong cuốn sổ tay viết văn Tô Hoài từng tâm sự về những ý thơ trong văn xuôi: "Vâng, đúng là những ý thơ, đã từ lâu tôi làm, tôi cảm thấy mà chưa phân tích được". Theo ông, những ý thơ đó sẽ làm nên cái giá trị "ngoài tài liệu và trên cả sự sáng tạo". Ở đây, tác giả Sổ tay viết văn đã có sự gặp gỡ với quan niệm của nhiều nhà văn lớn:A.Pu-skin từng ví chất thơ trong văn xuôi như "chất nước ngọt ngào thấm trong trái táo"; L. Tôn-xtôi không chấp nhận ranh giới giữa văn xuôi và thi ca. Thậm chí, K. Pau-tốp-xki còn khẳng định rằng: "Văn xuôi là sợi cốt, còn thơ là sợi ngang. Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển, thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không cánh, không thúc gọi, không dãn dắt ta đi đâu cả"... Cũng chính họ - các nhà văn đích thực, bằng tác phẩm của mình, đã giúp cho người đọc hiểu thế nào là chất thơ trong văn xuôi. Đó có thể là những cánh đồng Nga, tâm hồn Nga hiển hiện trên trang văn Pu-skin; là lời thì thầm của cây sồi mùa đông, là hình ảnh người thiếu nữmuốn bay lên cùng ánh trăng (L. Tôn-xtôi) hay giai điệu ngọt ngào, say đắm, nồng ấm tình đời của Âm nhạc Véc-đi, Lắng quả thông(Pau-tốp-xki),... Cũng có thể là khi nhà văn khiến ta nhớ mãi cả mùi cát bụi "quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng đấy là mùi riêng của đất, của quê hương này" (Thạch Lam); hay bấy nhiêu ngạc nhiên, cảm động, bâng khuâng, ăn năn, khao khát,... được đánh thức nhờ hương thơm của một bát cháo hành (Nam Cao)... Chất thơ có khi đọng lại trong chi tiết, hình ảnh; có lúc thấm đượm trong bức tranh đời sốnghay lan toả vào câu chữ...

Trở lại với truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nếu "đọc vội" cũng có thể thấy được sự phong phú của hiện thực đời sống, đón nhận được niềm cảm thương, trân trọng của tác giả dành cho những phận người cùng khổ ở miền cao Tây Bắc. Các giá trị đó được "tường minh" bằng cốt truyện với sự tương phản quen thuộc của hai phần đời. Lối kể truyền thống, cách xây dựng nhân vật cũng chưa có gì là "đột phá"... Nhưng muốn nắm bắt được những ý thơ toát lên từ cảnh sắc và tâm hồn con người nơi đây, thì có lẽ phải đọc chậm, đọc sâu.

Đọc chậm để các giác quan và trí tưởng tượng có thể "theo kịp" ngòi bút của nhà văn khi vẽ nên quang cảnh Tết đầy khác biệt trên núi cao. Tết ở đây không đến trong làn mưa bụi giăng mù gọi chồi non, lộc nõn; cũng không phải với những rừng đào, rừng mận tưng bừng khoe sắc vẫn mặc nhiên hiện về mỗi khi người ta nghĩ tới mùa xuân Tây Bắc. Nó không về theo lời hẹn trước, không nhất nhất phải đồng hành cùng tháng ấy, ngày ấy trên tấm lịch... Trái lại, người dân vùng núi miền Tây "cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kê ngày tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới". Nhịp sống của con người "hoà thuận" một cách hồn nhiên, tự nhiên cùng nhịp điệu của thiên nhiên, vũ trụ như thuở sơ khai. Khi "các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho", người được an nhàn, thư thái thì vui chơi đón Tết. Có phải vì thế mà Tô Hoài tả cảnh Tết đến vào lúc "gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội", nhưng vẫn gợi được cái không khí náo nức, tươi tắn của mùa xuân? Ngòi bút của nhà văn chỉ phác qua vài sắc màu đậm chất địa phương, vài âm thanh quen thuộc của đời thường cũng đủ khiến lòng người háo hức không kém gì đám trẻ "đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà". Hình ảnh những chiếc váy hoa "đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ" trong các làng Mèo Đỏ và tiếng sáo gọi bạn đi chơi "lấp ló ngoài đầu núi" mang hương vị độc đáo của mùa xuân Tây Bắc. Tết ở đây gắn liền với những đêm tình nồng nàn, mê đắm: "trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách". Có cả bữa cơm Tết cúng ma, bữa rượu bên bếp lửa, rồi "người nhảy đồng, người hát"... Bằng lối "điểm xuyết" như thế, Tô Hoài dần xoá đi khoảng cách thời gian và không gian, đưa người đọc nhập vào nhịp sống riêng của miền đất này.

Đọc sâu để "đầu và tim" (theo cách nói của Nguyễn Tuân) có thể cảm nhận được cái chất thơ vút lên từ cuộc sống của những con người bị vùi dập trong đau khổ, bất hạnh nhưng chưa bao giờ lụi tắt khát vọng sống, khát vọng tình yêu và tự do. Một A Phủ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, không họ hàng thân thích mà lớn lên vẫn là chàng trai tài khéo, mạnh mẽ, táo bạo của núi rừng: "biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo". Dẫu nghèo khó, "Tết đến [...] chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác [...] chỉ có độc một chiếc vòng vía lằn trên cổ", A Phủ vẫn mang khèn, sáo đi tìm người yêu. vẻ hoang sơ của những cánh rừng, vóc dáng hiên ngang của những ngọn núi miền Tây như đã hun đúc cho chàng trai này tính cách bướng bính, gan góc và lòng ham sống mãnh liệt. Nó trao cho A Phủ sức mạnh để đối mật với bạo lực, cường quyền; vượt lên những nỗi hèn, nỗi sợ truyền kiếp để giành lại cuộc sống tự do...

Chất thơ toả sáng từ tâm hồn Mị - người con gái dẫu đi qua chốn địa ngục trần gian vẫn ấp ủ trong lòng bao xúc cảm đẹp đẽ và nồng ấm tình người. Tôi cứ nghĩ về nhân vật này như cô Tấm miền Tây Bắc - bị đày đoạ đến chết đi sống lại nhưng luôn tiềm tàng sức sống. Diễn biến hai cuộc hồi sinh của tâm hồn Mị xứng đáng được liệt vào hàng những trang văn giàu ý thơ nhất của Tô Hoài.

Cuộc hồi sinh thứ nhất diễn ra trong đêmhội mùa xuân ở Hồng Ngài. Lúc đó, kiếp con dâu gạt nợ ở nhà thống lí đã biến Mị từ một cô gái trẻ trung, tài hoa, mạnh mẽ... thành người đàn bà nhẫn nhục, chai sạn trước đau khổ. Cô vẫn sống nhưng đã mất dần những dấu hiệu của một con người: không giao tiếp, không xúc cảm và suy nghĩ, không kí ức, "chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại" như con trâu phải nhớ luốngcày, con ngựa phải nhớ đường đi. Mị mất cảm giác về thời gian, khônggian; mất luôn cả ý thức về sự tồn tại của chính mình. Với cô, thế giới bên ngoài chỉ còn là một ô vuông bằng bàn tay "mờ mờ trăng trắng" không biết là sương hay là nắng, là sáng hay là chiều. Mị cũng nghĩ mình sẽ lặng lẽ "ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi"... Nhưng bất chấp số phận cay đắng, nghiệt ngã, trái tim Mị vẫn âm thầm gìn giữ niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc. Khi đau khổ xoá mờ kí ức, Mị vẫn không quên giai điệu ngọt ngào, tha thiết của tiếng sáo gọi bạn tình. Nó quấn quýt, vương vấn, thức tỉnh, nâng đỡ, chắp cánh cho tâm hồn Mị: "Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi [...] Tai Mị vãng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng [...] Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường [...] Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo...". Tiếng vẫy gọi của tình yêu đã làm sống dậy những cảm xúc và kỉ niệm Mị từng chôn vùi, quên lãng Người đàn bà câm lặng suốt bao năm tháng giờ đây đang ngồi "nhẩm thầm bài hát" của người thổi sáo. Từng câu hát nồng nàn, tình tứ gọi về trong tâm tưởng những tháng ngày hạnh phúc, tươi sáng nhất: "Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lácũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị". Trong khoảnh khắc, Mị vượt qua mọi khoảng cách của thời gian, không gian, băng qua ranh giới của quá khứ và hiện tại để trở về sống trọn với tuổi thanh xuân tươi đẹp. Tâm hồn Mị đã hồi sinh. Cô lại ý thức được về bản thân mình, cảm nhận được nguồn sức sống đang trào dâng: "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ". Người phụ nữ đang chết mòn trong tuyệt vọng lại muốn được sông cuộc sống có niềm vui, có tự do: "Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi". Trái tim cô không còn "quen khổ" nữa mà thấm thìa hơn bao giờ hết nỗi bất hạnh của đời mình: "Huống chi A sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra". Cảm biết được nỗi đau, biết phẫn uất - Mị trở lại là người con gái mạnh mẽ, giàu tinh thần phản kháng của ngày xưa! Kể từ giây phút "đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn", Mị đã biến thành một con người khác. Cô không chỉ khơi ngọn đèn làm sáng căn buồng mờ tối mà còn thắp lên ngọn lửa của tình yêu cuộc sống trong chính lòng mình! Đi chơi Tết đối với Mị chính là một hành động "nổi loạn" để chấm dứt kiếp tù nhân, giành lại quyền được sống như một con người. Thậm chí, cá lúc bị A Sử trói đứng vào cột nhà, lòng MỊ vẫn nồng nàn, tha thiết nhớ, vẫn đắm trong tiếng gọi yêu thương; tiếng sáo "đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi"... Khát vọng tình yêu và hạnh phúc đã là nguồn sức mạnh kì diệu nuôi dưỡng tâm hồn MỊ.

Cuộc hồi sinh lần thứ hai đã không được báo trước bằng bất kì "tín hiệu" nào (như không khí tưng bừng của mùa xuân, men rượu say nồng bên bếp lửa hay tiếng sáo gọi bạn tình,...). Nó đến bất chợt, bất ngờ - với người đọc và với cả chính bản thân Mị. Bởi vì, sau đêm bị trói đứng, Mị rơi vào cái chết tinh thần nặng nề, đau đớn. Người phụ nữ cô đơn, bất hạnh ấy đã hoàn toàn tách biệt với xung quanh "chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa". Cô không còn tìm được chút hơi ấm nào từ cuộc sống. Mị bám víu lấy bếp lửa không chỉ vì cái lạnh của những đêm đông trên núi cao mà còn vì sự buốt giá của lòng mình: "nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần". MỊ thờ ơ, vô cảm với chính mình và với mọi sự xung quanh. Có đêm, A Sử bắt gặp, đánh MỊ ngã ngay xuống cạnh bếp nhưng đêm sau cô vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước. Tôi có cảm giác nếu A Sử đánh chết Mị bên bếp lửa, thì cô cũng sẽ lặng thinh và thờ ơ như thế. Thân còn chẳng thiết) nên khi tận mắt chứng kiến cảnh tượng A Phủ chết dần trong đói rét, đau đớn, Mị vẫn dửng dưng: "Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi"!

Miêu tả cái chết tinh thần ấy, Tô Hoài đã tự đặt mình trước một thử thách lớn. Làm sao nhà văn lại khiến người đọc tin rằng, từ trạng thái vô cảm kia, Mị có thể thức tỉnh, cắt dây trói củaA Phủ và tự cứu chính mình? Làm sao ông có thể tìm được "chìa khoá" để mở lại cánh cửa của một cõi lòng đã đóng chặt và cơ hồ đã chết? Vì thế, không ít lần tôi ngẫm đi ngẫm lại cái câu văn tả "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ. Không phải là nước mắt khiếp sợ của kẻ hèn nhát hay giọt lệ van xin, cầu khẩn lòng thương hại. Dòng nước mắt kia chất chứa nỗi đau đớn, uất hận thầm lặng mà dữ dội của một con người tràn đầy sức mạnh, có thừa lòng can đảm mà đành bất lực trước cái chết oan ức, phi lí. Nó đập mạnh vào trái tim Mị - trái tim dường như chỉ còn nỗi đau. Cô bừng tỉnh trong mối đồng cảm sâu xa với người cùng chung cảnh ngộ đau thương, uất hận: "Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước. A Sử trói Mị, MỊ cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được". Lúc trước, miêu tả cảnh Mị bị trói đứng, Tô Hoài nhắc nhiều đến những đau đớn vé thể xác: "tay chân đau không cựa được [...] khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức [...] cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt [...] Sợi dây gai dưới bắp chân vừa lỏng ra, Mị ngã sụp xuống [...] Mị quên cả đau, đứng lên. Nhưng không nhích chân lên được". Nỗi đau thể chất này, thời gian có thể làm nhoà đi nhưng nỗi đau tinh thần kia thì vẫn hằn sâu trong tâm trí, khi con người bị tước đoạt đến cả cái quyển đưa tay lên lau những giọt nước mắt của chính mình! Từ chỗ biết thương mình, trong lòng Mị dâng lên nỗi xót xa, thương cảm cho bao kiếp người bị đày đoạ: "Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bất mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này". Cùng với tình thương, trong lòng MỊ sống dậy cả lòng căm thù, sự phẫn nộ: "Chúng nó thật độc ác". Với A Phủ, Mị chia sẻ nỗi đau đớn bằng cả trái tim vì chính cô đã từng biết thế nào là "chết đau, chết đói, chết rét, phải chết" trên cây cột trói người. Đột nhiên, nhưng cũng là tự nhiên, tất yếu với một con người giàu "năng lực" yêu thương, Mị xót xa cho A Phủ hơn chính bản thân mình: "Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế".Trong khoảnh khắc, người con gái có tâm hồn trong sáng, nhân hậu của ngày xưa đã lại trở về! Bấy nhiêu cảm xúc trỗi dậy khiến MỊ không cảm thấy sợ hãi cả khi tưởng tượng mình phải trói thay A Phủ. Bằng sức mạnh của tình yêu thương, sự đồng cảm, lòng vị tha, Mị đã vượt lên nỗi sợ cường quyền, cắt dây trói cứu A Phủ, để rồi lòng ham sống mãnh liệt lại giúp cô vượt qua nỗi ám ảnh thần quyền, tự cứu chính mình... Vẫn là cái quy luật muôn thuở của tình người bất diệt "Thương người như thổ thương thân", nhưng qua ngòi bút Tô Hoài, nó đã mang đậm sắc màu riêng của tính cách, tâm hồn con người Tây Bắc - chân chất, mộc mạc mà nồng nàn, sâu sắc; lặng lẽ mà quyết liệt trong khát vọng sống, khát vọng tự do.

Những ý thơ trong Vợ chồng A Phủ cũng gắn liền với một Tô Hoài đặc biệt chú trọng đến chuyện "tinh thông về chũ". Ông từng tâm niệm và ao ước: "Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà có". Tôi đã thấy những "hạt ngọc" như thế lấp lánh trong Vợ chồng A Phủ. Công phu dùng chữ của tác giả hiện rõ qua lời kể, lối miêu tả, nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ nhân vật,... Từ đối thoại, độc thoại đến những đoạn ngôn ngữ nửa trực tiếp,... chưabao giờ thấy gợn lên sự thiếu hài hoà giữa lai lịch, vốn sống, tâm trạng và tính cách,... với lời ăn tiếng nói của nhân vật. Có những câu nói chỉ bớt đi một từ thôi (chúng tôi in đậm), nó đã không còn là cách nói riêng của người miền cao - mộc mạc, đầy hình ảnh và cảm xúc chân thật, tự nhiên: lời khen ngợi A Phủ của các cô gái trong làng: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà"; lời của người cha già hiểu con, thương con mà đành bất lực: "Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? [...] Không được, con ơi!" hay tiếng vọng đau đớn vang lên từ tâm trí Mị, nhắc nhở về nỗi tủi nhục, cay đắng đến tận cùng của kiếp nô lệ: "Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được"... Màu sắc địa phương đậm đà ấy đã góp phần không nhỏ làm nên vẻ sinh động, độc đáo của các nhân vật.

Tác giả Vợ chồng A Phủ cũng sáng tạo nhiều kiểu câu văn giàu nhịp điệu "như biết co duỗi nhịp nhàng" (Nguyễn Tuân). Có kiểu câu với cấu trúc tầng lớp, trùng điệp các vế, thường được dùng để miêu tả các sự kiện kéo dài, lặp lại, triền miên, nặng nề: tả kiếp đàn bà như con trâu con ngựa "chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi" trong nhà thống lí ("Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi"); tả cảnh hành hạ người dã man, quái gở ("Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút"),... Có kiểu câu ngắn, dồn dập, diễn tả những biến động bất ngờ: "Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. [...] Hơi rượu toả. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tỉnh". Những cấu trúc mới lạ, phong phú đan xen, phối hợp với nhau một cách linh hoạt mang dến cho lời vãn tính đa thanh, phức điệu.

Ngôn ngữ văn xuôi của Tô Hoài giàu chất thơ, chất hoạ. Không thiếu những đoạn văn, đọc lên, ngỡ như mình đang đứng trước một bức tranh hay đang xem một trường đoạn phim với góc quay thật rộng: "Hai người đi liền hơn một tháng. Họ đi chuyền trên những triền núi cao ngất, lốm đốm nhà, thấp thoáng ruộng, đất đỏ, suối trắng tinh, trông thấy ở trước mặt mà đi mấy ngày chưa tới. [...] A Phủ làm nhà thèo đảnh ra một ngọn đồi gianh. Những ngày quang trời trông thấy dòng sông và cánh đồng Bản Pe có ruộng xoènhư cánh quạt". Gần rồi xa, cao và thấp, diện và điểm, đậm xen nhạt, khi thì sắc nét như ở ngay trước mặt, lúc lại thấp thoáng mơ hồ như ở ngoài tầm mắt; vừa trải rộng với những nét vẽ sông, suối mềm mại, đã lại sừng sững thu về trong dáng núi gân guốc, hùng vĩ... Tả con đường vượt suối, băne rừng mà thấy được hành trình và khát vọng đi tìm cuộc sống tự do. Tái hiện khung cảnh thiên nhiên mà gợi được vẻ đẹp mạnh mẽ, phóng khoáng, lãng mạn của hồn người...

Những ý thơ trong Vợ chồng A Phủ được tạo nên bằng ngòi bút của một người "thợ chữ" tài hoa và kiên tâm trên con đường sáng tạo. Phải nói đến cả tình cảm gắn bó thắm thiết, sâu nặng của nhà văn: "thiên nhiên và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không bao giờ quên" (Tô Hoài). Không chỉ nhà văn, mà cả người đọc cũng muốn nói lời tri ân núi rừng, sông suối và con người Tây Bắc - nguồn "nguyên liệu" thấm đẫm chất thơ! Tô Hoài đã trả được món nợ ân tình đó khi truyền cho người đọc những rung cảm sâu xa với cảnh, với người. Ông cũng đã thực hiện được điều mà mọi nhà văn đều mong ước: "trong văn xuôi, cần phải đượm hồn thơ, có như thế vãn xuôi mới trong sáng cất cao"

Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới bạn đọc Phân tích những ý thơ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. Mong rằng qua đây các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 12 nhé. Mời các bạn cùng tham khảo thêm kiến thức các môn Toán 12, Tiếng Anh 12, Ngữ văn 12, đề thi học kì 1 lớp 12, đề thi học kì 2 lớp 12...

Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 12, Ôn thi khối C để có thêm tài liệu học tập nhé

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Môn Văn khối D

    Xem thêm