Câu 4: Chứng minh Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi quân sự lớn nhất của ta trong kháng chiến chống Pháp và là thắng lợi quyết định buộc thực dân Pháp phải kí kết Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương.* Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954), quân và dân ta đã giành được nhiều thắng lợi trên các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao. Trong đó mặt trận quân sự giữ vai trò quan trọng nhất góp phần tạo đà và thúc đẩy thắng lợi ngày càng to lớn của nhân dân ta trên các chiến trường.
* Trên mặt trận quân sự, quân dân ta từng bước đánh bại các âm mưu của thực dân Pháp để tiến lên mở chiến dịch Điện Biên Phủ, đánh bại hoàn toàn thực dân Pháp, buộc chúng phải kí kết Hiệp định Giơnevơ công nhận độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta cũng như Lào và Campuchia.
1- Ngày 19/12/1946, Kháng chiến toàn quốc bùng nổ bằng cuộc chiến đấu ở các đô thị vĩ tuyến 16, mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp trong toàn quốc. Qua cuộc chiến đấu này, quân dân ta đã đánh bại âm mưu "đánh úp" của địch, đảm bảo cho cơ quan đầu não kháng chiến của Đảng và Chính phủ rút về chiến khu Việt Bắc an toàn, chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.
2- Tiếp đó là thắng lợi trong chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947. Là chiến thắng lớn đầu tiên của quân và dân ta trong việc tổ chức phản công địch trong cuộc kháng chiến chống Pháp, làm cho âm mưu muốn kết thúc chiến tranh nhanh chóng của địch bị thất bại hoàn toàn, phá tan âm mưu "đánh nhanh của thắng nhanh" của chúng; lực lượng so sánh giữa ta và địch bắt đầu thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta. Đây là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong năm đầu toàn quốc kháng chiến, đưa cuộc kháng chiến của nhân dân sang một giai đoạn mới, ta từ chỗ phòng ngự sang thế tấn công địch.
3- Đến chiến dịch Biên Giới thu - đông năm 1950, ta chủ động mở chiến dịch trên đường số 4. Đây là chiến thắng lớn đầu tiên của ta trong việc chủ động mở cuộc tiến công địch có qui mô lớn, một chiến dịch đánh tiêu diệt hay và gọn theo phương thức "vận động chiến", đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc về nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch và trình độ tác chiến tập trung của quân đội ta. Là thất bại lớn của Pháp cả về quân sự lẫn chính trị; địch bị đẩy lùi vè thế phòng ngự, bị động, càng thêm lúng túng về nhiều mặt; đánh dấu sự chuyển biến lớn trong cục diện chiến tranh đưa cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn mới; ta vươn lên giành quyền chủ động và phản công ngày càng lớn...
Kể từ sau chiến thắng Biên giới mùa thu năm 1950, ta đã phá tan thế bao vây phong toả của kẻ thù, giành thế chủ động ở chiến trường chính Bắc Bộ với một loạt chiến thắng: Trung du (12/1950), Đường số 18 (3/1951), Hà Nam Ninh (5/1951), Hoà Bình (Đông-xuân 1951 - 1952), Tây Bắc (10/1952), Thượng Lào (4/1953) đã đẩy địch vào tình trạng lúng túng hơn nữa, giải phóng được nhiều vùng đất đai rộng lớn và phát triển lực lượng vũ trang với 3 thứ quân.
4- Đến năm 1953, trải qua 8 năm kháng chiến và kiến quốc, ta đã lớn mạnh về mọi mặt và có đủ điều kiện đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Ngược lại, Pháp đang sa lầy trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Cuộc chiến tranh lâu dài, tốn kém đã làm cho thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn và ngày càng phụ thuộc vào Mĩ (đến năm 1953 bị loại khỏi vòng chiến đấu hơn 39 vạn quân và tiêu tốn hơn 2000 tỉ phrăng, vùng chiếm đóng bị thu hẹp). Trước tình hình đó, được sự thoả thuận của Mĩ, ngày 7/5/1953, Pháp đã đề ra kế hoạch Nava với hi vọng "chuyển bại thành thắng" trong vòng 18 tháng. Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, một pháo đài "bất khả xâm phạm", "sẵn sàng" nghiền nát bộ đội chủ lực ta. Điện Biên Phủ trở thành tâm điểm của kế hoạch Nava. Tuy nhiên, Nava đã bị thất bại ngay từ bước đầu trong kế hoạch của mình. Với việc phân tán lực lượng địch ở Điện Biển Phủ, Xênô, Plâyku và Luông Phabang, ta đã đánh bại bước đầu kế hoạch của Nava. Buộc Nava phải tập trung lực lượng ở Điện Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ thành điểm quyết chiến chiến lược với ta.
Tháng 12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt địch ở đây, giải phóng vùng Tây Bắc, tạo điều kiện cho Lào giải phóng Bắc Lào. Đầu tháng 3/1954, công tác chuẩn bị mọi mặt đã hoàn tất. Ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Điện Biên Phủ là một chiến dịch tiến công địch liên tục gồm 3 đợt: ...
Sau 56 ngày đêm, chúng ta đã giành được thắng lợi to lớn: Tiêu diệt và bắt sống toàn bộ lực lượng địch ở Điện Biên Phủ gồm 16200 tên, bắn rơi và phá hủy 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đập tan kế hoạch Nava, nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mĩ ở Đông Dương. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đăng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỉ XX. Giáng một đòn mạnh mẽ vào hệ thống thực dân, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc thế giới.
Thắng lợi quân sự quyết định ở Điện Biên Phủ đã đưa phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến hội nghị Giơnevơ với tư thế đại biểu cho một dân tộc chiến thắng. Hiệp định được kí kết, các nước tham dự đã phải tôn trọng các quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam.
Như vậy, qua các thắng lợi của quân dân ta từ năm 1946 đến chiến cuộc đông - xuân 1953 - 1954, ta đã đánh bại được các âm mưu của địch, giành được nhiều thắng lợi to lớn và đến chiến dịch Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc kháng chiến, ta đã đánh bại hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược. Đây là thắng lợi quân sự lớn nhất và là thắng lợi quyết định buộc thực dân Pháp phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương.
Đáp án là:
Câu 4: Chứng minh Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi quân sự lớn nhất của ta trong kháng chiến chống Pháp và là thắng lợi quyết định buộc thực dân Pháp phải kí kết Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương.* Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954), quân và dân ta đã giành được nhiều thắng lợi trên các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao. Trong đó mặt trận quân sự giữ vai trò quan trọng nhất góp phần tạo đà và thúc đẩy thắng lợi ngày càng to lớn của nhân dân ta trên các chiến trường.
* Trên mặt trận quân sự, quân dân ta từng bước đánh bại các âm mưu của thực dân Pháp để tiến lên mở chiến dịch Điện Biên Phủ, đánh bại hoàn toàn thực dân Pháp, buộc chúng phải kí kết Hiệp định Giơnevơ công nhận độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta cũng như Lào và Campuchia.
1- Ngày 19/12/1946, Kháng chiến toàn quốc bùng nổ bằng cuộc chiến đấu ở các đô thị vĩ tuyến 16, mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp trong toàn quốc. Qua cuộc chiến đấu này, quân dân ta đã đánh bại âm mưu "đánh úp" của địch, đảm bảo cho cơ quan đầu não kháng chiến của Đảng và Chính phủ rút về chiến khu Việt Bắc an toàn, chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.
2- Tiếp đó là thắng lợi trong chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947. Là chiến thắng lớn đầu tiên của quân và dân ta trong việc tổ chức phản công địch trong cuộc kháng chiến chống Pháp, làm cho âm mưu muốn kết thúc chiến tranh nhanh chóng của địch bị thất bại hoàn toàn, phá tan âm mưu "đánh nhanh của thắng nhanh" của chúng; lực lượng so sánh giữa ta và địch bắt đầu thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta. Đây là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong năm đầu toàn quốc kháng chiến, đưa cuộc kháng chiến của nhân dân sang một giai đoạn mới, ta từ chỗ phòng ngự sang thế tấn công địch.
3- Đến chiến dịch Biên Giới thu - đông năm 1950, ta chủ động mở chiến dịch trên đường số 4. Đây là chiến thắng lớn đầu tiên của ta trong việc chủ động mở cuộc tiến công địch có qui mô lớn, một chiến dịch đánh tiêu diệt hay và gọn theo phương thức "vận động chiến", đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc về nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch và trình độ tác chiến tập trung của quân đội ta. Là thất bại lớn của Pháp cả về quân sự lẫn chính trị; địch bị đẩy lùi vè thế phòng ngự, bị động, càng thêm lúng túng về nhiều mặt; đánh dấu sự chuyển biến lớn trong cục diện chiến tranh đưa cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn mới; ta vươn lên giành quyền chủ động và phản công ngày càng lớn...
Kể từ sau chiến thắng Biên giới mùa thu năm 1950, ta đã phá tan thế bao vây phong toả của kẻ thù, giành thế chủ động ở chiến trường chính Bắc Bộ với một loạt chiến thắng: Trung du (12/1950), Đường số 18 (3/1951), Hà Nam Ninh (5/1951), Hoà Bình (Đông-xuân 1951 - 1952), Tây Bắc (10/1952), Thượng Lào (4/1953) đã đẩy địch vào tình trạng lúng túng hơn nữa, giải phóng được nhiều vùng đất đai rộng lớn và phát triển lực lượng vũ trang với 3 thứ quân.
4- Đến năm 1953, trải qua 8 năm kháng chiến và kiến quốc, ta đã lớn mạnh về mọi mặt và có đủ điều kiện đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Ngược lại, Pháp đang sa lầy trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Cuộc chiến tranh lâu dài, tốn kém đã làm cho thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn và ngày càng phụ thuộc vào Mĩ (đến năm 1953 bị loại khỏi vòng chiến đấu hơn 39 vạn quân và tiêu tốn hơn 2000 tỉ phrăng, vùng chiếm đóng bị thu hẹp). Trước tình hình đó, được sự thoả thuận của Mĩ, ngày 7/5/1953, Pháp đã đề ra kế hoạch Nava với hi vọng "chuyển bại thành thắng" trong vòng 18 tháng. Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, một pháo đài "bất khả xâm phạm", "sẵn sàng" nghiền nát bộ đội chủ lực ta. Điện Biên Phủ trở thành tâm điểm của kế hoạch Nava. Tuy nhiên, Nava đã bị thất bại ngay từ bước đầu trong kế hoạch của mình. Với việc phân tán lực lượng địch ở Điện Biển Phủ, Xênô, Plâyku và Luông Phabang, ta đã đánh bại bước đầu kế hoạch của Nava. Buộc Nava phải tập trung lực lượng ở Điện Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ thành điểm quyết chiến chiến lược với ta.
Tháng 12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt địch ở đây, giải phóng vùng Tây Bắc, tạo điều kiện cho Lào giải phóng Bắc Lào. Đầu tháng 3/1954, công tác chuẩn bị mọi mặt đã hoàn tất. Ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Điện Biên Phủ là một chiến dịch tiến công địch liên tục gồm 3 đợt: ...
Sau 56 ngày đêm, chúng ta đã giành được thắng lợi to lớn: Tiêu diệt và bắt sống toàn bộ lực lượng địch ở Điện Biên Phủ gồm 16200 tên, bắn rơi và phá hủy 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đập tan kế hoạch Nava, nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mĩ ở Đông Dương. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đăng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỉ XX. Giáng một đòn mạnh mẽ vào hệ thống thực dân, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc thế giới.
Thắng lợi quân sự quyết định ở Điện Biên Phủ đã đưa phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến hội nghị Giơnevơ với tư thế đại biểu cho một dân tộc chiến thắng. Hiệp định được kí kết, các nước tham dự đã phải tôn trọng các quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam.
Như vậy, qua các thắng lợi của quân dân ta từ năm 1946 đến chiến cuộc đông - xuân 1953 - 1954, ta đã đánh bại được các âm mưu của địch, giành được nhiều thắng lợi to lớn và đến chiến dịch Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc kháng chiến, ta đã đánh bại hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược. Đây là thắng lợi quân sự lớn nhất và là thắng lợi quyết định buộc thực dân Pháp phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương.