Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm
Đóng
Điểm danh hàng ngày
  • Hôm nay +3
  • Ngày 2 +3
  • Ngày 3 +3
  • Ngày 4 +3
  • Ngày 5 +3
  • Ngày 6 +3
  • Ngày 7 +5
Bạn đã điểm danh Hôm nay và nhận 3 điểm!
Nhắn tin Zalo VNDOC để nhận tư vấn mua gói Thành viên hoặc tải tài liệu Hotline hỗ trợ: 0936 120 169

Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2016 tỉnh Bắc Giang

Đóng
Bạn đã dùng hết 1 lần làm bài Trắc nghiệm miễn phí. Mời bạn mua tài khoản VnDoc PRO để tiếp tục! Tìm hiểu thêm
Mô tả thêm:

Đề thi thử đại học môn Văn năm 2016

Mời quý thầy cô và các bạn học sinh cùng tham khảo Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2016 tỉnh Bắc Giang để làm tài liệu giảng dạy và học tập. Hi vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các sĩ tử đang miệt mài đèn sách để có thể đạt kết quả tốt nhất.

Mời các bạn tham khảo thêm: Đề thi thử THPT Quốc gia lần 1 năm 2015 môn Ngữ Văn trường THPT Chuyên Đại học Vinh

  • Thời gian làm: 180 phút
  • Số câu hỏi: 3 câu
  • Số điểm tối đa: 10 điểm
Bắt đầu làm bài
Bạn còn 1 lượt làm bài tập miễn phí. Hãy mua tài khoản VnDoc PRO để học không giới hạn nhé! Bạn đã HẾT lượt làm bài tập miễn phí! Hãy mua tài khoản VnDoc PRO để làm Trắc nghiệm không giới hạn và tải tài liệu nhanh nhé! Mua ngay
Trước khi làm bài bạn hãy
  • 1 Ôn tập kiến thức đã nêu trong phần Mô tả thêm
  • 2 Tìm không gian và thiết bị phù hợp để tập trung làm bài
  • 3 Chuẩn bị sẵn dụng cụ cần dùng khi làm bài như bút, nháp, máy tính
  • 4 Căn chỉnh thời gian làm từng câu một cách hợp lý
  • Câu 1: Nhận biết
    Phần I. Đọc hiểu (3.0 điểm)

    Đọc bài thơ sau và trả lời những câu hỏi từ 1 đến 4:
    Rễ sâu ai biết là hoa
    Xoắn đau núm ruột làm ra nụ cười.
    Im trong lòng đất rối bời
    Chắt chiu từng giọt, từng lời lặng im.
    Uống từng giọt nước đời quên
    Ăn từng thớ đá dựng nên sắc hồng
    Nở rồi, trông dễ như không
    Một vùng sáng đọng, một vùng hương bay.
    Tụ, tan màu sắc một ngày
    Mặt trời hôm, mặt trời mai ngoảnh cười
    Bắt đầu từ rễ em ơi!
    (Chế Lan Viên, Rễ ... hoa)

    Câu 1. Bài thơ trên được viết theo thể thơ nào? (0.25 điểm).

    Câu 2. Để tạo nên hoa, hình tượng rễ trong bài thơ đã phải trải qua những gì? (0.5 điểm).

    Câu 3. Qua sự nhọc nhằn của rễ, bài thơ gợi nhớ tình cảm đạo lí gì? (0.25 điểm)

    Câu 4. Anh/chị hiểu như thế nào về lời khuyên nhủ "Bắt đầu từ rễ em ơi!"? (Trả lời bằng một đoạn văn từ 5 – 10 câu) (0.5 điểm).

    Đáp án là:
    Phần I. Đọc hiểu (3.0 điểm)

    Đọc bài thơ sau và trả lời những câu hỏi từ 1 đến 4:
    Rễ sâu ai biết là hoa
    Xoắn đau núm ruột làm ra nụ cười.
    Im trong lòng đất rối bời
    Chắt chiu từng giọt, từng lời lặng im.
    Uống từng giọt nước đời quên
    Ăn từng thớ đá dựng nên sắc hồng
    Nở rồi, trông dễ như không
    Một vùng sáng đọng, một vùng hương bay.
    Tụ, tan màu sắc một ngày
    Mặt trời hôm, mặt trời mai ngoảnh cười
    Bắt đầu từ rễ em ơi!
    (Chế Lan Viên, Rễ ... hoa)

    Câu 1. Bài thơ trên được viết theo thể thơ nào? (0.25 điểm).

    Câu 2. Để tạo nên hoa, hình tượng rễ trong bài thơ đã phải trải qua những gì? (0.5 điểm).

    Câu 3. Qua sự nhọc nhằn của rễ, bài thơ gợi nhớ tình cảm đạo lí gì? (0.25 điểm)

    Câu 4. Anh/chị hiểu như thế nào về lời khuyên nhủ "Bắt đầu từ rễ em ơi!"? (Trả lời bằng một đoạn văn từ 5 – 10 câu) (0.5 điểm).

  • Câu 2: Nhận biết
    Đọc đoạn trích sau và trả lời những câu hỏi từ 5 đến 8:

    Trong xã hội ta, từ ngàn năm nay, tồn tại một tình trạng nước đôi dang dở. Chữ Hán vẫn là công cụ giao tiếp giữa nhà nước và người dân (. .. ) Còn chữ Nôm chỉ để ghi cái đời sống tình cảm hàng ngày, hoặc kêu than, hoặc đùa bỡn... Nó khó học do đó

    không phổ biến. Tình trạng chữ viết Việt Nam như trên níu kéo văn hóa đọc với hai nghĩa:

    Thứ nhất, ở dạng trực tiếp, nó làm cho sách khó viết, viết xong khó xuất bản, xuất bản xong khó đến với người đọc;

    Thứ hai, ở dạng gián tiếp, nó ảnh hưởng tới tư duy con người. Với một thứ chữ thuận tiện, người ta có thể ghi chép, hoàn thiện dần những suy nghĩ của mình và giao lưu với nhau làm cho tri thức ngày càng phong phú. Ngược lại, như ở ta, do thiếu phương tiện (chữ và sách) hợp lý để ghi lại những vận động trong đầu óc, sự suy nghĩ của người ta dễ dừng lại ở tình trạng manh mún rời rạc. Gần đây nhiều người đã công nhận là dân ta làm việc gì thường theo lối chụp giật, mà thiếu thói quen nghiên cứu sự vật; sự nghĩ ngợi hay chắp vá nửa vời, đầu óc người ta không chăm chú theo đuổi cái gì tới cùng (...)

    Tất cả những bệnh trạng đó trong tư duy bắt nguồn một phần từ một văn hóa đọc lom đom, một đời sống tinh thần thiếu sách. Đến lượt mình, kiểu tư duy này lại quay trở lại, cản trở người Việt đọc sách.

    ....

    Ca dao tục ngữ truyện cười ở ta thường có thái độ chế giễu với người đọc sách. Dưới những con mắt thế tục, việc đọc sách có vẻ như là một cái gì vô bổ của loại người "dài lưng tốn vải ăn no lại nằm" (...). Cố nhiên trong thực tế, lại có một tình trạng tế nhị khác, là các làng xã thường đánh giá nhau bằng số lượng kẻ cắm đầu vào sách. Có gì mâu thuẫn ở đây chăng? Không. Học trò xưa ham học để có ngày lều chõng đi thi và trở thành quan chức (từ đây khái quát lên, người ta vẫn tự hào người Việt ham học). Nhưng không thể bảo họ, - đám người "nghiền" sách cốt đi thi kia - là những người đọc sách với đúng nghĩa của nó. Người học để đi thi tự giới hạn trong kiến thức của người chấm cho họ đỗ. Ngược lại đặc trưng chủ yếu của người đọc sách là một tư duy độc lập và một khao khát bất tận với sự hiểu biết. Loại sau ở xã hội ta quá hiếm, lại còm cõi ít ỏi và chưa thành một lớp người ổn định. Giải thích sao về hiện tượng này? Suy cho cùng ở xã hội nghèo, mọi việc vẫn do miếng cơm manh áo quyết định. Khi có thể dùng sách để lập thân thì người ta đọc sách. Khi có nhiều con đường khác lập thân mà ít tốn sức lực hơn – kể cả lối giả vờ đọc sách, gian lận thi cử - thì người ta bỏ sách khá dễ dàng. Và đó chính là tình trạng của xã hội hôm nay.

    (Vương Trí Nhàn, Vì sao người Việt không mê đọc sách?, chungta.com)


    Câu 5. Đoạn trích trên bàn về vấn đề gì? (0.25 điểm).

    Câu 6. Tình trạng "nước đôi" của chữ viết nước ta thời trung đại dẫn đến những hệ quả nào? (0.5 điểm).

    Câu 7. Theo tác giả, đặc trưng chủ yếu của người đọc sách là gì? Thực trạng của lớp người này trong xã hội ta ra sao? (0.5 điểm).

    Câu 8. Theo anh/chị, làm thế nào để việc đọc sách trở thành một thói quen phổ biến? (trình bày bằng một đoạn văn khoảng 5 – 10 câu) (0.25 điểm).

    Đáp án là:
    Đọc đoạn trích sau và trả lời những câu hỏi từ 5 đến 8:

    Trong xã hội ta, từ ngàn năm nay, tồn tại một tình trạng nước đôi dang dở. Chữ Hán vẫn là công cụ giao tiếp giữa nhà nước và người dân (. .. ) Còn chữ Nôm chỉ để ghi cái đời sống tình cảm hàng ngày, hoặc kêu than, hoặc đùa bỡn... Nó khó học do đó

    không phổ biến. Tình trạng chữ viết Việt Nam như trên níu kéo văn hóa đọc với hai nghĩa:

    Thứ nhất, ở dạng trực tiếp, nó làm cho sách khó viết, viết xong khó xuất bản, xuất bản xong khó đến với người đọc;

    Thứ hai, ở dạng gián tiếp, nó ảnh hưởng tới tư duy con người. Với một thứ chữ thuận tiện, người ta có thể ghi chép, hoàn thiện dần những suy nghĩ của mình và giao lưu với nhau làm cho tri thức ngày càng phong phú. Ngược lại, như ở ta, do thiếu phương tiện (chữ và sách) hợp lý để ghi lại những vận động trong đầu óc, sự suy nghĩ của người ta dễ dừng lại ở tình trạng manh mún rời rạc. Gần đây nhiều người đã công nhận là dân ta làm việc gì thường theo lối chụp giật, mà thiếu thói quen nghiên cứu sự vật; sự nghĩ ngợi hay chắp vá nửa vời, đầu óc người ta không chăm chú theo đuổi cái gì tới cùng (...)

    Tất cả những bệnh trạng đó trong tư duy bắt nguồn một phần từ một văn hóa đọc lom đom, một đời sống tinh thần thiếu sách. Đến lượt mình, kiểu tư duy này lại quay trở lại, cản trở người Việt đọc sách.

    ....

    Ca dao tục ngữ truyện cười ở ta thường có thái độ chế giễu với người đọc sách. Dưới những con mắt thế tục, việc đọc sách có vẻ như là một cái gì vô bổ của loại người "dài lưng tốn vải ăn no lại nằm" (...). Cố nhiên trong thực tế, lại có một tình trạng tế nhị khác, là các làng xã thường đánh giá nhau bằng số lượng kẻ cắm đầu vào sách. Có gì mâu thuẫn ở đây chăng? Không. Học trò xưa ham học để có ngày lều chõng đi thi và trở thành quan chức (từ đây khái quát lên, người ta vẫn tự hào người Việt ham học). Nhưng không thể bảo họ, - đám người "nghiền" sách cốt đi thi kia - là những người đọc sách với đúng nghĩa của nó. Người học để đi thi tự giới hạn trong kiến thức của người chấm cho họ đỗ. Ngược lại đặc trưng chủ yếu của người đọc sách là một tư duy độc lập và một khao khát bất tận với sự hiểu biết. Loại sau ở xã hội ta quá hiếm, lại còm cõi ít ỏi và chưa thành một lớp người ổn định. Giải thích sao về hiện tượng này? Suy cho cùng ở xã hội nghèo, mọi việc vẫn do miếng cơm manh áo quyết định. Khi có thể dùng sách để lập thân thì người ta đọc sách. Khi có nhiều con đường khác lập thân mà ít tốn sức lực hơn – kể cả lối giả vờ đọc sách, gian lận thi cử - thì người ta bỏ sách khá dễ dàng. Và đó chính là tình trạng của xã hội hôm nay.

    (Vương Trí Nhàn, Vì sao người Việt không mê đọc sách?, chungta.com)


    Câu 5. Đoạn trích trên bàn về vấn đề gì? (0.25 điểm).

    Câu 6. Tình trạng "nước đôi" của chữ viết nước ta thời trung đại dẫn đến những hệ quả nào? (0.5 điểm).

    Câu 7. Theo tác giả, đặc trưng chủ yếu của người đọc sách là gì? Thực trạng của lớp người này trong xã hội ta ra sao? (0.5 điểm).

    Câu 8. Theo anh/chị, làm thế nào để việc đọc sách trở thành một thói quen phổ biến? (trình bày bằng một đoạn văn khoảng 5 – 10 câu) (0.25 điểm).

  • Câu 3: Nhận biết
    Phần II. Làm văn (7.0 điểm)

    Câu 1 (3.0 điểm) Lấy bờ vai và đôi chân làm hình ảnh biểu tượng, anh/chị hãy viết một bài luận với nhan đề: 
    BỜ VAI VÀ ĐÔI CHÂN

    Câu 2 (4.0 điểm)

    Cho đoạn trích sau:

    Cuộc đời tuy dài thế
    Năm tháng vẫn đi qua
    Như biển kia dẫu rộng
    Mây vẫn bay về xa

    Làm sao được tan ra
    Thành trăm con sóng nhỏ
    Giữa biển lớn tình yêu
    Để ngàn năm còn vỗ.

    (Xuân Quỳnh, Sóng, SGK Ngữ văn, Tập 1, NXBGD 2009)

    Cảm nhận của anh/chị về những dự cảm và khát vọng tình yêu trong đoạn thơ trên.

    Đáp án là:
    Phần II. Làm văn (7.0 điểm)

    Câu 1 (3.0 điểm) Lấy bờ vai và đôi chân làm hình ảnh biểu tượng, anh/chị hãy viết một bài luận với nhan đề: 
    BỜ VAI VÀ ĐÔI CHÂN

    Câu 2 (4.0 điểm)

    Cho đoạn trích sau:

    Cuộc đời tuy dài thế
    Năm tháng vẫn đi qua
    Như biển kia dẫu rộng
    Mây vẫn bay về xa

    Làm sao được tan ra
    Thành trăm con sóng nhỏ
    Giữa biển lớn tình yêu
    Để ngàn năm còn vỗ.

    (Xuân Quỳnh, Sóng, SGK Ngữ văn, Tập 1, NXBGD 2009)

    Cảm nhận của anh/chị về những dự cảm và khát vọng tình yêu trong đoạn thơ trên.

Chúc mừng Bạn đã hoàn thành bài!

Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2016 tỉnh Bắc Giang Kết quả
  • Thời gian làm bài: 00:00:00
  • Số câu đã làm: 0
  • Điểm tạm tính: 0
  • Điểm thưởng: 0
1
Xác thực tài khoản!

Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

Số điện thoại chưa đúng định dạng!
Số điện thoại này đã được xác thực!
Bạn có thể dùng Sđt này đăng nhập tại đây!
Lỗi gửi SMS, liên hệ Admin
Sắp xếp theo