Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Vẻ đẹp của người lao động qua hai tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa và Đoàn thuyền đánh cá

Văn mẫu: Vẻ đẹp của người lao động qua hai tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa và Đoàn thuyền đánh cá gồm dàn ý và các bài văn mẫu lớp 9 hay dành cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 9 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.

Dàn ý Phân tích vẻ đẹp của người lao động qua hai tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa và Đoàn thuyền đánh cá mẫu 1

1. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

2. Thân bài:

a. Điểm giống:

- Đều là những con người lao động vô danh thầm lặng trong công cuộc xây dựng đất nước.
- Ở họ toát lên niềm vui hăng say lao động trong thời kì mới
- Là những tấm gương điển hình trong lao động.

b. Điểm khác:

* Anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa:
- Công việc: công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu

- Hoàn cảnh làm việc:
+ Vô cùng khắc nghiệt, làm trên đỉnh núi Yên Sơn "cao hai nghìn sáu trăm mét
+ Thời tiết khắc nghiệt, phải dậy lúc một giờ sáng trong gió rét.
+ Sống một mình, lúc nào cũng "thèm người"

- Vẻ đẹp con người lao động của anh:
+ Luôn hoàn thành công việc, vượt lên trên hoàn cảnh vất vả, cô đơn
+ Luôn khiêm tốn với công việc của mình dù nó đã góp phần làm nên chiến công, không cho bác họa sĩ vẽ lại mình.
+ Tự tạo cho mình niềm vui ở nơi làm việc (trồng hoa, đọc sách, ...)
+ Luôn quan tâm tới người khác, chân thành và cởi mở (tặng hoa cho cô kĩ sư, tặng tam thất cho bác lái xe, ...)

- Bác hoạ sĩ và cô kĩ sư: là những con người từ Hà Nội hào hoa tới công tác tại những vùng xa xôi, không quản khó nhọc.
- Ở họ đều ánh lên vẻ đẹp con người lao động thời kì mới.

* Những người ngư dân trong Đoàn thuyền đánh cá:

- Công việc: Đánh bắt cá ngoài biển trong đêm

- Hoàn cảnh làm việc:
+ Vất vả và nguy hiểm: ra khơi khi màn đêm buông xuống

- Vẻ đẹp con người lao động:
+ Luôn hăng say với công việc của mình, chủ động sáng tạo trong việc đánh bắt cá.
+ Luôn mang trong mình tinh thần lạc quan, khí thế mạnh mẽ và ước mong đánh bắt được nhiều cá lớn, được một mẻ lưới bội thu.
+ Biết ơn biển cả, mẹ thiên nhiên đã mang lại cho con người nhiều lợi ích.
+ Với khí thế mạnh mẽ của những người con miền biển, tư thế, tầm vóc của họ sánh ngang tầm với vũ trụ.
- Ở họ là một tinh thần lạc quan, luôn hướng về tương lai trong niềm vui lao động mới được làm chủ cuộc đời.

3. Kết bài:

Rút ra kết luận chung

Dàn ý Phân tích vẻ đẹp của người lao động qua hai tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa và Đoàn thuyền đánh cá mẫu 2

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Thành Long và Huy Cận.

Giới thiệu tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa và Đoàn thuyền đánh cá.

2. Thân bài

a. Lặng lẽ Sa Pa

• Nhân vật anh thanh niên

Là người làm công tác khí tượng thủy văn, đó gió, đo mây.

Anh tự sắp xếp cuộc sống, dù một mình ở trên đỉnh núi cao anh vẫn có bầy gà đẻ trứng, có trà ngon, có vườn hoa.

Anh chàng này “thèm người”, sống một mình trên núi nên anh luôn muốn gặp con người dù chỉ một chút, anh muốn nhìn thấy họ, muốn nghe giọng nói của họ. Có khi anh còn để cây ngang đường để có thể gặp người nói chuyện vài câu.

Anh luôn sống trong tinh thần lạc quan, một trái tim ấm áp, yêu đời. Anh đã vui sướng biết bao khi kể về câu chuyện khi kịp phát hiện ra các đám mây khô mà từ đó quân ta đã hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng.

Anh rất khiêm tốn, khi biết họa sĩ muốn vẽ mình, anh đã từ chối, anh kể ra rất nhiều người khác phải hi sinh như thế nào, chứ mình không là gì cả.

Anh tâm sự với mọi người “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Qua chi tiết này, anh thanh niên hiện lên là một người không ngại khó khăn, thử thách vẫn dấn thân vào con đường biết rằng không mấy bình lặng.

• Nhân vật bác họa sĩ và cô gái

Là những con người lao động bình thường, đứng trước cuộc sống của anh thanh niên thì đem lòng cảm phục.

Đại diện cho những người xây dựng đất nước tươi sáng, sống có lí tưởng, biết trân trọng những người anh hùng thầm lặng.

Xúc động trước cuộc sống và cống hiến của anh thanh niên. Chính từ sự xúc động đó, cô gái đã đem lòng cảm mến anh thanh niên.

b. Đoàn thuyền đánh cá

- Khổ thơ 1: Giữa lúc thiên nhiên và vạn vật nghỉ ngơi, đi vào giấc ngủ thì con người lại bắt đầu công cuộc lao động của mình. Con người lao động không mệt mỏi, luôn vững tinh thần, công việc dù có lặp lại nhưng không hề nhàm chán, vẫn mang đến những cảm giác phấn chấn, náo nức, say mê ở người ngư dân.

- Khổ 2: Những câu hát vui tươi cất lên đã sưởi ấm cái màn đêm tăm tối, khơi gợi niềm phấn khởi trong con người, xua đi những khó khăn mệt mỏi, mang lại một không khí lao động vô cùng hào hùng và lãng mạn. Người dân cất cao tiếng hát của bài ca lao động, gọi đàn cá đến giăng lưới. Việc người dân căng buồm ra khơi là công việc ngày đêm không ngừng nghỉ thể hiện sự chăm chỉ, cần cù, chịu thương chịu khó của họ.

- Khổ 3 và 4: Hình ảnh con thuyền đánh cá giữa đêm trăng, vừa mang vẻ đẹp lãng mạn, thi vị lại cũng vừa hào hùng và mạnh mẽ, đồng thời miêu tả dáng vẻ phì nhiêu, giàu có nơi biển cả.

- Khổ 5 + 6: Huy Cận miêu tả sự giàu có của thiên nhiên, biển cả với nhiều loại cá khác nhau, quẫy đuôi uốn lượn. Trước sự giàu có đó, người ngư dân cất cao bài ca gọi cá vào chài lưới. Không chỉ săn bắt hải sản, con người còn thể hiện tình yêu, sự biết ơn với biển cả thiên nhiên qua việc so sánh biển cả với lòng mẹ, nuôi dưỡng bao thế hệ con người nơi đây và giúp họ có cuộc sống tốt đẹp hơn.

- Khổ 7: "Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng", câu thơ vừa thể hiện chuyến ra khơi bội thu của những người nông dân, cũng thể hiện sức mạnh của họ trong công việc kéo lưới giữa biển khơi đầy vất vả. Sau khi kéo cá về, người nông dân thu xếp chài lưới cẩn thận và đón một ngày mới vui vẻ.

- Khổ 8: Vẻ đẹp lớn lao kì vĩ của người lao động sánh ngang với thiên nhiên, con người đã dần đứng lên trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, họ có lòng tự tin, tinh thần hăng say lao động không ngừng nghỉ.

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm.

Vẻ đẹp của người lao động qua hai tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa và Đoàn thuyền đánh cá ngắn gọn

Nguyễn Thành Long và Huy Cận, hai tên tuổi lớn của văn học Việt Nam, đã để lại những tác phẩm vĩ đại về những con người lao động trong thời kỳ đầy biến động và thách thức. Trong Lặng lẽ Sa Pa và Đoàn thuyền đánh cá, họ đã khắc họa một hình ảnh đa dạng về người lao động, từ ngư dân đánh cá trên biển đại dương đến anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 mét.

Những người lao động này không chỉ đối mặt với công việc đầy gian khó và nguy hiểm, mà còn mang trong mình tinh thần đoàn kết, sáng tạo, và trách nhiệm đối với đất nước. Họ là những người mà tác giả ca ngợi vì phẩm chất tốt đẹp của họ, sự hăng say và cam kết với công việc, cũng như tinh thần cống hiến cho Tổ quốc.

Những dòng thơ của Huy Cận và câu chữ của Nguyễn Thành Long đều thể hiện niềm tự hào và niềm tin của người lao động trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội tại miền Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Họ là nguồn động viên và động lực cho thế hệ trẻ, nhấn mạnh rằng việc lao động có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển đất nước và bảo vệ tổ quốc.

Cả hai tác giả đã thành công trong việc khắc họa những hình ảnh sống động và đầy sức mạnh của người lao động, từ ngư dân đầy nhiệt huyết đến anh thanh niên đầy trách nhiệm. Chính họ đã giúp lan tỏa thông điệp về tình yêu đất nước, tinh thần đoàn kết và lòng tự hào về công việc lao động, và đóng góp quan trọng vào sự phát triển và thăng tiến của Việt Nam.

Vẻ đẹp của người lao động qua hai tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa và Đoàn thuyền đánh cá mẫu 2

Trong những năm tháng của thời kì đổi mới, khi mà con người đang cùng nhau gắng sức trong công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng xã hội chủ nghĩa, đã có biết bao bài văn, bài thơ ra đời nhằm cổ vũ tinh thần con người. Trong đó hai tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long và Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận đã tạo cho chúng ta những ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp của con người lao động thời kì mới. Hai tác phẩm đều là những con người lao động tuy làm những công việc khác nhau nhưng đều toát lên sự hăng say, phấn khởi khi được làm chủ cuộc đời.

Anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa hay những người ngư dân trong Đoàn thuyền đánh cá đều là những con người lao động thầm lặng trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa của miền Bắc. Mỗi người một công việc khác nhau, thế nhưng ở họ toát lên là niềm hăng say lao động, niềm vui phơi phới trong thời kì đổi mới, khi chính họ được góp sức xây dựng lên xã hội mới tươi đẹp. Công việc của họ là những vất vả, là những gian lao, anh thanh niên thì một mình trên đỉnh núi cao đo gió, đo mưa, những người ngư dân thì phải lăn lộn giữa biển cả mênh mông với công việc đánh bắt, thế nhưng, họ không hề mệt mỏi, không hề cảm thấy nặng nhọc. Với anh thanh niên trong Lặng lẽ Sapa, được cống hiến, được góp sức vào chiến thắng giặc Mỹ khiến anh cảm thấy "hạnh phúc". Những người ngủ dân thì luôn sống trong niềm vui phơi phới:

"Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!"

Có lẽ với họ, trên tất cả là sự hăng say lao động, hết mình cho công việc của mình dù công việc ấy có khó khăn, gian khổ biết bao.

Thêm vào đó, cả hai tác giả đều không để nhân vật của mình mang tên bởi họ là những con người lao động vô danh, những người con ưu tú của quê hương đang cống hiến hết mình cho Tổ quốc thân yêu. Họ là những tấm gương điển hình trong lao động thời kì đổi mới với lý tưởng và khát khao được đóng góp sức mình để tạo dựng Tổ quốc. Điều đó đã làm nên vẻ đẹp chung của những con người lao động trong hai tác phẩm kể trên.

Tuy vậy, hai tác phẩm được sáng tác trong hai thời gian khác nhau, tuy đều là về vẻ đẹp hăng say của con người lao động nhưng cũng có những điểm khác biệt.

Lặng lẽ Sa Pa được nhà văn Nguyễn Thành Long viết vào những năm 1970, sau một chuyến công tác ở Lào Cai. Đó là thời điểm mà miền Nam đang trong giai đoạn ác liệt nhất còn ở miền Bắc, công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa đang nở rộ vô cùng. Ở Lặng lẽ Sa Pa, người ta thấy vẻ đẹp lao động hiện lên rõ ràng qua hình ảnh của anh thanh niên - người làm "công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu" ở trên "đỉnh Yên Sơn, cao hai nghìn sáu trăm mét". Đọc đến đây thôi người ta cũng đủ hiểu hoàn cảnh sống và làm việc của người thanh niên đó khắc nghiệt đến nhường nào! Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh phải chống chọi với sự cô đơn, chống chọi với nỗi nhớ nhà và cả những khó khăn trong công việc. Anh tâm sự cùng bác hoạ sĩ và cô kĩ sư, có những đêm mưa rét, anh vẫn phải thực hiện công việc của mình "Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị chặt ra từng khúc,...Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ lại được". Và hơn thế là nỗi cô đơn, khát khao được trò chuyện cùng con người "thèm người", và điều đó đã khiến anh liều lĩnh để một khúc gỗ giữa đường đi để chặn xe, mời mọi người lên thăm nhà anh và anh được trò chuyện với họ.

Hoàn cảnh sống khó khăn đến vậy, thế nhưng ở anh vẫn ánh lên những vẻ đẹp lao động của con người thời kì mới. Đó là vẻ đẹp về một con người vượt lên trên hoàn cảnh để luôn giữ cho mình những suy nghĩ đẹp.

Nếu đặt mình vào hoàn cảnh phải sống giữa núi rừng, trên một đỉnh núi cao hơn hai ngàn mét trong cô độc thì suy nghĩ của bạn sẽ như thế nào? Chắc hẳn sẽ cô đơn và trách cứ cuộc đời nhiều lắm! Chưa kể công việc đo khí tượng cũng vô cùng vất vả, đó là điều khiến cho ta không khỏi chán ngán. Thế nhưng người thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa lại chưa từng có suy nghĩ ấy. Anh luôn cho rằng: "khi ta việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia". Một mình ở Yên Sơn nhưng anh cho rằng mình không hề cô đơn, bởi có những con người còn vất vả, cô đơn hơn mình như anh thanh niên làm khí tượng trên đỉnh Fansipan, hay "ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa". Anh luôn khiêm nhường dù rằng công việc của anh đã góp phần cho kháng chiến "nhờ cháu có góp phần phát hiện một đám mây khô mà ngày ấy, tháng ấy, không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng". Anh không bao giờ nghĩ rằng công việc của mình là vất vả, gian khổ, anh luôn nghĩ rằng có những con người lao động khác đẹp đẽ hơn anh, gian lao hơn anh trong công cuộc lao động này. Đó là vẻ đẹp của một người trí thức lao động luôn biết khiêm nhường trong cuộc sống, biết vượt lên hoàn cảnh mà giữ cho mình những suy nghĩ đẹp.

Không chỉ vậy, anh thanh niên còn yêu công việc vô cùng, am hiểu nó và anh hạnh phúc khi được làm công việc đó. Vẻ đẹp của con người lao động ánh ngời lên trong những dòng tâm sự của anh về công việc của mình. Anh kể: "Cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu". Công việc của anh góp phần vào sự nghiệp xây dựng Tổ quốc, có lẽ vì thế, anh yêu công việc của mình vô cùng. Mỗi lần có người lên chơi, anh đều tỉ mỉ chỉ cho họ những máy móc của anh, kể cho họ công tác của mình. Sống và làm việc tại nơi khắc nghiệt, nhưng anh chưa bao giờ từ bỏ nhiệm vụ dù đó là những khoảng thời gian hết sức khó khăn "bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối, lại một giờ sáng" khi mà "gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực mình ra là ào ào xô tới" và "ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ sáng". Nếu không yêu nghề, không hăng say với nghề thì chỉ cần nghe như thế thôi cũng đủ lý do để cho ta bỏ cái công việc nhàm chán này rồi.

Sống một mình nhưng anh luôn tự tạo cho mình niềm vui, luôn sống cởi mở và chân thành. Một mình, lại là đàn ông con trai nhưng anh có cả một vườn hoa với những "hoa dơn, hoa thược dược, vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong...". Không chỉ vậy, anh còn luôn chăm chỉ đọc sách, tự tạo cho tâm hồn mình một sự phong phú qua những cuộc đời trong trang sách. Cuộc sống của anh chỉ vỏn vẹn trong "một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách" thế nhưng tâm hồn anh, vẻ đẹp của anh lại bao trùm lấy tất thảy mọi thứ ở đây. Anh sống và làm việc bằng tất cả tâm hồn mình, luôn khiêm tốn và hết lòng vì mọi người. Khi người hoạ sĩ và cô kĩ sư lên chơi, anh đã dẫn họ thăm thú mọi chốn anh ở, kể với họ tất cả về cuộc sống của mình. Với người lái xe, anh tặng cho bác "củ tam thất mới đào" bằng tấm lòng thành chân thật. Anh đối xử với mọi người bằng sự chân tình, cởi mở, yêu thương và nghiêm túc.

Tất cả những điều đó đã làm nên vẻ đẹp của người thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa, người thanh niên yêu lao động, luôn nghiêm túc và khiêm tốn về công việc của mình. Ta còn thấy vẻ đẹp con người lao động qua hình ảnh của người nghệ sĩ già và cô kĩ sư trẻ. Họ là những người con Hà Nội nhưng quyết rời xa chốn phồn hoa để đi đến những miền xa xôi của Tổ quốc để cống hiến sức lực của mình cho công cuộc đổi mới của đất nước.

Bước sang tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, người ta lại thấy một vẻ đẹp lao động khác của những người ngư dân biển. Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận sáng tác năm 1958, khi chúng ta vừa chiến thắng thực dân Pháp và miền Bắc vừa mới bước vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bài thơ viết về những người ngư dân tại biển Hòn Gai, Quảng Ninh với niềm phấn khởi, hân hoan trên chặng đường ra khơi đánh cá. Ở họ, người ta thấy toát lên vẻ đẹp phóng khoáng của những người lao động miền biển.

Vẻ đẹp lao động đầu tiên mà ta thấy ở họ là họ là những người lao động với tâm hồn phóng khoáng, yêu lao động:

"Mặt trời xuống biển như hòn lửa,
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!"

Khung cảnh thiên nhiên được mở rộng với những hình ảnh hoàng hôn lộng lẫy vô cùng. Trên nền khung cảnh ấy là hình ảnh của con người hiện ra với vẻ phóng khoáng, tươi vui, với tinh thần lạc quan, yêu đời:

"Mặt trời xuống biển như hòn lửa,
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi."

Khi mặt trời bắt đầu nghỉ ngơi thì những người ngư dân mới bắt đầu công việc vất vả và nguy hiểm của mình. Từ "lại" cho thấy rằng đây là công việc mà họ làm thường xuyên, lặp lại liên tục trong thời gian dài. Họ ra khơi trong niềm hứng khởi, ra khơi trong niềm vui tràn đầy. Họ cất lên những câu hát hoà vào cùng với gió biển. Những câu hát ấy đã "thổi căng" tấm buồm của con thuyền để băng băng tiến ra khơi. Huy Cận đã cụ thể hoá niềm vui hân hoan của những người lao động khi được ra khơi đánh bắt cá, đại diện cho khí thế phơi phới của những con người trong công cuộc xây dựng đất nước mới.

Những người dân biển cất tiếng gọi cá, gợi lên hình ảnh làm việc hăng say của họ. Những mẻ cá đầy lưới là ước mơ của những người lao động với tâm hồn phóng khoáng. Họ muốn đem hết sức lực của mình để cống hiến cho Tổ quốc.

"Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng."

Biển cả mênh mông nhưng những người ngư dân ra khơi trong sự tự tin làm chủ biển cả. Họ lao động trọng sự sáng tạo, trong tinh thần chủ động. Họ tính toán, bố trí, giăng lưới như đang trong một trận đánh thực thụ. Sự lạc quan, hăng hái, nhiệt thành ấy, tất cả thể hiện trong câu hát:

"Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long."

Câu hát của những người ngư dân với bao loài cá biển quý hiếm thể hiện sự lạc quan, khí thế mạnh mẽ, khẩn trương và cả niềm mong mỏi của họ về một mẻ cá bội thu. Câu hát vang lên với sự chờ mong về một mùa sóng yên bể lặng, với những mẻ lưới "nặng tay". Qua đó, ta có thể thấy được vẻ đẹp hăng say lao động của những người ngư dân trong công cuộc xây dựng Tổ quốc.

Mỗi lần ra khơi là một lần nguy hiểm rình rập, thế nhưng, những người ngư dân ấy không hề sợ hãi, thậm chí họ còn phấn khích bởi họ tìm thấy được lý tưởng của mình trong công cuộc lao động gian khổ. Gian lao, vất vả nhưng đổi lại là những mẻ cá đầy, góp công xây dựng đất nước tươi đẹp đã khiến họ có thêm động lực hướng về một ngày mai tươi sáng:

"Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi."

Lời thơ thể hiện tiếng hát khỏe khoắn của những người ngư dân. Họ "chạy đua cùng mặt trời" để mang cá về trước khi trời sáng. Điều đó đã làm gợi lên tư thế hiên ngang, sánh ngang tầm vũ trụ của những người con miền biển. Họ đi lên trong khí thế mạnh mẽ trong công cuộc lao động xây dựng đất nước sau khi giải phóng.

Cả Nguyễn Thành Long và Huy Cận đều xây dựng hết sức thành công hình ảnh những con người lao động với vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, hăng say xây dựng đất nước thời kì đổi mới. Họ là những con người đã góp công sức cùng với các chiến sĩ ngoài tiền tuyến đánh bại giặc Mỹ, mang thắng lợi về cho Tổ quốc Việt Nam. Noi gương những con người đó, thế hệ chúng ta phải gắng sức học hành để phát triển đất nước Việt Nam vươn xa cùng các cường quốc trên thế giới.

Vẻ đẹp của người lao động qua hai tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa và Đoàn thuyền đánh cá mẫu 3

Nguyễn Thành Long là nhà văn quen thuộc với bạn đọc yêu thích truyện ngắn Việt Nam hiện đại. Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được viết sau chuyến nhà văn đi thực tế ở Sa Pa. Qua nhân vật anh thanh niên và một số nhân vật khác, tác giả ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của những con người lao động mới đang ngày đêm âm thầm cống hiến cho đất nước.

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thi ca hiện đại Việt Nam. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được viết nhân chuyến đi thực tế của nhà thơ ở vùng biển Quảng Ninh. Bài thơ ca ngợi tinh thần lao động phấn khởi, hăng say của những người dân chài trên vùng biển quê hương.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một không khí phấn khởi, hăng say lao động kiến thiết đất nước, làm hậu phương vững chắc cho chiến trường miền Nam dấy lên ở khắp nơi. Các tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận và Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn

Thành Long đều là kết quả của những chuyến thực tế mà tác giả sống trực tiếp, phản ánh không khí lao động và nhất là thể hiện hình ảnh của những con người lao động thời kì này.

Hình tượng người lao động mới là chi những con người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Trong Đoàn thuyền đánh cá là hình ảnh những người ngư dân trong cảnh lao động tập thể. Trong Lặng lẽ Sa Pa là hình ảnh của những người trí thức khoa học, tiêu biểu là anh thanh niên.

Công việc, điều kiện làm việc của họ đầy gian khó, thử thách. Người ngư dân trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi thiên nhiên, vũ trụ vào trạng thái nghỉ ngơi. Đánh cá trên biển là một công việc rất vất vả và nguy hiểm. Nhưng những người ngư dân đã hòa nhập với thiên nhiên bao la và trở thành hình ảnh sáng đẹp:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn. Phía ấy mặt trời như một hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông. Màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Chính vào thời điểm ấy ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình là ra khơi đánh cá. Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của con người lao động được giải phóng: Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Đây là cách nói độc đáo, sáng tạo của Huy Cận, khiến chúng ta tưởng như tiếng hát hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Cánh buồm no gió tượng trưng cho khí thế phơi phới đi lên của công cuộc dựng xây đất nước.

Trong Lặng lẽ Sa Pa, anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 mét. Anh sống một mình, xung quanh anh chỉ có cây cỏ, mây mù lạnh lẽo và một số máy móc khoa học. Cái gian khổ nhất với anh là sự cô độc. Công việc của anh là đo gió, đo mưa, dự báo thời tiết. Công việc ấy đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác. Mỗi ngày anh đo và báo số liệu về trạm bốn lần. Nửa đêm, đúng giờ ốp dù mưa tuyết, gió rét thế nào thì anh vẫn phải trở dậy làm việc. Xách đèn ra vườn, gió tuyết vù lặng im ờ bên ngoài như chi chực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nỏ như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì như những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung…

Trong điều kiện khắc nghiệt như vậy nhưng những người lao động ấy vẫn nhiệt tình, hăng say, mang hết sức lực của mình để cống hiến cho Tổ quốc. Những người ngư dân là những con người lao động tập thể. Họ hăm hở:

Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Giữa biển trời mênh mông, trời và biển như hòa vào một. Còn đối với người dân chài, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hăng hái, lạc quan như thế thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn. Họ làm việc nhiệt tình, hăng say trong câu hát:

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Câu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan và khí thế khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Đi đánh cá từ ngàn đời nay may rủi là chuyện thường tình. Vì vậy, trong câu hát ta đọc được những ước mong của họ. Đó là ước mong về trời yên biển lặng, gặp được luồng cá để đánh bắt được nhiều. Giọng điệu lời thơ như ngân lên ngọt ngào, ngân dài và xa mãi. Các hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét sáng tạo độc đáo đem đến cho người đọc một cảm nhận thứ vị về con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Anh thanh niên có những suy nghĩ đúng đắn, sâu sắc về công việc. Anh hiểu việc mình làm có ý nghĩa quan trọng. Cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đẩu. Công việc tuy lặp lại đơn điệu song anh vẫn rất nhiệt tình, say mê, gắn bó với nó. Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kỹ mới thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này cháu không nghĩ như vậy nữa. Và, khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được.

Đó còn là những con người sống có lí tưởng và tràn đầy lạc quan. Họ thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc trong công việc lao động đầy gian khổ. Đánh cá trong đêm đầy vất vả, nguy hiểm, người ngư dân đã thu về thành quả thật tốt đẹp. Họ ra đi, làm việc và trở về đều trong câu hát. Hình ảnh thơ cuối bài rạng rỡ niềm vui, tin tưởng, hy vọng của người lao động. Họ vui say lao động vì một ngày mai tươi sáng:

Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Vẫn là tiếng hát khỏe khoắn của người ngư dân dạn dày sóng nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra khơi đêm trước, nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời rất hiện thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng, đồng thời cũng thế hiện khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước sau giải phóng.

Lí tưởng sống của anh thanh niên là vì nhân dân, vì đất nước. Chính từ suy nghĩ: Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc? mà anh đã vượt lên nỗi thèm người để gắn bó với đỉnh Yên Sơn trong công việc thầm lặng. Trong cái lặng im của Sapa ấy, không phải chỉ có anh thanh niên mà còn có cả thế giới những người làm việc và lo nghĩ cho đất nước qua lời anh kê như: ông kĩ sư vườn rau, đồng chí cán bộ nghiên cứu lập bản đồ sét… Họ thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc trong lao động cống hiến.

Nhân vật anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa và hình ảnh ngư dân lao động trong Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là hiện thân của vẻ đẹp người lao động một thời. Đó là những người ưu tú của quê hương trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Người lao động vô danh trong hai tác phẩm đủ mọi thành phần, lứa tuổi, nghề nghiệp, dù ở núi cao hay biển xa đều là những người nhiệt tình, say mê công việc, sống có lí tưởng. Họ là điển hình cao đẹp của con người lao động mới, con người trưởng thành trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Hai tác giả đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh người lao động thật lạc quan, yêu đời và sống có trách nhiệm. Chính họ đã đóng góp một phần công sức lớn lao của mình vào việc đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, là hậu phương vững chắc bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Càng khâm phục họ, thanh niên chúng ta phải ra sức học tập để sau này trở thành người sống có ích để xây dựng đất nước ngày càng phát triển, văn minh.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
22
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 9 Sách mới

    Xem thêm