Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến (Quang Dũng): Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa... Trôi dòng nước lũ hoá đong đưa
Văn mẫu lớp 12: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến (Quang Dũng): Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa... Trôi dòng nước lũ hoá đong đưa được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh cùng quý thầy cô tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
Bình giảng bài thơ Tây Tiến
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến (Quang Dũng): Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa... Trôi dòng nước lũ hoá đong đưa mẫu 1
Tây Tiến là dòng hồi tưởng đầy xúc động của Quang Dũng về binh đoàn Tây Tiến nổi danh một thời. Đoàn quân ấy đã từng trải qua nhiều gian nan, thử thách khắc nghiệt, kể cả hy sinh, mất mát. Nhưng trên con đường hành quân thăm thẳm, binh đoàn Tây Tiến đã từng có những giờ phút vui vầy, hào hứng:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
...
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tâm hồn nhà thơ, một người trong cuộc, khi hồi tưởng lại, cũng bâng khuâng, bay bổng và say sưa với từng kỷ niệm.
Đó là một buổi liên hoan tưng bừng ngày trong doanh trại Tây Tiến:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Khi nhớ lại đêm liên hoan năm xưa, hồn nhà thơ như đang sống với quá khứ. Và, quá khứ không còn là năm xưa nữa, mà như đang diễn ra, rộn rã:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Trong đêm tối đen giữa chốn núi rừng, cả doanh trại chợt bừng tỉnh giấc và niềm vui cũng bùng nổ theo. Cuộc sống gian khổ, những ngày cơ cực, trèo đèo, vượt thác hầu như lùi vào dĩ vãng, chỉ có ánh sáng cùng với sự reo vui lan tỏa khắp chốn. Ánh đuốc được thắp lên trong trại lính mang đến ánh sáng của lễ hội. Trong doanh trại không chỉ có những người lính:
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Những người thiếu nữ vùng đoàn Tây Tiến đang đóng quân đã đến với họ, vừa thân thuộc, vừa gây ngạc nhiên. Ngạc nhiên vì em đã đến với Tây Tiến khác ngày hôm qua, đến để cùng trẩy hội. Vì thế, đêm liên hoan biến thành “hội đuốc hoa” của tuổi trẻ, khiến người ta nghĩ tới đêm tân hôn rộn ràng. Đến lúc điệu khèn, điệu nhạc trỗi lên, những người trai trẻ thực sự đang sống với một không khí khác, đang say sưa với hạnh phúc:
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Khổ thơ thứ hai nối tiếp dòng hồi tưởng của Quang Dũng về những kỷ niệm lúc đoàn quân Tây Tiến tạm dừng bước nơi miền sơn cước. Nhưng nếu như đoạn trên là một cảnh tượng vui vầy, tưng bừng cụ thể thì dòng hồi ức lúc này có vẻ tản mạn, mơ màng:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Phải nói ngay rằng, đây là một khung cảnh buồn. Không gian trải rộng đến mênh mông. Âm điệu chùng xuống, như được kéo giãn ra. Khổ thơ có câu trúc lạ: bên cạnh một cảnh tượng là một lời nhắc nhớ, tâm tình
Dường như ánh mắt quấn quýt, quyến luyến lấy cảnh vật và nỗi nhớ bao trùm, trải rộng khắp không gian. Đành rằng, đây là cảnh buồn, buồn đến nao lòng. Nhưng thử hỏi, một vùng đất mà nhắc tới nó, người ta nhớ nhung da diết, buồn thương đến vậy có phải vùng đất ấy đã “hóa tâm hồn” không? Và, nỗi buồn kia mới đáng quý, đáng trọng biết bao!
Ở đây cũng cần nói thêm, có những kỷ niệm vốn rất vui, không một chút gợn buồn. Nhưng một khi đã trở thành ký ức, sống trong hoài niệm thì kỷ niệm ấy lại được bao bọc màn sương của nhớ nhung và trở thành cảnh buồn. Vì lẽ gì ư? Vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Vì hiện tại, người ta đã mất nó, không còn được sống những giờ khắc ấy nữa. Âu đó cũng là lẽ thường xưa nay!
Hai khổ trên trong bài Tây Tiến là những câu thơ đẹp. Đẹp, vì một vùng đất, vì những con người đã để lại hình bóng không phai mờ trong tâm hồn của nhà thơ hào hoa, lãng mạn. Đẹp, vì niềm say mê, nỗi nhớ nhung tha thiết của nhà thơ đối với Tây Bắc và Tây Tiến.
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến (Quang Dũng): Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa... Trôi dòng nước lũ hoá đong đưa mẫu 2
Quang Dũng là nhà thơ – chiến sĩ, từng cầm súng đánh giặc và làm thơ thời kháng chiến chống Pháp. Năm 1948, tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây cũ), ông viết bài thơ "Tây Tiến" nói lên tình thương nhớ chiến trường miền Tây, nhớ đồng đội thân yêu một thời trận mạc. Mở đầu bài thơ là một lời nhắn gọi biết bao thiết tha bồi hồi:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi".
Bài thơ có 34 câu thơ thất ngôn, chia thành 4 đoạn, mỗi đoạn thơ là sự hồi tưởng bao kỉ niệm sâu sắc. Đây là đoạn thơ thứ hai có 8 câu mang vẻ đẹp như một bài hành nói về hai nỗi nhớ: nhớ hội đuốc hoa và nhớ chiều sương Châu Mộc:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
...
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
Từ "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói – Mai Châu mùa em thơm nếp xôi", Quang Dũng nhớ đến "hội đuốc hoa" thắm thiết tình quân dân:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ".
Đuốc hoa là cây nến thắp lên trong phòng tối tân hôn. "Truyện Kiều" có câu: "Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa" (3096). Quang Dũng sáng tạo thành "hội đuốc hoa" để nói về đêm liên hoan lửa trại giữa các cán bộ chiến sĩ đoàn binh Tây Tiến với đồng bào các bản mường. Chữ "bừng" vừa chỉ ánh lửa, ánh đuốc sáng bừng lên, vừa tả âm thanh tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát, tiếng khèn vang lên tưng bừng rộn rã trong hội đuốc hoa. Đêm lửa trại, đêm liên hoan chắc là có múa sạp, có múa xòe của các cô gái Mường, cô gái Thái tham gia? Chữ "kìa" là đại từ để chỉ một đối tượng (người, vật) từ xa; trong văn cảnh thể hiện sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của chàng lính trẻ Tây Tiến khi nhìn thấy các "em", các "nàng" đến dự hội đuốc hoa trong bộ xiêm áo xinh đẹp. Hình ảnh "nàng e ấp" là một nét vẽ tài hoa và có hồn đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, kín đáo, tình tứ của các thiếu nữ miền Tây. Ánh lửa, tiếng hát, tiếng khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiều diễm của các "em", các "nàng" như đã "xây hồn thơ" các chàng lính trẻ. Con người thì trẻ chung, xinh đẹp, hào hoa, đa tình; ngòi bút của thi nhân cũng rất tài hoa, lãng mạn. Qua hội đuốc hoa, ta càng thấy đời sống tinh thần vô cùng phong phú của đoàn binh Tây Tiến nơi chiến trường miền Tây gian khổ ác liệt.
Bốn câu thơ tiếp theo dòng hồi tưởng "trôi" về một miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, nơi có dãy núi Pha Luông cao 1880m, nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng người lính chiến với tâm hồn thi sĩ đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú miền Châu Mộc. Năm tháng đã trôi qua, cảnh và người miền đất lạ ấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
"Chiều sương ấy" là chiều thu 1947. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu chiều thu ấy in đậm hồn người; hoài niệm càng trở nên mênh mang. Chữ "ấy" câu trên bắt vần với chữ "thấy" câu dưới tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi "có thấy" cất lên trong lòng. Hồn lau là hồn mùa thu. Hoa lau nở trắng cờ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu "nẻo bến bờ", nơi bờ sông bờ suối. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc "chiều sương" và "hồn lau nẻo bến bờ". Những thi liệu ấy đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển bức tranh suối rừng nơi miền đất lạ. Thấp thoáng trong vần thơ "Tây Tiến" là những câu cổ thi tuyệt bút:
"Sương đầu núi buổi chiều như dội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…"
(Chinh phụ ngâm)
Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau:
"Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng".
(Lau mùa thu – Chế Lan Viên)
Điệp ngữ "có thấy" và "có nhớ" làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Nhớ cảnh rồi nhớ đến người. Trong chia phôi còn "có nhớ". "Có nhớ" con thuyền độc mộc và "dáng người" chèo thuyền độc mộc? "Có nhớ" hình ảnh "hoa đong đưa" trên dòng nước lũ? "Hoa đong đưa" có phải là hoa rừng "đong đưa" làm duyên trên dòng nước lũ như giáo sư Phan Cự Đệ đã nói? Hay "Hoa đong đưa" là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây xinh đẹp lái thuyền độc mộc duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang "đong đưa" trên sông suối. Bài hát "Sơn nữ ca" của nhạc sĩ Trần Hoàn, "Nụ cười sơn cước" của nhạc sĩ Tô Hải cho ta cảm nhận ấy. Phải có "tay lái ra hoa" mới có thể "đong đưa" được như vậy.
Những dòng hồi tưởng trên đây về cảnh sắc và con người nơi suối rừng miền Tây, nơi cao nguyên Châu Mộc đã được thể hiện một cách tuyệt đẹp qua bút pháp tài hoa và hồn thơ lãng mạn. Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc vô cùng hoang vu, là chốn rừng thiêng liêng nước độc, nhưng Quang Dũng với tâm hồn lạc quan và yêu đời của một khách chinh phu thời đại mới đã cảm nhận và phát hiện bao vẻ đẹp thơ mộng, xinh tươi của cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Hoài niệm, kỉ niệm về chiến trường núi rừng miền Tây như được chắt lọc qua tâm hồn. Nhà thơ có gắn bó với cảnh vật và con người Tây Bắc, có vào sinh ra tử với đồng đội mới có kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá như thế.
Bức tranh chiều sương Châu Mộc và hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn kết hợp hài hòa với tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.
----------------------------
Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 12: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến (Quang Dũng): Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa... Trôi dòng nước lũ hoá đong đưa. Bài viết đã gửi tới bạn đọc dàn ý và các bài văn mẫu, hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn nhé. Ngoài ra để giúp các bạn có thêm nhiều tài liệu học tập hơn nữa, VnDoc.com mời các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 12 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 12.
Các bài liên quan tác phẩm:
Bài tiếp theo: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ ''Bên kia sông Đuống" (Hoàng Cầm): Em ơi buồn làm chi... Sao xót xa như rụng bàn tay