Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa" trong bài thơ Việt Bắc
Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa"
- Dàn ý cảm nhận 20 câu thơ đầu bài Việt Bắc
- Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa" - Mẫu 1
- Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa" - Mẫu 2
- Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa" - Mẫu 3
- Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa" - Mẫu 4
- Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa" - Mẫu 5
- Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa" - Mẫu 6
Văn mẫu: Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa" trong bài thơ Việt Bắc được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 12 hay dành cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 12 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
Dàn ý cảm nhận 20 câu thơ đầu bài Việt Bắc
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu đoạn trích.
II. Thân bài:
- Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác.
- Giới thiệu vị trí đoạn trích.
* Phân tích:
- Tám câu thơ đầu là tâm trạng lưu luyến bịn rịn trong buổi chia tay:
Bốn câu trên, sử dụng điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ” là lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, về thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình.
Cách xưng hô “mình - ta” như lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau khiến cuộc chia tay trở nên thân mật, giản dị. Cách xưng hô còn gợi nhớ đến những câu đối đáp trong điệu hát giao duyên khiến những câu thơ nói về cách mạng không khô khan mà trở nên đằm thắm, sâu lắng.
Bốn câu thơ tiếp là nỗi lòng lưu luyến của cả người ở lại và ra đi thể hiện qua những từ ngữ diễn tả tâm trạng trực tiếp: “da diết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn”; không khí buổi chia tay thân tình, gần gũi: “áo chàm”, “cầm tay nhau”.
- Mười hai câu tiếp theo, với việc sử dụng điệp từ “nhớ”, là lời nhắn nhủ dưới hình thức câu hỏi:
Nhớ đến thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc trong những ngày kháng chiến: mưa nguồn, suối lũ, mây mù, trám bùi, măng mai.
Nhớ đến những ân tình trong khó khăn gian khổ: “miếng cơm chấm muối” nhưng vẫn “đậm đà lòng son”.
Nhớ đến quang thời gian hoạt động cách mạng: kháng Nhật, Việt Minh, Tân Trào, Hồng Thái,...
Đại từ xưng hô “mình” thể hiện sự gắn bó, thân thiết giữa kẻ ở, người đi. Nó giống như cách xưng hô tâm tình, thủ thỉ chân thành.
III. Kết bài:
- Khái quát lại vấn đề.
Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa" - Mẫu 1
Việt Bắc” không chỉ là đỉnh cao thơ Tố Hữu mà còn là một trong những thành công xuất sắc của thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp. Bài thơ vừa là bản hùng ca, vừa là khúc tình ca về ân tình Cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Hai mươi câu thơ đầu đã diễn tả cuộc chia ly bâng khuâng, lưu luyến giữa những người cán bộ và nhân dân Việt Bắc:
Câu thơ mở đầu là một câu hỏi tu từ chứa nhiều cảm xúc:
“Mình về mình có nhớ ta”
“Mình” chỉ người ra đi - người chiến sĩ Cách mạng. “Ta” là người ở lại – người Việt Bắc ân tình, thủy chung. Câu hỏi chính là lời của người ở lại hỏi người ra đi rằng: khi người chiến sĩ cách mạng về xuôi rồi còn có nhớ đến người Việt Bắc hay không? “Mình” và “ta” là những đại từ nhân xưng quen thuộc trong ca dao xưa, là cách xưng hô bình dị, thương mến vô cùng của tình yêu đôi lứa. Tố Hữu đã mượn một hình thức ngôn từ quen thuộc của văn hóa dân gian để gửi gắm những tình cảm lớn lao của thời đại mới. Với cách xưng hô “mình – ta” đậm chất ca dao cùng với điệp từ “mình” đã cho ta thấy được tình cảm gắn bó thân thiết đầy yêu thương, làm cho nỗi nhớ càng trở nên day dứt khôn nguôi. Người Việt Bắc muốn hỏi người kháng chiến có nhớ:
“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
“Mười lăm năm” là từ chỉ thời gian: (khoảng thời gian từ năm 1940, khởi nghĩa Bắc Sơn, mở đầu cuộc kháng chiến chống Nhật đến năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc kháng chiến chống thực dân Pháp) - là khoảng thời gian gắn bó keo sơn giữa người chiến sĩ và người Việt Bắc. Đó là một khoảng thời gian dài cùng nhau chiến đấu, cùng nhau vượt qua biết bao gian khổ. Từ “ấy”: tác giả không sử dụng từ “đó” mà sử dụ ng từ á y như để làm tăng thêm ý nghĩa của khoảng thời gian “mười lăm năm” đồng thời thể hiện sự trân trọng của tác giả với những ngày tháng gắn bó. Những từ “thiết tha”, “mặn nồng” là những từ nhấn mạnh tình cảm gắn bó keo sơn giữa người Việt Bắc và người cách mạng. Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh hơn về tình nghĩa thủy chung son sắt luôn hướng tới cách mạng, hướng tới những người chiến sĩ của người dân Việt Bắc.
Câu thơ tiếp theo như một lời nhắc nhở đối với người chiến sĩ cách mạng:
“Mình về mình có nhớ không,
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Điệp từ “nhìn” và “nhớ” dường như đã nhấn mạnh ý hỏi của người ở lại. Mong muốn những người cách mạng luôn nhớ về nơi Việt Bắc. Nơi có những con người sắt son, thủy chung, luôn mong nhớ về người cách mạng. Bốn câu thơ đầu tiên là lời của người Việt Bắc hỏi người cán bộ về xuôi. Với (lối đối đáp, cách xưng hô “mình- ta”, điệp từ cùng với từ láy, đặc biệt là kết hợp với câu hỏi tu từ) đã cho thấy được tình cảm gắn bó thiết tha, mặn nồng, thủy chung son sắt của người Việt Bắc. Qua đó ta có thể cảm nhận được phẩm chất tốt đẹp của con người nơi đây: dù phải sống trong khó khăn, đồi núi hiểm trở, thiếu thốn nhưng tình yêu của họ đối với người chiến sĩ là không hề thay đổi, luôn luôn cồn cào, da diết và mãnh liệt.
Bốn câu thơ sau là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi lưu luyến, nhớ nhung:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
Đại từ phiếm chỉ “ai”: mơ hồ, vang vọng như muốn gọi người chiến sĩ ở lại, như tiếng lòng không muốn chia xa. Từ “tha thiết”: như làm cho tiếng gọi đó vang vọng hơn, sâu lắng hơn, làm cho ta cảm nhận được tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ cách mạng như vô cùng sâu nặng. Từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn”: chỉ tâm trạng người ra đi. “Bâng khuâng” là trạng thái lưu luyến day dứt, như còn lâng lâng một điều gì đó sâu sắc lắm trong tình cảm của mình. Nó khiến cho tâm trạng của con người day dứt đến khó chịu. “Bồn chồn” là chỉ sự ray rứt trong tâm trạng của con người như lo lắng điều gì đó. Tất cả đã tạo nên tâm trạng của người chiến sĩ cách mạng về xuôi, khi trở về xuôi vẫn còn mang trong mình nỗi nhung nhớ, ray rứt khôn nguôi, cả sự lo lắng trong tâm trạng của người cán bộ cách mạng. Qua đó ta có thể cảm nhận được tình cảm của người cách mạng đối với Việt Bắc cũng sâu nặng không kém gì tình cảm của người Việt Bắc dành cho họ.
Hai câu thơ cuối là hình ảnh chia tay đầy nước mắt giữa người chiến sĩ cách mạng và người Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
“Áo chàm” là biểu tượng đơn sơ mà xúc động về những người dân Việt Bắc nghèo vật chất mà giàu có nghĩa tình. Hình ảnh hoán dụ về chiếc áo chàm vừa gợi ra trang phục đặc trưng của người Việt Bắc vừa khắc họa tính cách mộc mạc, tấm lòng son sắc của họ với cách mạng, với kháng chiến.Sắc áo chàm có thể dần mờ nhòa trong sương khói núi rừng nhưng sẽ mãi mãi in sâu đậm trong nỗi nhớ thương của người về xuôi. Từ “phân li” ấy như thể hiện sự chia cắt không ngày gặp lại. Qua đó thể hiện nỗi tiếc thương nhung nhớ, khẳng định tình cảm gắn bó sâu đậm của người Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng. Tình cảm ấy được khẳng định rõ ràng hơn trong câu thơ cuối:
“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.”
Không phải không có gì để nói mà là có quá nhiều điều để nói, không thể nói hết và không biết nói điều gì đầu tiên, từ “biết nói gì” đã thể hiện điều đó. Không nói ra được họ chỉ biết cầm tay nhau, chỉ hành động “cầm tay” thôi đã cho ta cảm nhận thấy tình yêu thương mặn nồng giữa họ. Hành động “cầm tay” thay cho những lời nói yêu thương, những lời gửi gắm, tình cảm giữa họ dường như được truyền hết qua hành động ấy. Đó còn là sự thể hiện tình cảm, tâm trạng chưa xa đã nhớ của người chiến sĩ cách mạng và đó cũng chính là tiếng lòng của họ.
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
Ở khổ thơ, xuất hiện một loạt cụm từ “có nhớ”, điều này cho ta cảm nhận được tâm trạng của người ở lại - một tâm trạng quan tâm, lo lắng không biết cán bộ về xuôi có còn nhớ chiến khu nữa không? Để cho người ở lại hỏi là vì nhà thơ muốn khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Còn nhớ trong “Tây Tiến”, Quang Dũng cũng có câu thơ đầy khắc khoải: “Có nhớ dáng người trên độc mộc/ Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.” Nhớ thiên nhiên Việt Bắc “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”. Câu thơ đã đặc tả được cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc. Ngoài việc phải đối mặt với sự khắc nghiệt, khó khăn của thiên nhiên, mình và ta còn phải đối diện với cuộc sống thiếu thốn, đầy gian khổ miếng cơm chấm muối. Hình ảnh hoán dụ “mối thù nặng vai”, gợi liên tưởng đến mối thù sâu nặng của nhân dân đối với những kẻ cướp nước, những kẻ đan tâm bán nước ta cho giặc. Đồng thời còn là lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, mình và ta đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau tiêu điệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc,ấm no. Tiếp mạch cảm xúc, vẫn là những lời hỏi của Việt Bắc nhưng ẩn chứa trong vần thơ lại là lời bộc bạch tâm sự của người ở lại, bày tỏ tình cảm lưu luyến với cán bộ về xuôi:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Hoán dụ “rừng núi nhớ ai” - rừng núi chính là hình ảnh người ở lại, còn đại từ “ai” là chỉ người cán bộ về xuôi, nhằm nhấm mạnh tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ da diết của nhân dân Việt Bắc đối với những người kháng chiến, với Đảng và chính phủ. Thiên nhiên và con người Việt Bắc nhớ cán bộ về xuôi nhiều đến mức “trám bùi để rụng, măng mai để già”, trám bùi và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội, của cán bộ kháng chiến; đồng thời cũng là đặc sản của thiên nhiên Việt Bắc. Mình về khiến núi rừng Việt Bắc bỗng trở nên trống vắng, buồn bã đến lạ thường, ngay cả khi trám bùi, măng mai mà cũng không ai thu hái. Người ở lại đã bộc lộ tình cảm của mình thật chân thành và tha thiết.
Nhân dân Việt Bắc vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở đoạn thơ này lời hỏi được nhấn mạnh hơn, thể hiện cụ thể và rõ ràng hơn:
“Mình đi, có nhớ những nhà,
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.
Mình về, có nhớ núi non,
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.”
Cụm từ “nhớ những nhà” - biện pháp hoán dụ – gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng lo lắng không biết rằng: Cán bộ có nhớ những người dân Việt Bắc hay không - nhân dân Việt Bắc nhớ cán bộ nhiều lắm, nhớ đến “hắt hiu lau xám”. Từ láy “hắt hiu” kết hợp với hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc lau xám càng làm nổi bật hơn khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, im lặng nơi núi rừng. Nhưng đối lập với khung cảnh ấy là tấm lòng son, tấm lòng ấm áp và chân thành của con người Việt Bắc. Và có lẽ chính nền lau xám hắt hiu ấy càng làm đậm thêm những tấm lòng cao đẹp kia. Chính nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc đối với bộ đội, với Cách Mạng; sự đồng cảm cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn làm cho Việt Bắc - quê hương của Cách Mạng, cội nguồn nuôi dưỡng cho Cách Mạng - càng thêm ngời sáng trong tâm trí nhà thơ nói riêng và trong lòng người đọc nói chung.
Kết lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Vế thứ nhất là hai danh từ riêng: Tân Trào, Hồng Thái – đó là những địa danh gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc và kháng chiến: đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân đại hội 8/1945, thành lập ủy ban dân tộc giải phóng và phát lệnh tổng khởi nghĩa. Bên gốc đa Tân trào, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã làm lễ xuất phát chuẩn bị cho tổng khời nghĩa. Vế sau là những danh từ bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam, là nơi tụ họp, hẹn hò, là không gian gần gũi gắn bó với cả cộng đồng và đôi lứa.
Tố Hữu đã đưa người đọc vào thế giới của hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái, ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách mạng. Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tó Hữu đã sử dụng rất khéo léo và đặc sắc hai cụm từ đối lập “mình đi – mình về”. Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì “mình đi – mình về” đều chỉ một hướng là về xuôi,về Hà Nội. Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 – 4/4 đều đận, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong đưa, rất phù hợp vối phong cách thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu.
“Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc” của Tố Hữu đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm. Những chi tiết về ánh sáng và tình người, từ “miếng cơm chấm muối, trám bùi,măng mai, mái nhà hắt hiu lau xám…” đến “mối thù” hai vai chung gánh, những “tấm lòng son” sẽ không bao giờ phai nhạt, sẽ sống mãi trong lòng nhà thơ và trong tâm trí của người dân Việt Bắc, của những cán bộ về xuôi.
Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa" - Mẫu 2
Sau hiệp định Genevơ 1954, miền Bắc nước ta được giải phóng. Khoảng tháng 10 năm ấy, các cơ quan trung ương của Đảng và Nhà nước rời Việt Bắc chuyển về Hà Nội. Niềm lưu luyến giữa nhân dân Việt bắc và những người cán bộ cách mạng là nguồn cảm hứng để Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc gồm 150 câu lục bát, là một khúc ca trữ tình hay nhất trong tập thơ cùng tên của nhà thơ. Đoạn mở đầu 20 câu thơ đã thể hiện tình cảm gắn bó giữa kẻ ở người về, tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.
Cuộc chia tay và tâm tình của người ở lại:
Mình về mình có nhớ ta,
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không,
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Với kết cấu theo lối hát giao duyên, đoạn thơ tả cuộc chia tay giữa người Việt Bắc và người cách mạng. Nghĩa tình kẻ ở người về được biểu hiện đằm thắm qua các đại từ mình, ta gợi bao lưu luyến ưong buổi chia tay.
Những lời nhắn nhủ của người ở lại với những từ láy gợi cảm qua cách hỏi mình có nhớ ta, mình có nhớ không vang lên như day dứt không nguôi. Mười lăm năm ấy gợi thời gian, cây, núi, sông, nguồn gợi không gian. Thời gian của một kì hoạt động cách mạng và kháng chiến chống Pháp, không gian của một vùng căn cứ địa cách mạng. Trạng ngữ thiết tha mặn nồng thể hiện ân tình đầy hương vị mặn mà nồng thắm của bao nhiêu kỉ niệm mến yêu. Điệp từ nhớ gợi nỗi nhớ triền miên...
Tiếng ai tha thiết bên cồn,
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.
Áo chàm đưa buổi phân li,
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Đây là tiếng lòng của người về. Người về nghe câu hỏi, lòng bồi hồi nên bước chân bồn chồn, áo chàm bình dị, chân tình. Câu thơ bỏ lửng với nhịp thơ ngập ngừng cầm tay nhau - biết nói gì - hôm nay diễn tả sự vấn vương vì xúc động nên không thể giãi bày tâm tình.
Câu hỏi của người ở lại:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Mười hai câu thơ tiếp theo là lời Việt Bắc. Giọng thơ vừa hỏi han vừa gợi nhớ theo thời gian, lan tỏa trong không gian. Nhớ về những kỷ niệm xa xưa từ buổi đầu cách mạng, trong kháng chiến chống Pháp.
Những không gian, địa điểm cứ hiện dần từ mờ xa, mưa nguồn, suối lũ, mây mù, đến xác định như một điểm chốt vững vàng chiến khu, rồi dấy lên một sức mạnh tranh đấu, khi kháng Nhật, thuở Việt Minh, khai sinh những địa danh từ như những cái nôi đón đỡ Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
Những chi tiết về cuộc sống và tình người: bát cơm chấm muối, quả trám bùi, đọt măng mai, mái nhà lau xám hắt hiu... cứ dần dần tái hiện, nhắc nhở mối thù hai vai chung gánh, những tấm lòng son không bao giờ phai nhạt.
Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ rừng núi nhớ ai..., trám để rụng, măng để già, điệp từ mình về, mình đi, có nhớ, còn nhớ, nhịp câu 2/4 - 4/4 đều đặn... gợi lên hình ảnh một người đang bâng khuâng sững sờ với cảm giác hụt hẫng của cuộc dè chừng sự lãng quên nên thiết tha nhắc nhở người về bằng những hoài niệm ân nghĩa nhất, nguồn cội sâu rộng nhất..., sâu trong tình người, rộng trong thời gian, không gian. Đây là tình cảm những con người cách mạng trong không thời gian của cách mạng.
Đoạn thơ thể hiện những tình cảm lớn có ý nghĩa thời đại. Đó là tình đoàn kết, nghĩa thuỷ chung giữa nhân dân và cách mạng, từ phong trào Việt Minh thời kì kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Việt Bắc. Đoạn thơ cũng thể hiện chất thơ trữ tình chính trị, đậm đà tính dân tộc của Tố Hữu. Phong cách đó đã ảnh hưởng quan trọng đối với thơ ca cách mạng Việt hiện đại.
Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa" - Mẫu 3
Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay: “Mình về mình có nhớ ta / Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng / Mình về mình có nhớ không / Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Điệp từ “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng, tràn đầy thương nhớ. Các xưng hô “mình – ta” mộc mạc, thân gần gợi liên tưởng ca dao: “Mình về ta chẳng cho về – Ta nắm dải áo, ta đề bài thơ”. “15 năm” là chi tiết thực chỉ độ dài thời gian từ năm 1940 thời kháng Nhật và tiếp theo là phong trào Việt Minh, đồng thời cũng là chi tiết gợi cảm – nói lên chiều dài gắn bó thương nhớ vô vàn. Câu thơ mang dáng dấp một câu Kiều – Mười lăm năm bằng thời gian Kim – Kiều xa cách thương nhớ mong đợi hướng về nhau (Những là rày ước mai ao – Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình). Cảm xúc đậm đà chất dân gian, đậm đà chất Kiều. Âm điệu ngọt ngào, giọng thơ nồng ấm, tình cảm do vậy dạt dào thiết tha. Việt Bắc hỏi về: “Mình về mình có nhớ không – Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”. Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo: đừng quên cội nguồn Việt Bắc – cội nguồn cách mạng.
Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
“Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong… lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội (10-1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó tả.
“Áo chàm đưa buổi phân li” là một ẩn dụ, màu áo chàm, màu áo xanh đen đặc trưng của người miền núi Việt Bắc – tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể “áo chàm”, chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của vùng quê nghèo thượng du đồi núi nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước.
Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” đầy tính chất biểu cảm – biết nói gì không phải không có điều để giãi bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn nói không biết phải nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng…
12 câu tiếp theo kết thúc đoạn trích, là lời tâm tình của Việt Bắc:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”
Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, ghi nhớ, nhắc nhở. Hàng loạt những câu hỏi tu từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của Việt Bắc. Tình cảm lưu luyến của người đưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ mong, gài lại niềm thương theo cách:
“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
Việt Bắc nhắc người cán bộ chiến sĩ đừng quên những năm tháng gian lao vất vả, hoạt động chiến đấu trong điều kiện trang bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu thốn.
“Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”
“Miếng cơm chấm muối” là chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng chiến gian khổ. Và cách nói “mối thù nặng vai” nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân cướp nước, đè nặng vai dân tộc ta. Cảm xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian rừng núi, gợi nỗi niềm dào dạt:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Hình ảnh “Trám bùi để rụng, măng mai để già” gợi nỗi buồn thiếu vắng – “Trám rụng – măng già” không ai thu hái. Nỗi bùi ngùi nhớ bức bối như thúc vào lòng kẻ ở lại. Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng. Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm “lòng son” của người cán bộ chiến sĩ. Xin đừng quên thời kỳ “kháng Nhật thuở còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên để chăm lo giữ gìn sự nghiệp cách mạng.
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”
Tóm lại, đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ trên tiêu biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.
Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa" - Mẫu 4
Nhắc đến Tố Hữu thì ai cũng biết ông là một trong những nhà thơ trữ tình cách mạng hàng đầu của nền văn học Việt Nam. Thơ Tố Hữu là tiếng thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng và cuộc sống cách mạng. Bài Việt Bắc là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của Tố Hữu nói riêng, của thơ kháng chiến chống Pháp nói chung. Có thể nói, Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca, thể hiện ân tình sâu nặng, thủy chung của nhà thơ đối với căn cứ địa cách mạng cả nước. Điều này càng được khắc họa rõ nét hơn trong khổ thơ:
Mình đi, có nhớ những ngày
...
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Việt Bắc là tác phẩm trường thiên, dài 150 dòng, được Tố Hữu viết vào tháng 10/1954 khi Trung ương Đảng và chính phủ, Bác Hồ và cán bộ từ giã Thủ đô gió ngàn để về với Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình. Bao trùm đoạn thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, là nỗi nhớ da diết, tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến của kẻ ở người đi người miền ngược và người đi kháng chiến.
Mở đầu đoạn thơ thứ ba là hàng loạt câu hỏi rất ngọt ngào:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
Ở khổ thơ, xuất hiện một loạt cụm từ có nhớ, điều này gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng của người ở lại một tâm trạng quan tâm, lo lắng không biết: cán bộ về xuôi, cán bộ có còn nhớ chiến khu Việt Bắc nữa không? Để cho Việt Bắc hỏi là vì nhà thơ muốn khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Nhớ thiên nhiên Việt Bắc mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù, câu thơ đã đặc tả được cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc, tuy khung cảnh có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ. Ngoài việc phải đối mặt với sự khắc nghiệt, khó khăn của thiên nhiên, mình và ta còn phải đối diện với cuộc sống thiếu thốn, đầy gian khổ miếng cơm chấm muối. Hình ảnh hoán dụ mối thù nặng vai, gợi liên tưởng đến mối thù sâu nặng của nhân dân đối với những kẻ cướp nước, những kẻ đan tâm bán nước ta cho giặc. Đồng thời còn là lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, mình và ta đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau tiêu diệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc, ấm no. Nghệ thuật tiểu đối kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 - 4/4 đều đặn khiến cho câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối, lời thơ càng thêm tha thiết.
Tiếp mạch cảm xúc, vẫn là những lời hỏi của Việt Bắc nhưng ẩn chứa trong vần thơ lại là lời bộc bạch tâm sự của người ở lại, bày tỏ tình cảm lưu luyến với cán bộ về xuôi:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Tố Hữu đã sử dụng biện pháp hoán dụ rừng núi nhớ ai rừng núi chính là hình ảnh người ở lại, còn đại từ ai là chỉ người cán bộ về xuôi nhằm nhấn mạnh tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ da diết của nhân dân Việt Bắc đối với những người kháng chiến, với Đảng và chính phủ Thiên nhiên và con người Việt Bắc nhớ cán bộ về xuôi nhiều đến mức trám bùi để rụng, măng mai để già. Trám bùi và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội, của cán bộ kháng chiến; đồng thời cũng là đặc sản của thiên nhiên Việt Bắc. Mình về khiến núi rừng Việt Bắc bỗng trở nên trống vắng, buồn bã đến lạ thường, ngay cả khi trám bùi, măng mai mà cũng không ai thu hái. Người ở lại đã bộc lộ tình cảm của mình thật chân thành và tha thiết.
Nhân dân Việt Bắc vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở đoạn thơ này lời hỏi được nhấn mạnh hơn, thể hiện cụ thể và rõ ràng hơn: cán bộ về xuôi có nhớ cảnh vật Việt Bắc, con người Việt Bắc, nhớ những năm tháng cùng nhau kháng chiến hay không?
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.
Cụm từ nhớ những nhà biện pháp hoán dụ - gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng lo lắng không biết rằng: Cán bộ có nhớ những người dân Việt Bắc hay không? Chứ nhân dân Việt Bắc nhớ cán bộ nhiều lắm, nhớ đến nỗi hắt hiu lau xám. Từ láy hắt hiu kết hợp với hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc lau xám càng làm nổi bật hơn khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, im lặng nơi núi rừng. Nhưng đối lập với khung cảnh ấy là tấm lòng son, tấm lòng ấm áp và chân thành của con người Việt Bắc. Ngoài ra, nhân dân Việt Bắc còn muốn biết thêm rằng: Cán bộ về xuôi có nhớ núi non, nhớ thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ hay không? Có nhớ khoảng thời gian cùng nhau kháng Nhật, thuở còn làm Việt Minh hay không? Chính nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc đối với bộ đội, với cách mạng; sự đồng cảm cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn làm cho Việt Bắc quê hương của Cách Mạng, cội nguồn nuôi dưỡng cho Cách Mạng càng thêm ngời sáng trong tâm trí nhà thơ nói riêng và trong lòng người đọc nói chung.
Kết lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử:
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
Chỉ với hai câu thơ, nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm, ẩn chứa rất nhiều điều; đặc biệt là ở câu thơ sáu chữ có đến ba từ mình quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Từ mình thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ mình thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, mình là Việt Bắc đại từ nhân xưng ngôi thứ hai thì câu thơ mang hàm ý: Cán bộ về xuôi, về Hà Nội không biết cán bộ có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không ? Ở nghĩa hẹp hơn, mình chính là cán bộ về xuôi đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất khiến cho câu thơ được hiểu theo một nghĩa khác: Cán bộ về xuôi, cán bộ có nhớ chính mình hay không? Có còn nhớ đến quá khứ của bản thân, nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do của dân tộc hay không? Với cách hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu sắc.
Ở câu thơ cuối trong khổ ba, người ở lại nhắc đến hai địa danh nổi tiếng gắn liền với hai sự kiện quan trọng đã từng diễn ra ở Việt Bắc. Địa điểm thứ nhất: sự kiện cây đa Tân Trào (12/1944), đây là nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất phát, lúc đầu chỉ với mấy chục thành viên nhưng sau đó trở thành đội quân Việt Nam, lực lượng chủ chốt đã làm nên chiến thắng ngày hôm nay. Còn địa điểm thứ hai là tại đình Hồng Thái, nơi Bác đã chủ trì cuộc họp (8/1945) quyết định làm cuộc Cách mạng Tháng Tám; chính nhờ quyết định sáng suốt này mà cuộc kháng chiến chống Pháp đã thành công vang dội, có thể giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Tố Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời còn là lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng Việt Bắc chính là cái nôi của Cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng Cách Mạng hay không? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có còn thủy chung, gắn bó với Việt Bắc như xưa không hay là đã thay lòng đổi dạ?
Chỉ với mười hai câu thơ trong khổ ba của bài Việt Bắc, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái, ngọt ngào, du dương của tình nghĩa cách mạng. Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tố Hữu đã sử dụng rất khéo léo và đặc sắc hai cụm từ đối lập mình đi mình về. Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì mình đi mình về đều chỉ một hướng là về xuôi, về Hà Nội. Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 - 4/4 đều đặn, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong đưa, rất phù hợp với phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc của Tố Hữu đã góp phần tạo nên sự thành công cho bài Việt Bắc. Những chi tiết về ánh sáng và tình người, từ miếng cơm chấm muối, trám bùi, măng mai, mái nhà hắt hiu lau xám đến mối thù hai vai chung gánh, những tấm lòng son sẽ không bao giờ phai nhạt, sẽ sống mãi trong lòng nhà thơ và trong tâm trí của người dân Việt Bắc, của những cán bộ về xuôi.
Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa" - Mẫu 5
"Việt Bắc" là bài thơ lục bát dài 150 câu thơ của Tố Hữu được sáng tác vào tháng 10 năm 1954, ngày thủ đô Hà Nội được hoàn toàn giải phóng.
"Việt Bắc" là bản hùng ca và tình ca của cách mạng và kháng chiến. Đoạn thơ sau đây dài 20 câu thơ nằm trong phần đầu bài "Việt Bắc":
Mình về mình có nhớ ta
...
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
Đoạn thơ ghi lại tình cảm của ta khi đưa tiễn mình: mình đi… mình về… Có thể hiểu ta là cô gái Việt Bắc, là đồng bào của dân tộc Việt Bắc; mình là người cán bộ kháng chiến, là anh bộ đội Cụ Hồ. Chữ ta được vây bọc, được quấn quýt trong vòng tay yêu thương của mười hai chữ mình.
Bốn câu thơ mở bài cất lên nghe tha thiết bồi hồi; cảm xúc được nén lại trong lòng bỗng ùa dậy và trào lên. Ta hỏi mình, hay ta đang hỏi lòng ta trong buổi phân li ấy:
Mình về mình có nhớ ta
Mình lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tình nghĩa giữa ta với mình không phải là ngày một ngày hai mà đã giao hòa gắn kết "thiết tha, mặn nồng" trong suốt mười lăm năm trời, kể từ ngày khởi nghĩa Bắc Sơn (1940) đến ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng (tháng 10 – 1954). Cây, núi, sông, nguồn Việt Bắc "mình có nhớ không?". Câu hỏi tu từ mở ra một trời thương nhớ.
Tố Hữu đã học tập và vận dụng sáng tạo ca dao dân ca, gợi nhớ trong lòng người đọc hai tiếng mình, ta trong những bài hát giao duyên của trai gái làng quê thuở nào: "Mình về có nhớ ta chăng – Ta về ta nhớ hàm răng mình cười". Chất trữ tình đằm thắm ấy đã tạo nên một nét đẹp trong đoạn thơ, cũng như cả bài thơ.
Bốn câu thơ tiếp theo gợi tả không gian, thời gian và tâm trạng nghệ thuật của người ra đi, của kẻ ở lại. Tiếng hát tha thiết của ai cất lên bên cồn, nơi mé rừng, nơi bờ suối? Hình ảnh hoán dụ "áo chàm" làm nổi bật đối tượng đưa tiễn và màu sắc Việt Bắc. "Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi... Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..." gợi lên nhiều thương nhớ rưng rưng. Các từ láy: "tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn" là tâm trạng của mình, của ta:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Mười hai câu thơ tiếp theo, các cặp từ ngữ: "mình đi" và "mình về" được giao hoán đến ba lần đầy ấn tượng. Điệp ngữ "có nhớ" được láy lại đến năm lần, chốt lại ở các câu lục, tạo nên cảm xúc bâng khuâng, bồn chồn, tha thiết:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Những gian khổ, thiếu thốn, khó khăn khi cách mạng còn trứng nước, những ngày Bác Hồ mới về nước "nhóm lửa" tại Pắc Bó, Cao Bằng. "Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù" nơi chiến khu giữa vòng vây của giặc Pháp, giặc Nhật đã trở thành kỉ niệm sâu sắc trong lòng kẻ ở người về. "Miếng cơm chấm muối" thuở ấy đã làm cho tình đồng chí, tình đổng đội, tình quân dân thêm sắt son bền chặt, đã soi sáng lí tưởng chiến đấu cứu nước, cứu nhà, đã làm cho mối thù đế quốc thêm "nặng vai" khắc sâu vào xương tủy:
Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn
Băm xương thịt mày, tao mới hả.
(Dọn về làng - Nông Quốc Chấn)
Mình về xuôi, mình đi xa để lại bao nhớ thương cho ta, cho người ở lại, cho cảnh vật cỏ cây, núi rừng chiến khu. Rừng núi, trám bùi, măng mai được nhân hoá, mang theo bao nỗi nhớ, bao nổi buồn thương. Cảnh vật như hoà lệ, Các chữ "rụng", chữ "già" gợi lên nhiều bơ vơ, man mác, bâng khuâng:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Làm sao có thể quên được nghĩa tình Việt Bắc trong những tháng ngày gian lao và anh dũng ấy:
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Tố Hữu đã sáng tạo nên những hình ảnh tượng trưng, tương phản (lau xám / lòng son) để ca ngợi đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Tuy nghèo khó, thiếu thốn nhưng tình yêu nước, tình cách mạng vẫn thuỷ chung son sắt, vẫn đậm đà. Đây là những vần thơ đẹp nhất, cảm động nhất nói về nồi nhớ, lòng biết ơn và lòng tự hào đối với Việt Bắc.
Việt Bắc là "đầu nguồn", là "cái nôi" của cách mạng và kháng chiến, là căn cứ địa của Việt Minh thời kháng Nhật, là Tân Trào, nơi Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân làm lễ xuất kích (tháng 12-1944), là mái đình Hồng Thái, nơi họp Quốc dân đại hội (tháng 8-1945). Việt Bắc là chiến khu bất khả xâm phạm, là thủ đô gió ngàn: "Núi giăng thành luỹ sắt dày - Rừng che bộ đội, rừng vây quân", nên có bao giờ có thể quên:
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
Những địa danh lịch sử, núi non, mái đình, cây đa... đã trở thành kỉ niệm sâu sắc trong lòng kẻ ở, người về đối với Việt Bắc:
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Một nét đặc sắc của đoạn thơ là tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đối xứng rất tài tình. Các câu bát được tạo thành hai vế đối nhau (tiểu đối) làm cho ngôn ngữ thơ hài hòa, mang vẻ đẹp cổ điển:
Nhìn cây nhớ núi, // nhìn sông nhớ nguồn?
Bâng khuâng trong dạ, // bồn chồn bước đi
Mưa nguồn suối lũ, // những mây cùng mù
Miếng cơm chấm muối, // mối thù nặng vai?
Trám bùi để rụng,// măng mai để già
Hắt hiu lau xám, // đậm đà lòng son
Nhớ khi kháng Nhật, // thuở còn Việt Minh
Tân Trào, Hồng Thái, // mái đình, cây đa.
Đoạn thơ trên đây cũng như cả bài thơ, có trường hợp chữ mình xuất hiện đến ba lần trong một câu thơ. Thật không dễ phân biệt rạch ròi chủ thể chữ tình trong ba chữ mình đó. Phải chăng mình cũng là ta, ta cũng là mình, hai tâm hồn đã nương tựa vào nhau:
- Mình đi, mình có nhớ mình
- Mình đi, mình lại nhớ mình.
"Việt Bắc" là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, cũng là thành tựu đặc sắc của thơ ca kháng chiến. Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho vẻ đẹp đặc sắc đó.
Ngôn ngữ thơ vừa thấm đẫm trữ tình ca dao, dân ca, vừa mang vẻ đẹp của thi ca cổ điển dân tộc. Tình nghĩa thủy chung của ta với mình, lòng biết ơn, niềm tự hào đối với chiến khu Việt Bắc và đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã tạo nên tính nhân dân sâu sắc của bài thơ.
Sau hơn nửa thế kỉ, đọc "Việt Bắc" của Tố Hữu, ta càng xúc động, bồi hồi về điệp ngữ "có nhớ". "Việt Bắc" là bài ca tình nghĩa thủy chung. Bài ca ấy, bài học ấy cho tuổi trẻ chúng ta thời đổi mới ngày nay niềm tin yêu và sức mạnh để bước vào đời và biết sống đẹp.
Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa" - Mẫu 6
"Việt Bắc", một tác phẩm lớn trong văn chương dân tộc Việt Nam, là một bài thơ lục bát dài gồm 150 câu thơ của nhà thơ Tố Hữu, ra đời vào tháng 10 năm 1954, trong bầu không khí hân hoan của sự giải phóng thủ đô Hà Nội. Được viết trong thời điểm quan trọng của lịch sử Việt Nam, "Việt Bắc" không chỉ là một tác phẩm văn học mà còn là một biểu tượng của lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết dân tộc. Bài thơ này không chỉ đề cập đến những trận đánh, những khó khăn trong cuộc chiến, mà còn kể về tình thương quê hương, niềm tự hào dân tộc và sự hy sinh cao cả của người lính và dân quân Việt Bắc.
Trong phần đầu của " Việt Bắc", Tố Hữu đã khắc họa một cách rất sống động cảnh vật và tinh thần của người dân Việt Bắc. Bằng những câu thơ đầy màu sắc và cảm xúc, ông đã tái hiện lại không khí phấn khích của những ngày giải phóng, khi mà nền văn hóa và tinh thần dân tộc đang được nâng cao lên một tầm cao mới.
Mình về mình có nhớ ta
…
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
Trong những dòng thơ kinh điển này, chúng ta cảm nhận được nhịp điệu bồi hồi và xúc cảm sâu lắng về sự ra đi và trở về, như một tấm lòng Việt Bắc đong đầy tình cảm và hồi hộp. Ta, ở đây có thể hiểu như là một cô gái Việt Bắc, là một phần của dân tộc, và mình, là một người lính, một phần của quân đội Cụ Hồ, đồng hành cùng những cuộc chiến.
Từ "ta" và "mình" đan xen nhau, như một sợi chỉ kết nối hai thế giới, hai vai trò trong cuộc đời. Đoạn thơ mở bày tỏ sự bồi hồi và xúc động của tâm hồn, khi tình cảm trỗi dậy mạnh mẽ như sóng biển dâng trào. Chúng ta đặt câu hỏi cho bản thân, nhưng cũng làm bật mí về nỗi lo lắng và những nghi ngờ trong lòng, trong cuộc chia ly ấy.
Mình về mình có nhớ ta
Mình lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Gắn bó giữa ta và mình không chỉ là một chặng đường dài, một khoảnh khắc, mà đã trải qua mười lăm năm dày công và hiến dâng từ ngày bắt đầu cuộc kháng chiến tại Bắc Sơn (1940) cho đến lúc miền Bắc hoàn toàn giải phóng (tháng 10 năm 1954). Cây cỏ, núi rừng, dòng sông, những nguồn cội của Việt Bắc, liệu ta có còn nhớ đến chúng không? Câu hỏi như một lời giao mời, khơi dậy biển cả tình cảm.
Tố Hữu đã khéo léo kết hợp và tận dụng tinh tế ca dao dân ca, mang lại cảm giác gần gũi, quen thuộc như trong những khúc ca tình yêu ngọt ngào của những đôi trai gái làng quê xưa: "Mình về có nhớ ta chăng - Ta về ta nhớ hàm răng mình cười". Sự trữ tình đậm đà đã tạo nên một vẻ đẹp duyên dáng, rạng ngời không chỉ cho đoạn thơ này mà còn cho cả bài thơ.
Bốn câu thơ tiếp theo đưa ta vào một không gian thần tiên, đong đầy thời gian và cảm xúc của những người ra đi và những kẻ ở lại. Tiếng hát ngọt ngào của ai vang lên từ bên dòng cồn, nơi mênh mông rừng xanh và dòng suối mát? Hình ảnh của "áo chàm" như một điểm nhấn, làm nổi bật người ra đi và màu sắc đặc trưng của vùng đất Việt Bắc. "Lòng bồn chồn, bước chân uẩn khúc... Đan tay vào nhau, lời chia tay nghẹn ngào..." là lời kêu gọi của những nỗi nhớ thương sâu sắc. Những từ ngữ như "tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn" toát lên tâm trạng hồi hộp, xúc động của ta và mình.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Bước đi rời xa, bước về quay lại, những cặp từ "mình đi" và "mình về" như nhịp tim rộn ràng, lặp lại ba lần, đong đầy ý nghĩa và ấn tượng. Điệp ngữ "có nhớ" lặp lại đến năm lần, từ châu lục này đến châu lục khác, tạo nên một cảm xúc sâu lắng, bồn chồn và tha thiết:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Trải qua gian khổ, thiếu thốn, và khó khăn trong những ngày cách mạng còn ẩn chứa nguy cơ, trong bóng tối của những ngày Bác Hồ mới về nước, "nhóm lửa" tại Pắc Bó, Cao Bằng, đã cháy bùng rực rỡ. "Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù" tại chiến khu, nơi mà địch Pháp và Nhật đang vây hãm, đã trở thành những dấu ấn sâu sắc trong trái tim của những người ở lại và người trở về.
"Miếng cơm chấm muối" thuở ấy không chỉ là nguồn dinh dưỡng, mà còn là biểu tượng của tình đồng chí, tình đồng đội, và tình quân dân bền vững. Nó đã làm cho lòng tin và đoàn kết giữa những người chiến đấu trở nên vững vàng hơn, chiếu sáng lên lý tưởng của cuộc chiến vì tự do, cho nền độc lập, và giữ gìn non sông. Đồng thời, nó đã khiến cho mối thù đối với thực dân trở nên nặng nề hơn, đọng lại sâu trong tâm hồn và tâm trí của mỗi người, như một vết thương khó lành, không thể nào quên.
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Không thể quên được nghĩa tình Việt Bắc trong những tháng ngày gian khổ và anh dũng ấy, khi mà những con người bất khuất đã đứng lên, chống lại áp bức, dưới cái nắng gay gắt hay bóng tối khủng khiếp của cuộc chiến tranh. Họ đã hiến dâng tất cả, từ những đêm dài dưới mưa gió giăng kín, đến những ngày nắng đổ lửa, để bảo vệ đất đai, bảo vệ tổ quốc và dân tộc.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Tố Hữu đã tạo ra những hình ảnh tượng trưng và tương phản như "lau xám / lòng son" để ca ngợi lòng dũng cảm và tinh thần kiên định của đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Dù phải đối diện với cảnh khốn khó, với sự thiếu thốn, nhưng tình yêu quê hương, tình yêu cách mạng vẫn luôn trong trái tim họ, mãnh liệt và sâu sắc. Những vần thơ của Tố Hữu không chỉ là những dòng chữ đẹp mắt mà còn là biểu tượng của lòng biết ơn và tự hào đối với Việt Bắc.
Việt Bắc không chỉ là một vùng đất, mà còn là biểu tượng của sự khởi nguồn và sức mạnh của cách mạng và kháng chiến. Nơi đây từng là trung tâm hoạt động của Việt Minh trong cuộc kháng chiến chống Nhật, với các cứ điểm quan trọng như Tân Trào và Hồng Thái, nơi diễn ra các sự kiện quan trọng của lịch sử dân tộc. Việt Bắc được mô tả như một chiến khu không thể xâm phạm, với núi non vây quanh như những tường thành sắt đá, rừng cây che phủ như một bức màn bảo vệ quân và dân.
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
Các địa danh lịch sử như những dãy núi hiền hòa, những ngôi làng bình dị, những mái đình linh thiêng và những cây đa trăm tuổi đã ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng mỗi người, từ những ai sinh sống tại đây đến những ai từng chạm vào vùng đất Việt Bắc. Những bức tranh về quê hương này không chỉ là những hình ảnh đẹp mắt mà còn là biểu tượng của một quá trình lịch sử đầy gian nan và biến động.
Cứ mỗi khi nhắc đến Việt Bắc, những hình ảnh về những dãy núi che phủ bằng mây trắng, những con đường quanh co dẫn về những ngôi đình thờ cổ xưa và những dòng sông mát lạnh lại hiện về trong tâm trí, khiến cho trái tim người ta rung động và nhớ nhung. Đó không chỉ là ký ức cá nhân mà còn là biểu tượng của sự kiên cường và bền bỉ của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống ách đô hộ, là niềm tự hào về một phần lịch sử vĩ đại của dân tộc.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
" Việt Bắc" không chỉ là một bài thơ đặc sắc của Tố Hữu, mà còn là biểu tượng của tinh thần kháng chiến và lòng yêu nước sâu sắc. Những câu thơ của bài thơ này không chỉ đơn thuần là những dòng văn, mà còn là những hình ảnh sống động về một giai đoạn lịch sử quan trọng của dân tộc.
Ngôn ngữ thơ của " Việt Bắc" không chỉ đơn thuần là một sự kết hợp của trữ tình ca dao và thi ca cổ điển, mà còn là sự phản ánh chân thực của cuộc sống và tinh thần của nhân dân Việt Bắc. Từng câu thơ đều mang trong mình tinh thần của sự hy sinh, lòng quyết tâm và lòng trung thành với tổ quốc.
Với hàng thập kỷ trôi qua, "Việt Bắc" vẫn tiếp tục gợi lên trong chúng ta những cảm xúc mạnh mẽ và niềm kiêng nể đối với những anh hùng dân tộc đã hy sinh và chiến đấu tại nơi này. Bài thơ này không chỉ là một bản hùng ca về quê hương mà còn là một lời nhắc nhở về lòng yêu nước và trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước và dân tộc.