Cây lau chứng kiến việc nàng Vũ Nương ngồi bên bờ Hoàng Giang than thở một mình rồi tự vẫn
Ngữ văn 9: Cây lau chứng kiến việc nàng Vũ Nương ngồi bên bờ Hoàng Giang than thở một mình rồi tự vẫn
Nhằm giúp các bạn học sinh lớp 9 học tập tốt môn văn, cũng như chuẩn bị kiến thức cho kì thi vào lớp 10, VnDoc đã sưu tầm và giới thiệu tài liệu "Cây lau chứng kiến việc nàng Vũ Nương ngồi bên bờ Hoàng Giang than thở một mình rồi tự vẫn. Viết văn bản kể lại câu chuyện đó theo ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba". Mời các bạn cùng tham khảo bài viết
Nội dung trong bài
Họ nhà lau tía chúng tôi đã sống trên bờ Hoàng Giang cả triệu năm rồi. Gia tộc tôi đã trải qua bao nhiêu thế hệ tôi cũng không thể nhớ. Nhưng gia đình tôi thường có thói quen truyền kể cho nhau nghe những "chuyện đời" xảy ra ở trên sông mà các thế hệ cha ông của chúng tôi từng chứng kiến. Bao nhiêu năm đã trôi qua và cũng đã quá già để nhớ về mọi chuyện, thế nhưng tôi vẫn còn nhớ như in cái ngày bi kịch đến với người thiếu phụ Vũ Nương.
Tôi nhớ ngày ấy tôi vẫn còn trẻ lắm. Tôi thường có thói quen thức rất khuya để khỏa mình trong nước dưới những đêm trăng. Nước sông Hoàng Giang ban đêm rất lặng và dịu mát. Trăng sáng, lại được đùa giỡn với mấy chị cá mương thì thật là thích thú.
Hôm ấy, đang uốn mình trong nước, tôi bỗng giật mình khi chợt nghe có tiếng ai đang nức nở. Tôi nín lặng, tiếng khóc ngày một rõ hơn. Không nghi ngờ gì nữa (tôi nghĩ), chắc có ai đó đang gặp một chuyện gì đó rất đau thương. Tôi quên ngay anh nước và mấy chị cá mương khi bắt đầu nghe giọng một người đàn bà than thở:
- Con lạy trời lạy đất, lạy hà bá dưới lòng sông! Thân con sao khổ quá. Những mong ngày chồng chinh chiến xa về là ngày gia đình đoàn viên sum họp. Vậy mà cái mong ước ấy giờ tan như mây như khói. Bao năm qua con đã phải chịu muôn ngàn cay đắng. Chồng đi chiến trận nơi xa, một mình con tần tảo chăm mẹ già nuôi con nhỏ. Rồi đến khi mẹ già lâm bệnh, con lại chạy đôn chạy đáo lo đủ chuyện thuốc thang mà vẫn không sao cứu được. Mẹ mất đi, con mất một nguồn động viên, quan tâm, chia sẻ. Ngay lúc ấy con đã phải tự nhắn nhủ mình: Phải nuôi hy vọng. Tất cả mọi điều tốt đẹp, con đã dành cho bé Đản thương yêu. Bao hy vọng được mẹ con con nuôi lớn từng ngày, vậy mà giờ đây ông trời lại gây cảnh trớ trêu mà cướp đi của con tất cả. Con còn sống để làm chi…
Tôi nghe những lời than thở mà đau xót cho người phụ nữ. Sống ở bên sông, tôi đã chứng kiến bao điều nhưng chưa bao giờ thấy chuyện nào đau lòng như vậy. Đằng sau những câu nói sầu não đến nát lòng kia hẳn phải là một bi kịch lớn. Tôi băn khoăn lắm nhưng chưa kịp suy đoán điều gì thì người đàn bà kia lại khóc:
- Bé Đản, con yêu! Mẹ thật có lỗi với con khi mẹ bỏ đi giữa lúc này. Nhưng mẹ đâu có thể chọn được một con đường nào khác. Cha đã nghi ngờ sự thủy chung của mẹ con ta. Vậy là bao công lao của chúng ta, cha con đố đi cả. Mẹ không thể sống trong sự ngờ vực của cha con. Mẹ không thể có lỗi với bà và chấp nhận những gì xấu xa mà mình không có. Mẹ có sự thủy chung và trinh tiết. Mẹ phải giữ được sự trong sạch của trong ánh mắt của những người hàng xóm. Mẹ không thể sống. Mẹ sẽ chết để thức tỉnh sự ghen tuông mù quáng của cha con. Đản thương yêu! Mẹ xin lỗi con vì tất cả.
Sau câu nói ấy, mặt nước bắt đầu khua động mạnh. Tôi giật mình và bàng hoàng nhận ra người đàn bà đang dấn thân về phía lòng sông. Yêu thương và oán giận. Nhưng chỉ là một cây lau nhỏ bé, tôi không thể làm được gì hơn. Nước bắt đầu dâng lên đến ngang người rồi đến gần hết cánh tay người phụ nữ. Người đàn bà đau khổ đã quyết trầm mình để giải những oan khiên.
Bờ sông Hoàng Giang vẫn lặng. Gió vẫn thổi mát rượi nhưng trăng đã khuất. Không gian tĩnh mịch đến ghê người khiến tôi vẫn nghe và nghe rất rõ những lời trăng trối cuối cùng của người phụ nữ khốn khổ kia.
- Trương Sinh chàng hỡi! Chàng đã phụ công của thiếp. Như một đứa trẻ thơ nghịch một trò chơi mà không cần suy nghĩ, chàng đã coi thường sự thủy chung của thiếp. Nay tình chồng nghĩa vợ đã chẳng thể dài lâu, thiếp chỉ mong sau cái chết này chàng có thể thấy nỗi đau mà thức tỉnh. Chàng hãy chăm sóc cho con, hãy nuôi dạy để cho nó được nên người.
Con xin lạy ngài hà bá. Con là Vũ Nương. Nay vì bị oan mà phải chọn tìm cái chết để giải mối oan tình. Thân này đã nguyện dâng cho hà bá. Nhưng con chỉ mong nếu thực lòng thủy chung son sắt thì xin cho được giái mối oan tình những mong chàng Trương thức tỉnh. Nhược bằng con đây có chút tư tình thì xin hà bá cứ đầy ải mãi mãi dưới tầng địa ngục.
Mặt sông Hoàng Giang đã lặng thinh. Tôi không còn nghe bất cứ một lời nói hay một âm thanh nào nữa. Vậy là hà bá đã đón người phụ nữ kia đi nhẹ nhàng nhưng chắc chắn không thanh thản.
Cả cuộc đời sống ở bên sông, chứng kiến dòng đời bao thay đổi với cả nỗi buồn lẫn niềm vui. Có những chuyện tôi đã quên, có những chuyện tôi còn nhớ nhưng không có chuyện nào tê tái như cái chết của Vũ Nương. Nghe hết câu chuyện ấy, tôi vừa giận anh chồng, lại vừa thương cho người vợ. Họ yêu thương nhau rồi lại gây những đau đớn cho nhau. Bao năm đã trôi qua, nỗi oan của Vũ Nương cũng đã được chính người chồng kia giải. Thế nhưng cho đến tận hôm nay tôi vẫn không hiểu được con người thật vĩ đại và cao cả biết bao nhưng tại sao vẫn có những lúc họ ích kỷ và nhỏ nhen làm vậy?
Trời mới tảng sáng. Đằng đông những đám mây màu xám đục đang chuyển dần sang sắc hồng phơn phớt. Cái lạnh của đêm thu đọng trong từng giọt sương bám đầy trên lá khiến tôi - một cây lau nhỏ - uốn mình run rẩy. Dòng Hoàng Giang ngái ngủ vẫn chậm chạp trôi xuôi. Không gian vắng lặng. Từ trong làng, thỉnh thoảng vọng ra tiếng gà gáy sớm.
Bỗng nhiên tôi nghe thấy có tiếng khóc tức tưởi, đứt quãng văng vẳng đâu đây. Một bóng người đang tiến đến gần bụi lau mọc sát bờ sông. Gương mặt người ấy rõ dần. Tôi nhận ra đó là Vũ Nương, vì nàng thường ra bờ sông giặt giũ vào mỗi sớm mai. Mọi khi, đứa con trai nhỏ vẫn hay lẽo đẽo theo sau mẹ, nhưng sao hôm nay nàng đi có một mình và lại khóc lóc sầu não thế kia?
Vũ Nương ngồi thụp xuống vạt cỏ ướt, gục mặt vào hai bàn tay. Đôi vai gầy của nàng cứ rung lên từng đợt, nom tội nghiệp vô cùng. Bỗng nàng vụt đứng dậy, ngoảnh mặt về phía Đông mà than rằng:
- Cầu xin trời cao đất dày hãy làm chứng cho tấm lòng son sắt thuỷ chung của Vũ Nương này! Suốt mấy năm chồng con ra trận xa nhà, tôi luôn một dạ chờ chồng, giữ gìn tiết hạnh, nào dám đơn sai. Gánh nặng mẹ già, con dai, tôi cố gắng lo cho vẹn toàn, chu tất. Những mong hết chiến tranh, vợ chồng, cha con sum họp cho thoả những ngày trông, đêm nhớ. Nào ngờ chỉ vì câu nói để dỗ dành đứa con thơ những lúc chỉ bóng hình in trên vách giữa đêm khuya, dưới ánh đèn hiu hắt: "Cha Đản về kìa!" mà ra nông nỗi. Trương Sinh chồng tôi vốn tính đa nghi. Tôi thanh minh, thề thốt thế nào cũng không tin, khăng khăn buộc tội tôi ăn ở hai lòng. Xét thấy mình sống trọn đạo dâu con, chồng vợ, chẳng làm điều gì khiến tổ tông, cha mẹ ô nhục, nay chỉ biết lấy cái chết để giải nỗi oan khiên. Trước khi chết, tôi xin có một lời nguyền: "Nếu tôi đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Ngược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và chịu mọi người phỉ nhổ.
Nói đoạn, nàng leo lên mỏm đất nhô ra sông, gieo mình xuống nước. Trời đất, thần thánh chứng giám lòng thành của Vũ Nương nên sai các nàng Tiên đưa nàng về thuỷ cung chung sống với Linh Phi.
Ít ngày sau, cũng chính đưa con chỉ bóng Trương Sinh in trên vách buồng lúc đêm khuya mà nói: "Cha Đản lại về kìa!". Hiểu ra, Trương Sinh khóc vật vã, ân hận nhưng đã quá muộn.
Hồn Vũ Nương hiện về báo mộng cho Trương Sinh là chiều tối ngày mai hãy bế con ra bến Hoàng Giang để gặp nàng. Theo lời vợ dặn, Trương Sinh lập đàn tế vợ ở ven sông. Lát sau, chàng thấy một đoàn ngựa xe, võng lọng ẩn hiện thấp thoáng giữa dòng. Vũ Nương nói vọng vào những lời thương nhớ và căn dặn chồng chăm sóc chu đáo đứa con thơ. Thoáng chốc, tất cả mờ dần rồi tan biến.
Trương Sinh bồng con đứng chết lặng như hoá đá. Cơn ghen tuông vô lối của chàng đã gây ra cảnh sinh li tử biệt. Dù chàng có tự trách mình đến đâu đi chăng nữa thì người vợ xinh đẹp, nết na cũng không thể trở về. Cảm thương Vũ Nương, dân làng lập miếu thờ nàng ngay cạnh khóm lau, chỗ nàng ngồi than thở trước khi trầm mình xuống Hoàng Giang.
Bao năm đã trôi qua, nỗi oan của Vũ Nương cũng đã được chính người chồng kia giải. Thế nhưng cho đến tận hôm nay tôi vẫn không hiểu được con người thật vĩ đại và cao cả biết bao nhưng tại sao vẫn có những lúc họ ích kỷ và nhỏ nhen làm vậy?
Họ nhà lau tía chúng tôi đã sống trên bờ Hoàng Giang cả triệu năm rồi. Gia tộc tôi đã trải qua bao nhiêu thế hệ tôi cũng không thể nhớ. Nhưng gia đình tôi thường có thói quen truyền kể cho nhau nghe những "chuyện đời" xáy ra ở trên sông mà các thế hệ cha ông của chúng tôi từng chứng kiến. Bao nhiêu năm đã trôi qua và cũng đã quá già để nhớ về mọi chuyện, thế nhưng tôi vẫn còn nhớ như in cái ngày bi kịch đến với người thiếu phụ Vũ Nương.
Tôi nhớ ngày ấy tôi vẫn còn trẻ lắm. Tôi thường có thói quen thức rất khuya để khỏa mình trong nước dưới những đêm trăng. Nước sông Hoàng Giang ban đêm rất lặng và dịu mát. Trăng sáng, lại được đùa giỡn với mấy chị cá mương thì thật là thích thú.
Hôm ấy, đang uốn mình trong nước, tôi bỗng giật mình khi chợt nghe có tiếng ai đang nức nở. Tôi nín lặng, tiếng khóc ngày một rõ hơn. Không nghi ngờ gì nữa (tôi nghĩ), chắc có ai đó đang gặp một chuyện gì đó rất đau thương. Tôi quên ngay anh nước và mấy chị cá mương khi bắt đầu nghe giọng một người đàn bà than thở:
- Con lạy trời lạy đất, lạy hà bá dưới lòng sông! Thân con sao khổ quá. Những mong ngày chồng chinh chiến xa về là ngày gia đình đoàn viên sum họp. Vậy mà cái mong ước ấy giờ tan như mây như khói. Bao năm qua con đã phải chịu muôn ngàn cay đắng. Chồng đi chiến trận nơi xa, một mình con tần tảo chăm mẹ già nuôi con nhỏ. Rồi đến khi mẹ già lâm bệnh, con lại chạy đôn chạy đáo lo đủ chuyện thuốc thang mà vẫn không sao cứu được. Mẹ mất đi, con mất một nguồn động viên, quan tâm, chia sẻ. Ngay lúc ấy con đã phải tự nhắn nhủ mình: Phải nuôi hy vọng. Tất cả mọi điều tốt đẹp, con đã dành cho bé Đản thương yêu. Bao hy vọng được mẹ con con nuôi lớn từng ngày, vậy mà giờ đây ông trời lại gây cảnh trớ trêu mà cướp đi của con tất cả. Con còn sống để làm chi...
Tôi nghe những lời than thở mà đau xót cho người phụ nữ. Sống ở bên sông, tôi đã chứng kiến bao điều nhưng chưa bao giờ thấy chuyện nào đau lòng như vậy. Đằng sau những câu nói sầu não đến nát lòng kia hẳn phải là một bi kịch lớn. Tôi băn khoăn lắm nhưng chưa kịp suy đoán điều gì thì người đàn bà kia lại khóc:
- Bé Đản, con yêu! Mẹ thật có lỗi với con khi mẹ bỏ đi giữa lúc này. Nhưng mẹ đâu có thể chọn được một con đường nào khác. Cha đã nghi ngờ sự thủy chung của mẹ con ta. Vậy là bao công lao của chúng ta, cha con dẻo đố đi cả. Mẹ không thể sống trong sự ngờ vực của cha con. Mẹ không thẻ có lỗi với bà và chấp nhận những gì xấu xa mà mình không có. Mẹ có sự thủy chung và trinh tiết. Mẹ phải giữ được sự trong sạch của trong ánh mắt của những người hàng xóm. Mẹ không thể sống. Mẹ sẽ chết để thức tỉnh sự ghen tuông mù quáng của cha con. Đản thương yêu! Mẹ xin lỗi con vì tất cả.
Sau câu nói ấy, mặt nước bắt đầu khua động mạnh. Tôi giật mình và bàng hoàng nhận ra người đàn bà đang dấn thân về phía lòng sông. Yêu thương và oán giận. Nhưng chỉ là một cây lau nhỏ bé, tôi không thể làm được gì hơn. Nước bắt đầu dâng lên đến ngang người rồi đến gần hết cánh tay người phụ nữ. Người đàn bà đau khổ đã quyết trầm mình để giải những oan khiên.
Bờ sông Hoàng Giang vẫn lặng. Gió vẫn thổi mát rượi nhưng trăng đã khuất. Không gian tĩnh mịch đến ghê người khiến tôi vẫn nghe và nghe rất rõ những lời trăng trối cuối cùng của người phụ nữ khốn khổ kia.
- Trương Sinh chàng hỡi! Chàng đã phụ công của thiếp. Như một đứa trẻ thơ nghịch một trò chơi mà không cần suy nghĩ, chàng đã coi thường sự thủy chung của thiếp. Nay tình chồng nghĩa vợ đã chẳng thể dài lâu, thiếp chỉ mong sau cái chết này chàng có thể thấy nỗi đau mà thức tỉnh. Chàng hãy chăm sóc cho con, hãy nuôi dạy để cho nó được nên người.
Con xin lạy ngài hà bá. Con là Vũ Nương. Nay vì bị oan mà phải chọn tìm cái chết để giải mối oan tình. Thân này đã nguyện dâng cho hà bá. Nhưng con chỉ mong nếu thực lòng thủy chung son sắt thì xin cho được giái mối oan tình những mong chàng Trương thức tỉnh. Nhược bằng con đây có chút tư tinh thì xin hà bá cứ đầy ải mãi mãi dưới tầng địa ngục.
Mặt sông Hoàng Giang đã lặng thinh. Tôi không còn nghe bất cứ một lời nói hay một âm thanh nào nữa. Vậy là hà bá đã đón người phụ nữ kia đi nhẹ nhàng nhưng chắc chắn không thanh thản.
Cả cuộc đời sống ở bên sông, chứng kiến dòng đời bao thay đổi với cả nỗi buồn lẫn niềm vui. Có những chuyện tôi đã quên, có những chuyện tôi còn nhớ nhưng không có chuyện nào tê tái như cái chết của Vũ Nương. Nghe hết câu chuyện ấy, tôi vừa giận anh chồng, lại vừa thương cho người vợ. Họ yêu thương nhau rồi lại gây những đau đớn cho nhau. Bao năm đã trôi qua, nỗi oan của Vũ Nương cũng đã được chính người chồng kia giải. Thế nhưng cho đến tận hôm nay tôi vẫn không hiểu được con người thật vĩ đại và cao cả biết bao nhưng tại sao vẫn có những lúc họ ích kỷ và nhỏ nhen làm vậy?
Một buổi chiều êm đềm, làn nước mùa thu phẳng lặng yên ắng, những chiếc lá vàng đã bắt đầu rơi nhè nhẹ bên hồ. Tôi-Một cây lau đã tồn tại ở đây từ rất lâu rồi. Chúng tôi sống ở đây luôn luôn thoải mái, lạc quan, sớm mai làm bạn cùng đàn chim hót vang cả một cánh đồng. Đêm về lại tâm sự cùng ánh trăng sáng lung linh trên trời xanh. Chứng kiến biết bao câu chuyện sầu vui của đời người, nhưng… nỗi oan ức và cái chết đau đớn của nàng Vũ Nương vẫn là câu chuyện buồn thảm, khiến tôi đau lòng nhất.
Tôi vẫn còn nhớ hôm ấy là một buổi xế chiều yên bình, tôi đang vi vu, đưa mắt ngắm nhìn ánh hoàng hôn rực rỡ trên bầu trời thì bất chợt có tiếng nói từ đâu cất lên:
“Trời xanh chứng giám cho con! Con Vũ Thị Thiết, là con của một gia đình nghèo khó, con và chàng Trương mến nhau nên cả hai thành vợ thành chồng. Cả đời con nào mong giàu sang phú quý, chỉ mong chồng sớm ngày đi lính bình an mà trở về, gia đình đoàn tụ. Nhưng con nào ngờ chính người mà mình tin tưởng, là chỗ dựa tinh thần duy nhất lại nghi ngờ con thất tiết….”
Không ai xa lạ, người đó chính là Vũ Nương. Nàng chiều nào cũng ra đây giặt giũ áo quần, khi trước tôi nghe ngóng những người trong làng mới biết được nàng xuất thân từ gia đình nghèo khó, quanh năm vất vả, nhưng lại rất hiền dịu, tư dung tốt đẹp, là cô con dâu rất hiếu thảo. Khi mẹ chồng lâm bệnh, nàng đã cố gắng chăm lo cho mẹ từng tý một, nàng xem mẹ chồng như mẹ ruột, luôn quan tâm chạy chữa thuốc than cho bà hết sức ân cần chu đáo. Tôi còn biết được khi chồng nàng ra quân, nàng đã có mang và sanh ra bé Đản. Vừa chăm lo cho mẹ vừa chăm lo cho con, nàng dù vất vả nhưng vẫn cố hết sức làm tròn bổn phận một người dâu con, một người mẹ hiền. Vì lẽ đó mà tôi rất quý nàng, tôi cứ ngỡ những khổ cực của nàng sẽ được đền đáp một cách xứng đáng nhưng nào ngờ….
Vũ Nương khóc, ngẩng mặt lên trời xanh mà than rằng:
“Con xưa nay một lòng một dạ thủy chung với chồng. Suốt mấy năm nay con lúc nào cũng mong ngóng chàng trở về, để vợ chồng sớm ngày đoàn tụ yên vui. Mấy năm qua, mẹ chồng lâm bệnh nặng, con chạy khắp làng khắp xóm, vay chút ít ngân lượng để lo thuốc than cho mẹ. Thế nhưng số trời đã định, mẹ con không qua khỏi. Lòng con đau nhói cả ruột cả gan, lúc này con vừa lo ma chay tế lễ cho mẹ vừa chăm sóc bé Đản. Đản nó rất nhớ cha, mỗi tối con hay bế Đản ra sông, con bảo mẹ con ta mỗi ngày cứ đến đây chờ mong, chắc chắn sẽ có ngày cha con quay về, gia đình mình sẽ đoàn tụ. Nhưng khi chàng trở về, tính khí cáu gắt, chàng nghi ngờ con thất tiết, dù con có nài nỉ giải thích, có moi móc tim gan ra mà thanh minh thì chàng vẫn để ngoài tai. Cớ sao cuộc đời của con lại trớ trêu như vậy? Người đầu ấp tay gối cùng con mỗi đêm lại miệt thị con, xua đuổi con….Con khổ quá rồi!!!”
Nghe đến đây, tôi đã không kìm được lòng của mình. Một người phụ nữ hiền hậu, tư dung tốt đẹp, luôn hết mình vì chồng vì con. 3 năm nàng rõng rã một thân vừa chăm mẹ già ốm đau, vừa nuôi con thơ bé nhỏ. Trái tim của nàng lúc nào cũng hướng về chàng Trương. Vũ Nương không như những người phụ nữ khác, nàng mong chàng đi lính trở về không cần phải đeo ấn phong hầu, chỉ mong chàng bình an vô sự để gia đình được đoàn tụ êm ấm. Thế mà giờ đây nàng lại bị người mà mình yêu nhất nghi oan trinh tiết, những lời miệt thị rủa xả của Trương Sinh như nhát dao khứa vào tận xương tủy của nàng, để nàng đau khổ mà tìm đến cái chết minh oan cho lòng mình.
Nói đoạn, Vũ Nương gieo mình xuống dòng nước. Tôi bàng hoàng, đau xót, tôi muốn giúp nàng nhưng tôi chỉ là một cây lau bé nhỏ, chẳng làm được gì. Những cây lau xung quanh tôi đều nín lặng đi, những cơn gió thanh bình khi nãy đã tan nhanh tự lúc nào, thay vào đó là những cơn gió lạnh buốt giá, cơn gió mang một tâm sự, một nỗi buồn da diết cho số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, dù tâm hồn họ trong sạch, một lòng một dạ thủy chung với chồng nhưng cái định kiến oan nghiệt trong xã hội thối nát ấy đã đẩy họ vào bức tường tăm tối!
Cái chết đau đớn của Vũ Nương mãi là nỗi ám ảnh mà trong suốt cuộc đời có lẽ tôi không thể nào quên đi được. Dù chuyện đã trôi qua lâu, nhưng mỗi khi nhớ lại, lòng tôi lại dấy lên một sự xót xa vô bờ. Tôi thương Vũ Nương, nàng không đáng để chịu những uất ức chua chát ấy. Xã hội phong kiến thối rửa đã khiến số phận của người phụ nữ trở nên lênh đênh, khổ sở biết bao. Dù sự trong sạch của Vũ Nương đã được minh bạch, nhưng nỗi đau để lại cho Trương Sinh, cho bé Đản là không thể nào xóa nhòa được. Trương Sinh mãi mãi mất đi người vợ đã dành hết tình cảm yêu thương mình, bé Đản mãi mãi mất đi một người mẹ đã tảo tần, nuôi dạy mình, thay ba vun đắp tình thương cho mình trong những năm ba đi chiến trận.
Tôi nghĩ đây là một bài học quý giá cho tất cả mọi người, sự ghen tuông thái quá đã dẫn đến bi kịch cho Vũ Nương. Chính vì thể mà trong cuộc sống, phải luôn tin tưởng vào người thân, người mà mình tin yêu. Đừng để ghen tuông khiến con người trở nên mù quáng, dẫn đến những bi kịch đau lòng không đáng có.