Cơ sở tâm lý
Cơ sở tâm lý được chúng tôi sưu tầm và giới thiệu nhằm giúp các bạn nắm bắt kiến thức môn học một cách tốt hơn để có thể học và hoàn thành bài thi môn học một cách hiệu quả.
Lưu ý: Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài viết.
Bài: Cơ sở tâm lý
Các lý thuyết về động cơ
Động cơ là một vấn đề phức tạp, do đó có nhiều quan điểm của các tác giả khác nhau được đưa ra xoay quanh chủ đề này. Các thuyết động cơ nói chung chia làm hai nhóm: theo nội dung và theo quá trình. Các thuyết theo nội dung theo đuổi việc giải thích nguyên nhân của tình trạng động cơ. Các thuyết theo quá trình sẽ theo đuổi việc giải thích vận hành của tình trạng động cơ. Chúng ta sẽ xem xét một số thuyết động cơ.
Thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow
Trong hệ thống lý thuyết về động cơ - động viên, thuyết cấp bậc nhu cầu của Abraham Maslow là thuyết có được sự hiểu biết rộng lớn. Ông cho rằng hành vi của con người bắt nguồn từ nhu cầu và những nhu cầu của con người được sắp xếp theo một thứ tự ưu tiên từ thấp đến cao về tầm quan trọng. Cấp bậc được xếp thành 5 bậc như hình 1.4
Nhu cầu sinh lý: Là nhóm nhu cầu bậc thấp nhất, đảm bảo cho con người tồn tại như các nhu cầu về ăn, uống, mặc, tồn tại, phát triển nòi giống và các nhu cầu cơ thể khác. Đây là nhu cầu cơ bản mà mỗi cá nhân cần phấn đấu đạt được trước khi tới nhu cầu bậc thứ 2, cao hơn. Maslow cho rằng khi những nhu cầu này chưa được thỏa mãn tới một mức độ cần thiết để duy trì cuộc sống thì những nhu cầu khác sẽ không thúc đẩy con người.
Hình 1.4. Hệ thống cấp bậc nhu cầu của A. Maslow
Nhu cầu an toàn: Là nhu cầu cẩm nhận được an toàn, không bị đe dọa về vật chất và tinh thần, làm cản trở các hoạt động hàng ngày như sự đe dọa mất việc, v.v...
Nhu cầu xã hội: là nhu cầu về tình yêu, được chấp nhận, giao tiếp, giao lưu, nhu cầu hòa nhập vào xã hội, v.v...
Nhu cầu được tôn trọng: Là nhu cầu muốn được người khác tôn trọng mình, coi mình là quan trọng. Nhưng nhu cầu loại này dẫn tới những thỏa mãn như quyền lực, uy tín, địa vị và lòng tự tin.
Nhu cầu tự thể hiện: Là nhu cầu bậc cao nhất, khi bốn nhu cầu bậc thấp đã được thỏa mãn, thì con người tìm cách vươn tới nhằm thể hiện mình ở mức cao nhất, hay phát huy hết tiềm năng của con người.
Maslow đã chia các nhu cầu thành hai cấp bao gồm cấp cao và cấp thấp. Các nhu cầu cấp thấp là nhu cầu sinh lý và an toàn. Các nhu cầu cấp cao bao gồm nhu cầu xã hội, tự trọng và tự thể hiện mình. Sự khác biệt giữa hai loại này là các nhu cầu cấp thấp được thỏa mãn chủ yếu từ bên ngoài, trong khi đó các nhu cầu cấp cao lại được thỏa mãn chủ yếu là từ nội tại của con người.
Thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow có một ẩn ý quan trọng đối với các nhà quản trị đó là muốn động viên người lao động thì điều quan trọng là phải hiểu người lao động đang ở cấp độ nhu cầu nào. Từ sự hiểu biết đó cho phép các nhà quản lý đưa ra các giải pháp phù hợp cho việc thỏa mãn nhu cầu của người lao động đồng thời đảm bảo đạt đến các mục tiêu của tổ chức. Trong quá trình giao dịch người tiến hành giao dịch cần phải có một khả năng nhận diện và khêu gợi ở người khác những nhu cầu cần được thỏa mãn càng cao, thì năng suất lao động và hiệu suất làm việc của con người cũng tăng lên. Phát hiện và thỏa mãn nhu cầu của đối tác giao dịch hợp lý, kịp thời là chìa khóa đảm bảo cho cuộc giao dịch thành công.
Học thuyết hai nhân tố của Frederick Herzberg
Con người có 2 nhóm nhu cầu, về cơ bản, độc lập với nhau và ảnh hưởng tới hành theo những cách khác nhau bao gồm các nhân tố duy trì và các nhân tố động viên.
Các nhân tố được Herzberg liệt kê như sau:
Các nhân tố duy trì | Các nhân tố động viên |
1. Phương pháp giám sát 2. Hệ thống phân phối thu thập 3. Quan hệ với đồng nghiệp 4. Điều kiện làm việc 5. Chính sách của công ty 6. Cuộc sống cá nhân 7. Địa vị 8. Quan hệ qua lại giữa các cá nhân | 1. Sự thách thức của công việc 2. Các cơ hội thăng tiến 3. Ý nghĩa của các thành tựu 4. Sự nhận dạng khi công việc được thực hiện 5. Ý nghĩa của các trách nhiệm |
Bảng 1.1. Hai nhóm nhân tố ảnh hưởng đến hành vi người lao động
Đối với các nhân tố động viên, nếu giải quyết tốt thì sẽ tạo ra sự thỏa mãn và thúc đẩy nhân viên làm việc tích cực hơn. Nhưng nếu giải quyết không tốt thì tạo ra tình trạng không thỏa mãn chứ chưa chắc đã bất mãn.
Đối các yếu tố duy trì, nếu giải quyết không tốt thì tạo ra trạng thái bất mãn ở người lao động. Nhưng nếu giải quyết tốt thì tạo ra sự không bất mãn chứ chưa chắc đã thỏa mãn.
Các nhân tố duy trì | Các nhân tố động viên | ||
Ảnh hưởng của các nhân tố | |||
Khi đúng | Khi sai | Khi đúng | Khi sai |
Không có sự bất mãn | Bất mãn | Thỏa mãn | Không thỏa mãn |
Không động viên | Ảnh hưởng tiêu cực | Động viên được tăng cường | Không có sự bất mãn |
Bảng 1.2. Các ảnh hưởng của hai nhóm nhân tố khi nhà quản trị tác động đúng/sai
Từ thuyết này, nhà quản trị cần lưu ý:
Những nhân tố làm thỏa mãn người lao động là khác nhau với các nhân tố tạo ra sự bất mãn. Vì vậy, không thể mong đợi sự thỏa mãn của người lao động bằng cách đơn giản là xóa bỏ các nguyên nhân gây ra sự bất mãn.
Việc động viên người lao động đòi hỏi phải giải quyết thích đáng và đồng thời cả hai nhóm nhân tố duy trì và động viên. Trách nhiệm của đội ngũ quản trị là phải loại trừ sự bất mãn và tạo ra sự thỏa mãn. Không thể chỉ chú trọng một nhóm nào cả.
Học thuyết của David Mc. Clelland
David Mc. Clelland cho rằng con người có 3 nhu cầu cơ bản: nhu cầu thành tựu, nhu cầu liên minh và nhu cầu quyền lực.
Nhu cầu thành tựu. Người có nhu cầu thành tựu cao là người luôn theo đuổi việc giải quyết công việc tốt hơn. Họ muốn vượt qua các khó khăn, trở ngại. Họ muốn cảm thấy rằng thành công hay thất bại của họ là do kết quả của những hành động của họ. Điều này có thể hiểu là họ thích các công việc mang tính thách thức cao hơn những người khác. Để động viên những người có nhu cầu thành tựu cao, người quản lý cần:
- Giao cho họ những công việc mang trách nhiệm cá nhân;
- Đặt mục tiêu công việc cao hơn một chút so với yêu cầu;
- Phản hồi nhanh chóng về kết quả làm việc của họ;
- Để cho họ tự do vạch kế hoạch làm việc.
Nhu cầu liên minh. Giống như nhu cầu xã hội của A. Maslow - được chấp nhận, tình yêu và bạn bè. Những người lao động có nhu cầu liên minh mạnh mẽ sẽ làm việc tốt những loại công việc mà sự thành công của nó đòi hỏi kỹ năng quan hệ và sự hợp tác. Những người có nhu cầu liên minh mạnh rất thích những công việc mà qua đó tạo ra sự thân thiện và các quan hệ xã hội.
Nhu cầu quyền lực. Là nhu cầu kiểm soát và ảnh hưởng môi trường làm việc của người khác, kiểm soát và ảnh hưởng tới người khác. Một số người cho rằng nhà quản trị thành công là người có nhu cầu quyền lực mạnh nhất, kế đến là nhu cầu thành tựu và sau cùng là nhu cầu liên minh.
Thuyết E.R.G của Clayton Alderfer
Clayton Alderfer là nhà giáo sư đại học Yale đã tiến hành sắp xếp lại nghiên cứu của Maslow và đưa ra kết luận của mình. Ông cho rằng hành động của con người bắt nguồn từ nhu cầu - cũng giống như các nhà nghiên cứu khác - song ông cho rằng con người cùng một lúc theo đuổi việc thỏa mãn 3 nhu cầu cơ bản là nhu cầu tồn tại, nhu cầu quan hệ và nhu cầu phát triển.
Nhu cầu tồn tại bao gồm những đòi hỏi vật chất tối cần thiết cho sự tồn tại của con người, nhóm nhu cầu này có nội dung giống như nhu cầu sinh lý và an toàn của Maslow.
Nhu cầu quan hệ là những đòi hỏi về những quan hệ và tương tác qua lại giữa các cá nhân, nhu cầu quan hệ bao gồm nhu cầu xã hội và một phần nhu cầu tự trọng, tức là phần nhu cầu tự trọng được thỏa mãn từ bên ngoài.
Nhu cầu phát triển là đòi hỏi bên trong mỗi con người cho sự phát triển cá nhân, nó bao gồm nhu cầu tự thể hiện và một phần nhu cầu tự trọng, tức là phần nhu cầu tự trọng được thỏa mãn từ nội tại.
Alderfer cho rằng con người đồng thời theo đuổi cả 3 nhu cầu đó và nếu như một nhu cầu nào đó bị cản trở thì người ta dồn nỗ lực vào để thỏa mãn những nhu cầu khác.
---------------------------------------
Chúng tôi đã giới thiệu nội dung bài Cơ sở tâm lý về huyết động cơ nói chung chia làm hai nhóm: theo nội dung và theo quá trình, các thuyết theo nội dung theo đuổi việc giải thích nguyên nhân của tình trạng động cơ..
Trên đây, VnDoc đã giới thiệu tới các bạn Cơ sở tâm lý. Ngoài ra, các bạn có thể tham khảo thêm nhiều tài liệu Cao đẳng - Đại học cũng như Cao học khác để phục vụ quá trình nghiên cứu hiệu quả hơn.