Có ý kiến: "Truyện cổ tích không chỉ dạy ta biết yêu biết ghét, mà còn dạy ta biết ước mơ" bằng hiểu biết của mình bày tỏ suy nghĩ về nhận định trên
Những bài văn mẫu hay lớp 10
Văn mẫu lớp 10: Có ý kiến: "Truyện cổ tích không chỉ dạy ta biết yêu biết ghét, mà còn dạy ta biết ước mơ" bằng hiểu biết của mình bày tỏ suy nghĩ về nhận định trên gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
Có ý kiến: "Truyện cổ tích không chỉ dạy ta biết yêu biết ghét, mà còn dạy ta biết ước mơ" bằng hiểu biết của mình bày tỏ suy nghĩ về nhận định trên mẫu 1
Chúng ta đều biết rằng trong xã hội phong kiến xưa kia, có sự phân hóa về giàu nghèo, về giai cấp có hàng trăm thứ luật lệ hà khắc và biết bao tầng áp bức, bóc lột đè nặng lên cuộc sống của người dân. Mặc dù, ở họ cũng đã nhen nhóm sự phản kháng, song với thời đại và hoàn cảnh đó, họ chưa thể làm thay đổi được cả xã hội. Điều duy nhất họ có thể làm là ước mơ, là gửi gắm những khát vọng trong tác phẩm văn chương, đặc biệt là truyện cổ tích, có ý kiến cho rằng.
“Truyện cổ tích không chỉ dạy ta biết yêu, biết ghét mà còn dạy ta biết ước mơ"
Nhận định này được soi sáng trong rất nhiều tác phẩm như. Chử Đồng Tử, Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Trầu cau, Sọ dừa, Thạch Sanh....
Đọc truyện cổ tích, ta bắt gặp những giấc mơ đẹp của người bình dân xưa. Song có khi nào ta tự hỏi tại sao họ phải mơ ước không? Con người ta mơ khi hiện thực không đáp ứng được sự mong mỏi, cho nên phải hướng về một thế giới khác, tươi đẹp hơn, đúng như mong muốn của mình. Người xưa cũng vậy, cuộc sống của họ là một bể khổ tưởng như khó lòng thoát ra khỏi được. Một cuộc sống luôn bị thiên tai, áp bức chiến tranh...Một cuộc sống bị đè nén bóc lột cả về vật chất lẫn tinh thần. Họ phải làm việc cực nhọc ngày qua ngày, năm qua năm nhưng luôn phải chịu đói khổ cực nhọc như anh nông dân nghèo Thạch Sanh... Họ luôn bị khinh thường, rẻ rúng, bị tước đoạt quyền được yêu thương, quyền làm người như cô Tấm, Sọ Dừa...Vì thế mà họ phải mơ. Mơ cũng là một cách phủ nhận, phản kháng thực tại để hướng về chân, thiện, mỹ, hướng về thế giới khác đẹp đẽ, ở họ có được sự bình đẳng trong cuộc sống, trong hôn nhân, được sống tự do, nhân nghĩa...
Khát vọng công bằng trong xã hội, một khát vọng thường trực mà ta luôn gặp trong truyện cổ tích. Dễ dàng thấy nhân vật chính nằm trong chuyện là những con người riêng, những người dị tạng xấu xí, những kẻ làm thuê, những người nghèo khó… Họ bị ngược đãi. Cô Tấm bị dì ghẻ hắt hủi, bắt làm việc tối ngày, anh nông dân bị phú ông lừa bóc lột sức lao động một cách thậm tệ. Sọ Dừa bị mọi người con thường, không được coi như con người...Họ bị đối xử bất công vậy đó! Nhưng họ có thể làm gì được nay khi chỉ là thân phận thấp cổ bé họng, thân phận con sâu cái kiến? Bởi thế họ luôn mong ước có những thế lực siêu nhiên như thần, Phật, bụt, tiên để giúp đỡ họ, làm cho họ đổi đời. Nhưng thế lực này tất nhiên không xuất hiện để thuyết minh cho một tôn giáo nào mà họ chính là đại diện cho cái thiện, cho lẽ phải, cho khát vọng của người dân về sự công bằng. Sự công bằng ở đây tức là sự chiến thắng của cái thiện trước những thế lực đen tối, độc ác. Chính vì thế, trong truyện ta mới bắt gặp những kết thúc có hậu. Thạch Sanh nghèo lấy được công chúa, cô Tấm đáng thương trở thành hoàng hậu, Chử Đồng Tử - chàng trai nghèo đánh cá - kết duyên với công chúa con vua. Rõ ràng ở đây là khát vọng phản kháng của họ. Cố nhiên chỉ là mơ ước.
Không chỉ dừng lại ở đó, người xưa còn ao ước được tự do hôn nhân, tự mình quyết định lấy hạnh phúc của đời mình. Ước mơ này là chính đáng, bởi xã hội phong kiến đã trói buộc con người đặt biệt là người phụ nữ trong các luật lệ hà khắc như cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, nam nữ thụ thụ bất thân, tam tòng tứ đức. Vì thế mà tự do hôn nhân có thể coi như mơ ước rất thường trực quan trọng đối với người xưa. Đó là sự giải phóng về tinh thần với họ. Nói về vấn đề này. Chử Đồng Tử hay cụ thể hơn là cuộc hôn nhân Chử Đồng Tử - Tiên Dung là một minh chứng hùng hồn. Nếu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người con gái lý tưởng phải là.
Êm đềm nước rủ màn che.
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Con trai lý tưởng phải là:
Phong thư tài mạo tót vời.
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa.
Cuộc hôn nhân đẹp phải là giữa kẻ quốc sắc với kẻ thiên tài, gắn liền với đàn, thơ, lầu sách. Thì cách đó rất lâu, nhân dân đã có quan niệm tiến bộ: hôn nhân đẹp là giữa hai con người mang trong mình phẩm chất chứ không cần bất cứ điều kiện gì khác. Thế cho nên, Đồng Tử, Tiên Dung mới lấy nhau. Hai con người, một hiếu thảo, một tự do, phóng khoáng. Hai con người một chỉ là chàng trai đánh cá cực nghèo ở dưới đáy cùng của xã hội với một là công chúa lá ngọc cành vàng sống vương giả nơi đỉnh cao của giàu sang. Họ đã vượt qua bức tường giai cấp dày đặc ngăn cách, đã bỏ qua ràng buộc, mọi luật lệ hà khắc. Họ đã đến với nhau bằng sự cảm thông về cuộc đời nhau, bằng tiếng gọi trái tim, tiếng nói của tình yêu nguyên thủy sơ khai. Và hơn thế nữa. Tiên Dung lại là người đề nghị cưới Đồng Tử. Điều đó vừa cho thấy sự táo bạo ở nàng, vừa khẳng định vai trò của người phụ nữ trong hôn nhân. Tư tưởng này thật tiến bộ, nó vượt xa quan niệm đạo đức lạc hậu của phong kiến. Nếu như mãi đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, ta mới gặp một nàng Kiều " xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" để đến với người yêu, thì cách đó bao nhiêu thế kỷ - cha ông ta đã tưởng tượng ra một Tiên Dung còn táo bạo hơn thế. Tại sao vậy? Theo em đây là một vấn đề rất con người. Một vấn đề mà từ ngày xưa, thậm chí là đến thế kỷ XX vẫn tồn tại nóng bỏng, khiến cho bao nhà thơ, nhà văn phải nhiều lần lên tiếng.
Và như chúng ta đã biết, người Việt Nam xưa và nay đều sống rất đậm tình, nặng nghĩa, chung thủy sắt son. Bởi thế mà họ còn gửi gắm niềm tin mong mỏi của mình được chung sống hạnh phúc nhân nghĩa,vẹn toàn trước sau với mọi người trong truyện cổ tích. Trầu cau là một trong những câu chuyện rất tiêu biểu làm sáng rõ ước mơ này. Trầu cau kết thúc bằng cái chết vĩnh viễn của ba nhân vật chính. Người em, người anh và người vợ. Cái chết của họ là một bài học luôn nhắc nhở mọi người phải sống bằng chính mình, phải biết yêu thương, độ lượng, tránh sự nghi kị, ghen tuông vu vơ. Bởi tất cả đều có thể phải trả giá rất đất. Một gia đình đang sống yên vui, hòa thuận là thế mà chỉ vì một phút nhận nhầm của người vợ, ôm chầm lấy người em mà khiến người anh sinh ra ghét bỏ, hắt hủi em. Người vợ không có lỗi, chỉ vì quá nhớ thương, mong mỏi gặp chồng nên sinh ra nhầm lẫn. Người anh mới có lỗi, đã ghen tuông vu vơ, hiểm nhầm vợ và em... Cuối cùng, họ chết đi, hóa thành tảng đá, dây trầu, cây cau đứng bên nhau. Và khi ăn lá trầu với quả cau và một tí vôi thì làm môi đỏ miệng thơm. Điều đó nói lên rằng nếu vợ chồng yêu thương nhau thông cảm cho nhau. Anh em hòa thuận đoàn kết thì gia đình sẽ êm ấm.
Không chỉ mong muốn được sống hết mình mà người xưa còn muốn được sống tự do, phóng khoáng, lánh đục tìm trong giữa thiên nhiên, đất trời. Việc Chử Đồng Tử và Tiên Dung sau khi lấy nhau đã ở lại trong nhân dân để tìm kế sinh nhai chứng tỏ rằng họ muốn sống gần gũi với mọi người, muốn tự lao động bằng sức mạnh để tạo lập cuộc sống. Họ sống thanh cao không ham tiền tài, không màng danh lợi. Vì thế khi Đồng Tử gặp nhà sư Phật Quang thì cũng không còn nghĩ gì đến chuyện buôn bán, đến làm giàu mà quyết chí học đạo tu tiên. Phải chăng họ muốn thoát tục, muốn tìm về, muốn hướng tới cái đẹp thanh cao như cõi tiên, cõi bồng lai. Đặc biệt, với chi tiết chỉ trong một đêm mà nơi Đồng Tử và Tiên Dung ở bay cả lên trời thì khát vọng của họ đã được đẩy lên đỉnh cao. Họ muốn sống với cả vũ trụ bao la, với cả đất trời vĩnh cửu, họ không hề có sự trốn đời, bế tắc vì họ hoàn toàn có thể chống lại quân triều đình với thành cao, hào sâu và hàng trăm quân lính...Quả thật, tâm hồn của người xưa đã vượt ra ngoài khuôn khổ của xã hội.
Khép lại những câu truyện cổ tích thần kỳ, ta lại trở về hiện thực đương thời với biết bao chuyển động như nó vốn có. Song, âm hưởng của những câu chuyện xa xưa sẽ còn vang mãi trong ta, dấu ấn của nó sẽ đậm nét mãi trong tiềm thức và tâm tưởng của mọi người, Bởi đến với cổ tích là ta tìm đến với những giá trị nhân bản, với những triết lý sống lành mạnh chính đáng của người Việt Nam. Biết ơn những tác giả dân gian xưa đã tạo nên những câu chuyện cổ tích để giúp chúng ta hiểu hơn người xưa đã sống, muốn sống như thế nào và ngày nay còn học ở đó những gì.
Có ý kiến: "Truyện cổ tích không chỉ dạy ta biết yêu biết ghét, mà còn dạy ta biết ước mơ" bằng hiểu biết của mình bày tỏ suy nghĩ về nhận định trên mẫu 2
Truyện cổ tích là một trong những loại truyện cổ dân gian ra đời khi xã hội phân chia giai cấp. Truyện cổ tích hay kể về cuộc đời của một số kiểu nhân vật như: nhân vật bất hạnh, nhân vật có nhiều phép lạ, nhân vật thông minh hoắc ngốc nghếch,… Truyện cổ tích thường mang yếu tố hoang đường, nó thể hiện ước mơ và niềm tin của nhân dân về cái thiện cái ác, cái tốt thay thế cái xấu ước mơ về ấm no hạnh phúc.
Truyện cổ tích là những giấc mơ đẹp, là một thế giới thần tiên, đầy phép nhiệm màu, nó thể hiện những khát vọng tự do, hạnh phúc và công bằng xã hội. Đọc truyện cổ tích, ta bắt gặp những giấc mơ đẹp của người lao động xưa. Vâng có khi nào ta tự hỏi tại sao họ phải mơ ước không? Con người xưa ta mơ khi thực hiện không đáp ứng được sự mong mỏi, cho nên phải hướng về một thế giới khác, tươi đẹp hơn, đúng như mong đợi của họ. Người xưa cũng vậy, cuộc sống của họ là một bể khổ tưởng như khó lòng thoát ra khỏi được. Một cuộc sống luôn bị áp bức chiến tranh, một cuộc sống bị đè nén bóc lột cả về thể chất lẫn tinh thần. Họ phải làm việc cực nhọc ngày qua ngày năm qua năm những luôn phải chịu đói khổ cực nhọc như anh nông dân nghèo Thạch Sanh… Họ luôn bị khinh thường rẻ rúng, bị tước đoạt quyền được yêu thương, quyền làm người như Cô Tấm, Sọ Dừa… Vì thế họ phải mơ. Khát vọng công bằng trong xã hội, một khát vọng thường trực mà ta luôn gặp trong truyện cổ tích. Dễ dàng thấy nhân vật chính nằm trong chuyện là những con người riêng, những người dị dạng xấu xí, những kẻ làm thuê, những người nghèo khó… họ bị ngược đãi. Cô Tấm bị dì ghẻ hắt hủi, bắt làm việc tối ngày, anh nông dân bị phú ông lừa bóc lọt sức lao động một cách thậm tệ. Sọ dừa bị mọi người coi ngường, không được coi ngường, không được coi là người. Nhưng họ có thể làm gì được nay chỉ là thân phận thấp cổ bé họng, thân phận con sâu con kiến? Bởi thế họ luôn mơ ước có những thế lực siêu nhiên như ông Bụt, cô tiê, vua thủy tề hay chiếc đàn thần, nồi cơm thần… Sự xuất hiện của những vị thần tiên này đào tạo lên sự công bằng trong truyện cổ tích. Sự công bằng ở đây tức là sự chiến thắng của cải thiện trước những thế lực đen tối, tội ác. Chính vì thế trong truyện ta mới bắt gặp những kết thúc có hậu, Thạch Sanh nghèo lấy được công chúa, cô Tấm đáng thương trở thành hoàng hậu. Rõ ràng dây là khát vọng của họ, mơ ước của họ những chỉ là giấc mơ không có thật nhưng cũng đủ để họ giảm bớt những âu lo của tháng ngày lao động vất vả.
Không chỉ dừng ở đó, người xưa còn ao ước được tự do hôn nhân, tự mình quyết định lấy hạnh phúc của mình. Ước mơ này là chính đáng, bởi xã hội phong kiến đã trói buộc con người đặc biệt là người phụ nữ trong các luật lệ hà khắc như “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó nam nữ thụ thụ bất thân”, “tam tòng tứ đức”. Vì thế mà tự do hôn nhân có thể coi như mơ ước rất quan trọng đối với người xưa. Nói về vấn đề này Chử Đồng Tử hay cụ thể hơn là cuộc hôn nhân Chử Đồng Tử - Tiên Dung là một minh chứng hùng hồn, đây là mối tình đẹp. Đẹp vì đó là mối tính thực sự của hai trái tim bất chấp mọi luật lệ hà khắc của xã hội phong kiến về đẳng cấp, về địa vị xã hội. Tiên Dung khi lấy Chử Đồng Tử không có một băn khoăn nào vì mình là một công chúa đã lấy anh thuyền chài nghèo rớt mùng tơi.Nàng bất chấp sự ngăn cản của vua cha, đó là một thiếu nữ có bản lĩnh. Tiên Dung gặp Chử Đồng Tử một cách bất ngờ tại một vùng trời bao la. Mối tình của họ cũng đột ngột và phóng khoáng như thiên nhiên vậy. Đẹp là vì nó hợp với lòng người nên được thần tiên giúp đỡ. Nhờ vậy, mà vợ chồng Tiên Dung đã sống những ngày hạnh phúc, rồi lại cùng trở về cõi vĩnh hằng. Mối tình Tiên Dung và Chử Đồng Tử chỉ có thể trở thành hiện thực trong truyện cổ tích mà thôi. Vì thế trải qua nhiều thế kỉ nó vẫn là giấc mơ đẹp, là tiếng nói khao khát tự do yêu thương, đặt tình yêu lên tất cả.
Những ước mơ trên không thể thực hiện được trong đời sống hằng ngày, nó chỉ có thể thực hiện được trong các truyện cổ tích nhờ những phép nhiệm màu. Tuy nhiên, chính nhờ có những giấc mơ đẹp mà truyện cổ tích trở thành niềm an ủi, thành nguồn động viên, thành người bạn tin cậy của nông dân từ thế kỉ này sang thế kỉ khác, Vâng có một nhà văn nổi tiếng đã từng nói “chuyện cổ tích là những giấc mơ đẹp”, giấc mơ nuôi dưỡng nhân cách con người. Truyện cổ tích không có thạt nhưng giấc mơ cổ tích là đôi cánh kì diệu để nâng đỡ cho nhân cách của con người ngay trong ngập ngụa đau khổ đời thường, là điểm tựa để họ sống và hi vọng một ngày mai giấc mơ không còn là giấc mơ nữa.
Khép lại những câu chuyện cổ tích thần kì, ta lại trở về hiện thực đương thời với biết bao chuyển động như nó vốn có. Ngày nay khi thế giới đã bước vào một thời đại hoàn hảo, có thể nói nơi mà chúng ta đang sống giống như một thế giới thần tiên vậy, ngày xưa trong truyện cổ tích những ước muốn xa hoa hay nhà cao cửa rộng còn xa vời nhưng ngày nay chúng ta có thể có được một cách dễ dàng. Trong xã hội ngày nay, khi mà mọi điều kiện về cả vật chất lẫn tinh thần của con người đều đã tiền bộ và vượt xa hơn rất nhieuf so với thời kì khi mà những truyện cổ tích ra đời, liệu rằng trong thế giới thực này, còn có những câu chuyện cổ tích thực sự? Ngay trong thực tế đã chứng minh, vẫn còn tồn tại rất nhiều câu chuyện cổ tích trong đời thực. Mọt cô bé đến từ bang hẻo lánh của Mĩ, em bị mù, điếc và không nói nói được. Từ lúc em sinh ra bị mọi người kì thị và mơ ước được đến trường còn quá xa vời với em, nhưng một điều kì lạ xảy ra một bác sĩ đi làm từ thiện đã giúp em từ từ học chữ nổi bằng những động lực cố gắng không ngừng nghỉ, em đã từ từ nói được và nghe được. Điều này chắc hẳn đã chạm đến tim của mỗi người chúng ta. Tuy cuộc sống không như một giấc mơ vậy nên hãy tự tạo nên giấc mơ riêng của mỗi người và biến giấc mơ đấy thành sự thật.
Ngày nay những giấc mơ đã thành sự thật ngoài đời và những giấc mơ cổ tích lại tiếp tục gieo mầm cho những giấc mơ mới của ngày hôm nay. Những câu chuyện cổ tích dậy tuổi thơ ta biết ước mơ, khát vọng, biết tin vào những giấc mơ chân chính để sống trong cuộc đời.
Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 10: Có ý kiến: "Truyện cổ tích không chỉ dạy ta biết yêu biết ghét, mà còn dạy ta biết ước mơ" bằng hiểu biết của mình bày tỏ suy nghĩ về nhận định trên. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 10 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 10.
Bài tiếp theo: Dàn ý trình bày suy nghĩ về câu danh ngôn: "Đừng xấu hổ khi không biết, chỉ xấu hổ khi không học"