Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Đặc sắc phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện như thế nào qua tùy bút Người lái đò Sông Đà

Văn mẫu lớp 12: Đặc sắc phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện như thế nào qua tùy bút Người lái đò Sông Đà dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh cùng quý thầy cô tham khảo. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.

Dàn ý Đặc sắc phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong tùy bút Người lái đò Sông Đà

1. Mở bài

Giới thiệu và dẫn dắt vào tác giả Nguyễn Tuân và tùy bút Người lái đò sông Đà.

2. Thân bài

a. Khái quát chung

Con sông Đà mang trong nó một vẻ đẹp vừa hung bạo, vừa trữ tình. Dưới cái nhìn của ông, dòng sông được nhìn từ mọi khía cạnh địa lý, lịch sử. Con sông vừa mang vẻ hung bạo, dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình. Và Nguyễn Tuân đã vô cùng yêu quý con sông Đà, phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên, đất nước của mình thì Nguyễn Tuân mới có thể lột tả hết được vẻ đẹp vừa hung dữ nhưng cũng đậm chất trữ tình, thơ mộng của con sông Đà.

Song song với hình tượng con sông Đà là hình tượng người lái đò sông Đà. Qua hình tượng người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đưa ra một cái nhìn mới về chủ nghĩa anh hùng. Nó không chỉ có ở nơi chiến trường, trong chiến tranh gian khổ, ác liệt mà nó ở ngay trong cuộc sống hàng ngày. Sự mưu trí, dũng cảm và tài hoa ấy ẩn chứa ngay trong những con người lao động hiền lành, bình dị.

→ Qua bài tùy bút Người lái đò Sông Đà mà cụ thể là qua hai hình tượng: con sông Đà và người lái đò Sông Đà, đã thể hiện những nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.

b. Đặc sắc nghệ thuật

Trước hết, ông thường tô đậm cái khác thường, cái phi thường để gây ấn tượng và cảm xúc mãnh liệt. Không có con sông nào có thể dữ dội, hung bạo hơn dòng chảy của con sông Đà và cũng hiếm có con sông nào lại thơ mộng và trữ tình đến thế. Hai tính cách tưởng như trái ngược nhau lại là hài hòa làm nên nét riêng của con sông Đà, cái mạnh mẽ và cái yếu đuối luôn song hành.

Nhà văn thường tiếp cận và phản ánh đối tượng từ phương diện văn hóa, mỹ thuật. Con người dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân tỏa sáng lấp lánh vẻ đẹp của tài hoa, trí tuệ. Người lái đò Sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả như một nghệ sĩ trên sông nước.

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là phong cách tài hoa, uyên bác. Nó thể hiện ở những từ ngữ, hình tượng nghệ thuật trong văn của ông. Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân có đầy đủ cả màu sắc, âm thanh và hình tượng.

3. Kết bài

Khái quát lại nét đặc sắc nghệ thuật của tùy bút cũng như giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện như thế nào qua tùy bút Người lái đò Sông Đà mẫu 1

Nhắc đến Nguyễn Tuân, ta nhớ đến một nhà văn tài hoa, độc đáo. Ông luôn đi tìm những cái độc đáo, cái khác người. Nhà văn Pautopxki đã từng nhận xét: Đọc văn Nguyễn Tuân, có người đã gọi nghệ thuật là người đi tìm cái đẹp, không chỉ vậy, ông còn là người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp. Chính những áng văn của Nguyễn Tuân đã thể hiện sự phong phú về từ ngữ, sự khó tính của nhà văn khi tìm ra những câu văn, những từ ngữ thật hay, thật đắt. Đọc tùy bút Người lái đò Sông Đà, ta thấy hết những nét tài hoa của Nguyễn Tuân khi tả hình tượng người lái đò sông Đà. Chúng ta đã bắt gặp hình tượng con người lao động mới, không chỉ thông minh, sáng tạo, cần cù mà còn tài hoa, nghệ sĩ. Qua áng tùy bút tuyệt vời ấy, ta còn thấy ngời lên vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Nam. Đó chính là tấm lòng của Nguyễn Tuân trước vẻ đẹp con người và đất nước Việt Nam. Tất cả đã kết tinh tạo thành phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân tài hoa, độc đáo.

Tài năng của Nguyễn Tuân được thể hiện rõ nét qua hình tương con sông Đà và hình tượng người lái đò sông Đà. Đây là hai hình tượng trung tâm, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, con sông Đà và người lái đò đã trở thành hai nhân vật với hai tính cách vừa đối lập vừa bổ sung cho nhau.

Con sông Đà mang trong nó một vẻ đẹp vừa hung bạo, vừa trữ tình. Không bằng lòng với những gì chung chung, đại khái, Nguyễn Tuân đã dành nhiều công sức để tìm hiểu con sông Đà. Dưới cái nhìn của ông, dòng sông được nhìn từ mọi khía cạnh địa lý, lịch sử. Con sông trở nên dữ dội, hung bạo nước xô đá, đá xô gió, cuồn cuộn luồng gió gầm ghè suốt năm. Nó như một con thủy quái khổng lồ, sẵn sàng nuốt tất cả mọi thứ vào trong lòng nó. Con thủy quái ấy cứ như chỉ chờ có thuyền nào qua là nhổm dậy vồ lấy mà nuốt chửng cho hả cơn giận dữ. Nhưng bên cạnh nét hung bạo đó, con sông lại mang một vẻ đẹp trữ tình. Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai. Màu sắc của sông Đà cùng biến đổi theo các mùa trong năm, mỗi mùa là một sắc riêng. Mùa xuân nước xanh ngọc bích, còn mùa thu, nước sông Đà lại lừ lừ chín đỏ, sông Đà còn mang vẻ đẹp mộng mơ như một nỗi niềm cổ tích. Và Nguyễn Tuân đã vô cùng yêu quý con sông Đà với một nỗi niềm thầm kín, thiết tha khi ông coi nó như một người bạn cố nhân lâu ngày không gặp thì thấy nhớ. Phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên, đất nước của mình thì Nguyễn Tuân mới có thể lột tả hết được vẻ đẹp vừa hung dữ nhưng cũng đậm chất trữ tình, thơ mộng của con sông Đà.

Đặc sắc phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện như thế nào qua tùy bút Người lái đò Sông Đà

Song song với hình tượng con sông Đà là hình tượng người lái đò sông Đà. Dưới con mắt tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân, ông nhìn người lao động như một người nghệ sĩ tài hoa trên sông nước. Ông lái đò là một tay lái ra hoa, bởi người lái đò đã đưa con thuyền vượt qua dòng sông đầy dữ dội ấy là cả một nghệ thuật. Bằng trí tưởng tượng phong phú, Nguyễn Tuân miêu tả cuộc vượt thác như một viên tướng thời xưa lao vào một trận đồ bát quái đã được bày sẵn với nhiều-cạm bẫy và nguy hiểm bủa vây. Ở từng trùng vây, ông lái đò đều có cách ứng phó riêng bởi ông đã nắm chắc binh pháp của thần sông Đà. Và không có ai hiểu con sông ấy hơn ông. ông nắm vững cái quy luật tất yếu của dòng sông Đà nên ông có quyền tự do tung hoành ngang dọc trên con sông ấy mà không hề sợ hiểm nguy. Con sông Đà đã bị ông khuất phục, ở trùng vây thứ nhất, con thuyền và sóng thác giằng co dữ dội, ông lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa, phóng thẳng vào mình. Nhưng ông không chỉ là người lái đò dũng cảm mà còn là người lãnh đạo tài ba. Ông chi huy con thuyền với sáu bơi chèo vượt qua con thác dữ dội và hung bạo ấy. Giữa những hiểm nguy đang chực chờ, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy gọn ngắn, tỉnh táo của người cầm lái... Ở trùng vây thứ hai, con thác leo xuống với bọt trắng xóa, che phủ bao nhiêu mùi đá ngầm nguy hiểm, chỉ duy nhất phía trái dòng sông là có thể vượt, qua, con mắt của ông nhìn rõ từng luồng sinh, luồng tử; ông ghì cương lại, cứ bám chắc lấy luồng nước tung mà phóng mạnh vào cửa sinh, ở trùng vây thứ ba, bên phải, bên trái đều là luồng chết, chỉ có duy nhất luồng giữa, ông nhanh nhạy chớp thời cơ đưa con thuyền phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa. Khi đưa con thuyền an toàn vượt thác, ông lại trở về với con người của đời sống thường ngày, lại ung dung đưa thuyền xuôi dòng.

Qua hình tượng người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đưa ra một cái nhìn mới về chủ nghĩa anh hùng. Nó không chỉ có ở nơi chiến trường, trong chiến tranh gian khổ, ác liệt mà nó ở ngay trong cuộc sống hàng ngày. Sự mưu trí, dũng cảm và tài hoa ấy ẩn chứa ngay trong những con người lao động hiền lành, bình dị.

Qua bài tùy bút Người lái đò Sông Đà mà cụ thể là qua hai hình tượng: con sông Đà và người lái đò Sông Đà, đã thể hiện những nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.

Trước hết, ông thường tô đậm cái khác thường, cái phi thường để gây ấn tượng và cảm xúc mãnh liệt. Đối với ông, cái đẹp phải là cái đẹp tuyệt mỹ, cái đẹp siêu phàm, còn dữ dội phải đến mức khủng khiếp. Và con sông Đà đã bị chi phối bởi nét nghệ thuật này, không có con sông nào có thể dữ dội, hung bạo hơn dòng chảy của con sông Đà và cũng hiếm có con sông nào lại thơ mộng và trữ tình đến thế. Hai tính cách tưởng như trái ngược nhau lại là hài hòa làm nên nét riêng của con sông Đà. Cái mạnh mẽ và cái yếu đuối luôn song hành, thu hút nhà văn Nguyễn Tuân, ở dòng sông này, Nguyễn Tuân đã thể hiện tài năng chủ nghĩa, ông đua tài chủ nghĩa với tạo hóa. Đó cũng chính là cái ngông của Nguyễn Tuân.

Thứ hai, nhà văn thường tiếp cận và phản ánh đối tượng từ phương diện văn hóa, mỹ thuật. Con người dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân tỏa sáng lấp lánh vẻ đẹp của tài hoa, trí tuệ. Người lái đò Sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả như một nghệ sĩ trên sông nước.

Và cuối cùng, phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là phong cách tài hoa, uyên bác. Nó thể hiện ở những từ ngữ, hình tượng nghệ thuật trong văn của ông. Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân có đầy đủ cả màu sắc, âm thanh và hình tượng. Ông tả Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình. Từ áng chỉ dùng cho văn thơ đẹp, nay con sông như một áng thơ trữ tình. Những từ ngữ mạnh, dữ dội khi miêu tả sự dữ dội của con sông: ặc ặc, lồng lộn... chỉ đọc lên cũng hình dung ra sự dữ dội của con sông.

Không có ai như Nguyễn Tuân khi lấy chính những cái đối lập, tương phản với nhau để làm nền, làm nổi bật nó lên. Khi tả nước ông đã miêu tả lửa. Còn tả sông, ông lại tả rừng đối lập với nó. Đó cũng chính là cái ngông của ông. Chính thể nên câu văn của Nguyễn Tuân luôn biến hóa, gây bất ngờ và hứng thú cho người đọc. Đọc văn Nguyễn Tuân, ta còn biết thêm nhiều kiến thức về lịch sử, văn hóa, điện ảnh, địa lý...

Đọc bài tùy bút Người, lái đò Sông Đà ta thấy cái tài và cái tình của Nguyễn Tuân. Cái tài của ông được thể hiện ở câu chữ, hình ảnh của con sông Đà và hình tượng của người lái đò Sông Đà. Cái tình là tình cảm của ông đối với thiên nhiên, con người lao động Việt Nam. Văn của ông không chỉ là lâu đài chủ nghĩa mà còn là bề sâu tâm hồn.

Phong cách nghệ thuật  của Nguyễn Tuân trong Người lái đò sông Đà mẫu 2

Nguyễn Tuân là một cây bút tài hoa, lịch lãm “thông kim bác cổ”. Những trang viết của ông đem đến cho người đọc rất nhiều kiến thức: văn hóa, hội họa, điêu khắc, điện ảnh, quân sự, võ thuật và cả những thông tin khoa học. Tùy bút Người lái đò sông Đà làm sống dậy cảm nhận của người đọc về sông Đà như nó vốn có. Bài tùy bút ngoài việc đem lại những rung cảm thẩm mĩ còn giúp người đọc hiểu nhiều điều bổ ích về lịch sử, địa lí, địa thể, đặc biệt là những con thác đủ loại, những tài nguyên của đất nước những bài thơ về sông Đà của Nguyễn Quang Bích, Tản Đà, thơ Đường...

Những trang miêu tả thạch trận thủy quái sông Đà và nghệ thuật vượt thác của ông lái đò có giá trị tạo hình cao giống như một cuốn phim quay cận cảnh. Vốn từ ngữ quân sự phong phú được sử dụng điêu luyện lại xen vào những từ ngữ cổ (vu hồi, giao chiến, thanh la, đòn tỉa...) tạo cho người đọc cảm tưởng trận thủy chiến đã diễn ra từ muôn xưa đến nay. Phong cách Nguyễn Tuân bộc lộ qua tùy bút Người lái đò sông Đà ở cách nhìn, cách miêu tả thiên nhiên. Nguyễn Tuân thích cái độc đáo duy nhất, thích tô đậm cái phi thường, thích gây cho người đọc cảm giác choáng ngợp. Điều đó đã khiến ông tìm đến sông Đà. Sự dữ dội mãnh liệt và cái tuyệt mĩ, thơ mộng của sông Đà đã thu hút nhà văn.

Ngòi bút Nguyễn Tuân được thỏa sức tung hoành trong môi trường yêu thích của mình khiến cho nhiều lúc dường như ông quên mất độc giả. Ông chỉ biết có sông Đà và chú tâm vào mỗi việc đem tài hoa của mình ra làm cho sông Đà dậy sóng, dậy đá. Sông Đà cũng vậy, dường như chỉ một mực quấn vào câu văn Nguyễn Tuân mà vùng vẫy, reo cười. Với lối viết riết riêng, sông Đà đã trở thành sông Đà - Nguyễn Tuân. Sông Đà được vẽ lên bằng ngòi bút biến hóa tài tình độc đáo. Sông Đà - dữ dội, sông Đà - anh hùng ca, sông Đà - nên thơ. Bản chất sông Đà là vậy. Tài năng của nhà văn đã làm cho bản chất ấy sắc nhọn thêm. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà không phải là một cảnh trí thiên nhiên vô tri giác mà là một sinh thể sống động, một nhân vật đầy sức sống, có cá tính, có tâm trạng khá phức tạp.

Tác giả gọi đó là tính cách vừa “hung bạo” vừa “trữ tình”. Sông Đà “hung bạo” là sông Đà hiểm trở, dữ dội, nguy hiểm đến chết người với những đoạn bờ sông dựng thành vách cao vút, những thác nước hung dữ, “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”, “sẵn sàng quật ngửa bụng những thuyền đi qua”, với những hút nước “sâu như lòng giếng, nước xoáy tít ằng ặc có thể lôi tuột những bè gỗ lớn xuống tận đáy và đánh cho tan xác”... Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút trăm màu để miêu tả hàng loạt những hình ảnh khác nhau vừa có tính trí tuệ vừa có tính tạo hình vượt xa những thủ pháp nhân hóa thông thường. Cái dữ dội của con sông Đà trở nên môi trường anh hùng ca hoàn toàn độc đáo. Sông Đà cũng là con sông đạt đến mức trữ tình tuyệt vời.

Dưới con mắt khám phá sự vật ở phương diện mĩ thuật, Nguyễn Tuân nhìn dòng sông Đà như một công trình nghệ thuật thiên thạo tạo tuyệt vời. Sông Đà như một “áng tóc trữ tình tuôn dài mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”. Nguyễn Tuân nhìn dòng sông Đà và truyền cho độc giả nhìn nó qua làn mây mùa xuân, ánh nắng mùa thu, chăm chú theo dõi những biến đổi sắc màu của nó khi thì “xanh màu ngọc bích”, khi thì “lừ lừ chín đỏ”. Ông phát hiện ra sự phong phú của chất thơ ở vẻ đẹp sông Đà lúc như “nỗi niềm cổ tích”, lúc “lóe sáng ánh sáng tháng ba Đường thi”, lúc như “người tình nhân chưa quen biết”. Nguyễn Tuân luôn nhìn và miêu tả con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu như trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nhìn những con người tài hoa nghệ sĩ chỉ ở một số ít người thì sau Cách mạng, họ được ông nhìn thấy trên mọi lĩnh vực đời sống.

Những trang viết của nhà văn đem đến cho người đọc niềm tự hào, chúng ta không chỉ là con em của một dân tộc cần cù trong lao động, dũng cảm trong chiến đấu mà còn là con em của một dân tộc tài hoa - nghệ sĩ. Người lái đò dưới con mắt Nguyễn Tuân được xem như một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà. Tài nghệ của người lái đò là nắm chắc được quy luật của dòng nước sông Đà, thuộc lòng các luồng sinh, luồng tử của những con thác dữ. Người lái đò thực hiện nghề nghiệp của mình một cách tuyệt vời, đạt đến trình độ nghệ sĩ tinh vi, nghệ thuật cao cường, một tay lái “ra hoa”. Quy luật của thác nước sông Đà là một quy luật hết sức khắc nghiệt. Một chút thiếu chính xác, một tích tắc thiếu bình tĩnh, lóa mắt, lỡ tay là phải trả giá bằng sinh mạng của mình. Trong cuộc vượt thác, ông đò như một lão tướng dày dặn kinh nghiệm. Trận địa thủy chiến được bố trí sẵn với những cạm bẫy, với những vòng vây, hết vòng vây này đến vòng vây khác, mỗi vòng đều có những viên tướng đá nham hiểm, quái ác chờ sẵn.

Hình ảnh ông lái đò “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”, mặt méo bệch đi mà vẫn “cưỡi lên con sóng, nắm chắc lấy bờm sóng ghì cương đè sấn lên và chặt đôi con thác” quả là một thiên anh hùng ca, là cả một pho nghệ thuật tuyệt vời. Phong cách Nguyễn Tuân còn được biểu hiện đặc sắc qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Có người nói: đọc văn Nguyễn Tuân như soi kính trăm màu. Nguyễn Tuân đi sâu tìm hiểu, khám phá sự vật, nắm bắt cho được cái cốt lõi, cái tinh túy, cái thần thái của nó rồi kết hợp với cảm xúc chủ quan, uyên bác giàu chất trí tuệ và chất trữ tình, diễn đạt, thể hiện dưới những hình thức ngôn ngữ sáng tạo độc đáo rất Nguyễn Tuân. Khi ông miêu tả, sự vật hiện lên với đầy đủ “khí chất” của nó thì văn mới hết “chất Nguyễn”. Ngược lại, văn ông càng bộc lộ hết “chất Nguyễn” thì sự vật càng nổi hình nổi nét, cựa quậy xôn xao.

Đọc một đoạn văn khá dài miêu tả cảnh sông Đà “bày thạch trận để đòi ăn chết cái thuyền” nhưng rồi phải thu sự chèo chống tài ba, dũng cảm của người lái đò, ta đâu chỉ thấy sông Đà “quẫy sóng” mà còn thấy câu văn “quẫy sóng” sảng khoái vô cùng. Biết bao thách thức trong cảnh này, thách thức với người lái đò và thách thức với cả nhà văn. Liệu nhà văn có đủ tài nghệ, đủ chữ nghĩa để bắt sông Đà hiện lên với tất cả sự bạo liệt của nói:? Liệu nhà văn có đủ tài nghệ miêu tả nghệ thuật siêu phàm của người lái đò trong cuộc vượt thác? Nguyễn Tuân đã vượt lên được thách thức ấy. “Thạch trận vừa bày xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đối phương. Hòn đá bệ vệ, oai phong, lẫm liệt. Một hòn trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì cứ tiến gần vào”.

Nguyễn Tuân đã lột tả được cái lì lợm, nham hiểm của những “viên tướng đá”, cái âm thanh hung bạo của tiếng thác và sự dữ dội của nước thác đá trong việc uy hiếp con người. Ông lái đò đã vượt qua được thác, văn Nguyễn Tuân cũng vượt qua được thách thức. Phải là một cây bút tài hoa như Nguyễn Tuân mới làm sống dậy được thác nước sông Đà và bộc lộ được một tay lái “ra hoa” trên những con thác hung dữ và bạo liệt. Với Nguyễn Tuân, ngôn ngữ nghệ thuật vừa là phương tiện vừa là cứu cánh của người nghệ sĩ. Qua bàn tay Nguyễn Tuân, tiếng Việt như một khối vuông ru bích biến hóa liên tục và dậy lên sắc màu nghệ thuật. Miêu tả âm thanh những thác nước sông Đà, Nguyễn Tuân thấy “tiếng thác nước lúc như than vãn oán trách”, lúc như “van xin”, lúc “khiêu khích chế nhạo”, lúc “rống lên như tiếng ngàn con trâu mộng”... Với Nguyễn Tuân, ngôn ngữ thực sự là một đối tượng thẩm mĩ không thể thiếu trong văn phẩm của mình. Ông sử dụng ngôn ngữ như một nghệ sĩ xiếc điêu luyện, thuần thục

Nguyễn Tuân quả là một nghệ sĩ xiếc của ngôn từ. Đoạn miêu tả cuộc giao tranh giữa thác dữ với người lái đò là một đoạn tiêu biểu. Nguyễn Tuân say sưa hăm hở khoe hết sự tài hoa uyên bác và muốn dốc cả vốn từ vựng giàu có của mình để ganh đua với tạo vật. Nhà văn đã tạo cho con sông Đà tính cách của một loài thủy quái hung ác và nham hiểm. Ông dùng ngôn ngữ để dựng dậy và thổi sống những hòn đá vô tri vô giác, có hòn “bệ vệ oai phong”, có hòn “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm méo mó”, có hòn “trông nghiêng như hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”, có hòn “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”... Nguyễn Tuân đã ném vào cuộc giao tranh giữa người với thiên nhiên bao nhiêu chữ nghĩa góc cạnh, đem lại cho người đọc những liên tưởng độc đáo, chính xác.

Tác phẩm của Nguyễn Tuân thường gây cảm giác mãnh liệt, nâng cảm xúc của người đọc khi tiếp cận với sự vật được miêu tả để thưởng thức những cảnh trí hoặc dữ dội khủng khiếp hoặc thơ mộng, tuyệt mĩ, hoặc cái tài hoa phải đạt đến trình độ siêu phàm không gì sánh kịp. Phong cách Nguyễn Tuân vừa độc đáo vừa phong phú. Với Người lái đò sông Đà, phong cách nhà văn thể hiện rõ nhất ở sự sắc nhọn của giác quan nghệ sĩ đi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, góc cạnh. Bài tùy bút Người lái đò sông Đà cũng thể hiện một Nguyễn Tuân với vốn văn hóa phong phú, lịch lãm, một Nguyễn Tuân tài hoa với con mắt của nhiều ngành nghệ thuật.

Phong cách Nguyễn Tuân đã mang lại cho tác phẩm những giá trị độc đáo: vừa có giá trị văn học vừa có giá trị văn hóa vừa có giá trị thông tin, đồng thời giúp người đọc thêm yêu cảnh trí thiên nhiên đất nước, tự hào về những người lao động tài hoa và thêm quí, thêm yêu sự giàu đẹp của tiếng Việt.

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong Người lái đò sông Đà mẫu 3

Nguyễn Tuân được xem là một người nghệ sĩ tài hoa và uyên bác, đối với sự nghiệp văn chương ông có những nét đặc sắc tiêu biểu riêng và có thể khẳng định không phải người nghệ sĩ nào cũng có. Đó chính là những vẻ đẹp trong phong cách nghệ thuật, thật riêng biệt và độc đáo tiêu biểu trong phong cách sáng tác của ông tiêu biểu nó thể hiện qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà”.

Nguyễn Tuân với năng khiếu nghệ thuật độc đáo nhất nhì trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông là một người nghệ sĩ tài hoa và cả đời của ông luôn phấn đấu để đi tìm những điểm riêng biệt những nét “khuất lấp” và những cái đẹp trong phong cách nghệ thuật của mình. Phần lớn các tác phẩm của ông thi đều thể hiện được sự uyên bác cũng như người tài hoa “chỉ đạo những con chữ”. Trong bài tùy bút “Người lái đò sông Đà” ông đã thể hiện rõ được phong cách riêng của mình qua những điều đó. Có lẽ, bởi đây là bài mà ông rất tâm huyết và ông đã dùng chính tài năng và phẩm hạnh của mình để sáng tác lên những tác phẩm đậm chất bi tráng này, dòng sông của người lái đò là dòng sông mà ông đã quan sát và ông có cái nhìn sâu sắc về nó, nó không chỉ là một dòng sông biểu hiện cho sức mạnh mẽ của con người mà đó là dòng sông của minh chứng lịch sử. Với tài năng nghệ thuật độc đáo mang tính riêng biệt ông đã tạo nên cho mình những sáng tác riêng và đó là những sáng tác cổ xưa và mang biết bao dấu ấn mạnh mẽ tác giả không chỉ dừng chân ở đây để có những quan sát thấu đáo mà ông đã dùng những cảm xúc thật của mình để viết lên bài thơ này.

Dường như hình ảnh của người lái đò sông Đà đã được thể hiện rất sinh động và tài tình qua phong cách nghệ thuật của ông, ông đã dùng những sáng tạo nghệ thuật đó để áp vào cho những con người ở nơi đây, hình ảnh về dòng sông của quê hương đất nước đã tạo nên những dâu ấn mạnh mẽ trong lòng tác giả. Ông đang thể hiện những điều đó rất nổi bật trong cách sáng tác của chính mình. Hình ảnh đẹp về dòng sông của quê hương như đã thôi thúc khiến cho ông cảm hứng để viết lên bài tùy bút hay như thế này. Tác giả như có phương án tạo ấn tượng rất đặc sắc qua cách giới thiệu về dòng sông nó đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ cho người nghe, tác giả không khỏi hình dung ra những chi tiết đặc sắc khác thể hiện trong tác phẩm này.

Những hình ảnh về dòng sông còn mang những tính cách của con người đời thực nhưng đã được nhìn qua lăng kính của Nguyễn Tuân nên mọi thứ đều trở lên đẹp đẽ và có phí phách riêng. Dòng sông Đà hiện lên dưới ngòi bút khám phá của ông cũng có lúc hung bạo và cũng có lúc trữ tình nó đã làm xoay chuyển mọi tính cách qua những hoàn cảnh khác nhau, hình ảnh về dòng sông cũng giống như về con người, tác giả đã miêu tả và quan sát dòng sông qua những tính cách điển hình và tiêu biểu đó. Trong bài tùy bút thành công này của tác giả đã như đã thể hiện, bộc bạch rõ hàng loạt những chi tiết thể hiện dòng sông hung bạo đó là có những vách đá ngăn thành chết lòng sông Đà như một cái yết hầu..

Tất cả các chi tiết khác cũng thể hiện rõ điều đó dài hàng cay số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn…, các chi tiết đó cứ như ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre… hơn nữa các chi tiết đó đã thể hiện được hình ảnh về dòng sông quê hương đất nước, tác giả đã dùng tài năng của mình để sáng tác lên những hình ảnh hay và sinh động như vậy, hình ảnh đó thật mang dại và chính với khả năng và tài năng bậc thầy của mình ông đã vẻ lên một hình ảnh về dòng sông với vẻ đẹp thật hùng vĩ, với cách so sánh sinh động đã tạo nên cho ông một bài tùy bút hay và nó để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Với cách so sánh ví von nhưng hợp tình và hợp lý như vậy hình ảnh về dòng sông cũng đã thể hiện rất chi tiết và đặc sắc nó mang ấn tượng cho người đọc, bởi hàng loạt những hình ảnh tạo ấn tượng riêng biệt,hình ảnh về quê hương của chúng ta đã hiện lên những hình ảnh tuyệt đẹp và như ngày càng thu hút mạnh mẽ tầm quan sát của người đọc, những hình ảnh trên cũng đã mang cho người đọc những cái nhìn sâu rộng và nó trở thành một niềm tin sáng lóe trong cái nhìn của tác giả về chính sản phẩm mà ông đã tạo ra.

Ông là một người có trí tưởng tượng phải nói vô cùng phong phú, cũng có lúc ông đã sử dụng những hình ảnh kĩ thuật của bộ môn nghệ thuật thứ 7 - điện ảnh của âm thanh hội họa để thể hiện được những chi tiết tiêu biểu qua tác phẩm này, ông cũng nhân hóa những hình ảnh của dòng sông để miêu tả và có thể cảm nhận được tính cách hung bạo của dòng sông đó. Tưởng như những hình ảnh về dòng sông nó mang những dấu ấn mạnh mẽ trong cách sáng tác của tác giả, những thác ghập ghềnh và nó mang cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về những hình ảnh đó, hình ảnh của dòng sông đà đã được tác giả thể hiện sinh động và vô cùng ấn tượng cho người đọc, nó không chỉ mạnh mẽ trong đường khối mà nó cũng đã tạo nên những tính cách khác cho người đọc, hình ảnh của dòng sông đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng tác giả bởi tính cách và những nét riêng biệt mạnh mẽ.

Những hình ảnh thật khó phai mờ về một dòng sông hoang dại và hung dữ cũng đã được thể hiện sâu sắc trong nhà văn, ông đã dùng tài năng của mình để nói về những hình ảnh đó, cảm xúc của nhà văn cũng thật sâu sắc và sinh động khi ông nói về cảm xúc của chính mình và dòng sông đó đã mang dại và chúng ta nhìn thấy tài năng của tác giả được thể hiện mạnh mẽ trong đó, Nguyễn Tuân như đã ca ngợi dòng sông này và nó hiện lên thật độc đáo và sinh động, tính cách của dòng sông đó là dòng sông trữ tình và yêu thương nó đã hiện hữu trong con người của tác giả. Brên cạnh hình ảnh dòng sông hung dữ thì hình ảnh của dòng sông hiền hòa cũng được tác giả thể hiện sâu sắc trong bài tùy bút này, dòng sông được tác giả miêu tả như người con gái có mái tóc dài, màu sắc cũng được thay đổi đặc sắc trong bài thơ, với những nét phong phú và đặc sắc của bài thơ tác giả đã thể hiện được những chi tiết đặc sắc và mang những dấu ấn mạnh mẽ trong lòng của tác giả.

Có thể nói nghê thuật xây dựng hình tượng người lái đò của tác giả Nguyễn Tuân đã điển hình và nó thể hiện những không khí hào hùng và mang dại trong cái nhìn của nhà văn, Nguyễn Tuân là nhà văn đã biết và tận dụng tốt các hình ảnh, chi tiết để tạo lên hình tượng của dòng sông qua những chi tiết thật và không khí hiện lên cũng mang rợ và có những ấn tượng sâu sắc và vang nhộn. Những hình ảnh về một dòng sông có những chi tiết rất đặc sắc và nó đúng với không khí và chi tiết mà tác giả đã và đang sử dụng ở đây. Với cái nhìn đầy chứa đựng đầy thiện cảm và nó đã tạo nên những sâu sắc riêng trong con mắt nhìn của tác giả về cái nhìn và cách quan sát của tác giả cũng thật toàn diện và như nó đang mang những dấu ấn mạnh mẽ và trang nghiêm, những chi tiết tuyệt vời mà tác giả thể hiện trong tác phẩm này là tác giả đã miêu tả rõ ràng và chi tiết và hình tượng tiêu biểu của tác giả về những hình ảnh đó, hình ảnh về quê hương và với tình yêu quê hương thắm thiết đã tạo nên cho tác giả cái nhìn sâu sắc hơn, ông đã miêu tả dòng sông qua con mắt thấu đáo của mình.

Với những tài năng không thể phủ nhận và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ông đã thể hiện rất nhiều những câu văn nhẹ nhàng và nó đã thể hiện một tình cảm đặc biệt của tác giả đối với dòng sông đà, dưới ngòi bút thần của tác giả thì hình ảnh đó trở lên thật mĩ lệ và không có gì sánh bằng. Có thể nói những hình ảnh về thiên nhiên cũng được tác giả thể hiện sinh động và hình ảnh về người lái đò sông Đà cũng được thể hiện rất chi tiết và đặc sắc nhà văn đã ví thiên nhiên Tây Bắc như một thứ vàng mười, và nó thật quý giá trong con mắt nhìn người và cách quan sát của tác giả về những chi tiết nổi bật đó.

Tài năng và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ hết sức phong phú cũng như đậm chất tài hoa của mình thì nó đã mang cho tác giả một cái nhìn toàn diện hơn về phong cách sáng tác của nhà văn, nhà văn không chỉ mang một vẻ đẹp của người nghệ sĩ tài hoa mà ông còn mang những vẻ đẹp của một người có cái nhìn đời sâu sắc.

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong Người lái đò sông Đà mẫu 4

Thú vị! Đó là cảm giác của tôi sau khi được tìm hiểu về tác gia Nguyễn Tuân. Nguyên nhân ư? Một là vì lối sống tự do phóng túng đã gây rất nhiều “biến cố” trong cuộc sống của ông. Một là vì cá tính độc đáo và những nỗ lực để khẳng định cá tính độc đáo ấy. Cùng với các tác phẩm như “Một chuyến đi”, “Vang bóng một thời”… tùy bút “Người lái đò sông Đà” (in lần đầu có tên “Sông Đà”) rút từ tập tùy bút “Sông Đà” (1960) viết sau chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của Nguyễn Tuân là một minh chứng cho điều ấy.

Như trên tôi đã viết, hai điều mà tôi thấy thú vị ở Nguyễn Tuân, chính hai điều này đã đưa Nguyễn Tuân đến với thể tùy bút và thành công xuất sắc sau khi đã thử bút qua nhiều thể loại như thơ, bút ký, truyện ngắn hiện thực trào phúng. Nhận ra sở trường của mình, Nguyễn Tuân đã không ngừng nỗ lực hơn nữa để phát triển nó, rồi cuối cùng trở thành một nhà tùy bút lớn. Giữa ông và thể tùy bút đã có sự gắn bó bền chặt bởi những nét tương đồng về sự tự do, phóng túng. Đây là một thể loại hầu như không có phép tắc, quy phạm gì chặt chẽ. Nó mang tính chủ quan và chất trữ tình rất đậm. Và đặc biệt, nó là “lối văn độc tấu” được hấp dẫn chủ yếu bởi cá tính của chính người cầm bút. Đối với một con người mà ý thức cá nhân phát triển rất cao như Nguyễn Tuân thì thật không còn một thể loại nào thích hợp hơn.

Nhưng không phải mọi cá tính đều đươc yêu quý. Thể loại này, nghe qua tên gọi của nó thì tưởng là dễ viết, nhưng viết cho hay, cho cuốn hút thì chẳng dễ chút nào; bởi vì, để hấp dẫn độc giả, cá tính mà nó đòi hỏi phải là một cá tính độc đáo, phong phú và tài hoa thực sự. Những điều này Nguyễn Tuân đều có cả. Vì thế mà thiên tùy bút “Người lái đò sông Đà”, một trong những áng văn tiêu biểu nhất của tập “Sông Đà” đã mau chóng đi vào lòng người đọc với những ấn tượng khó phai về một nét thiên nhiên và con người Tây Bắc. Đồng thời, qua tác phẩm này, ta còn thấy được một nét có lẽ là rất riêng của phong cách tùy bút Nguyễn Tuân: tùy bút giàu chất ký, kết hợp nhuần nhuyễn cả tính chủ quan và chất trữ tình rất đậm của thể tùy bút với tính khách quan tỉ mỉ và chất trí tuệ, tự sự của thể ký. Tác phẩm giúp độc giả không chỉ được thưởng thức vẻ đẹp văn chương mà còn được tiếp cận với kho tri thức khổng lồ của nhà văn.

Chỉ một đoạn trích trong sách giáo khoa, nhưng ta thấy sự am hiểu của Nguyễn Tuân về nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác cùng với văn chương. Nguyễn Tuân luôn có ý thức vận dụng con mắt của các ngành văn hóa nghệ thuật đó để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật ngôn từ. Ông còn sáng tạo nên những hình ảnh tinh tế, tài hoa, độc đáo dựa trên sự quan sát tỉ mỉ, trí tưởng tượng độc đáo, những liên tưởng, so sánh mới lạ được diễn đạt bằng một vốn ngôn ngữ phong phú, có giá trị tạo hình và biểu cảm cao. Tất cả những điều này được minh chứng rất rõ qua đoạn trích “Người lái đò sông Đà” (đoạn trích thuộc sách giáo khoa).

Thoạt tiên là tri thức về âm nhạc với bản hợp âm náo loạn, kinh khiếp của thác dữ: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”… Những cách ví von mới lạ, độc đáo cùng ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu sức gợi và nhịp điệu câu văn nhanh, gấp, đã tác động mạnh vào tâm trí người đọc, liên tục đẩy âm thanh thác dữ đến hồi cao trào, quyết liệt nhất, để rồi, khi tất cả đã qua đi, người ta có cảm giác đầu óc mình đã căng quá độ, bây giờ thừ ra nghe “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. “Sông nước lại thanh bình”.

Nếu như vẽ một cái biểu đồ tần số âm thanh sông Đà thì ta đã có một đường lên rất cao rồi đột ngột trở về với thanh ngang ghi âm của biểu đồ. Sau đó, ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân lại giúp ta vẽ tiếp một đường đi xuống để diễn tả cái “lặng tờ” của cảnh vật ven sông Đà ở hạ lưu. Trong trường liên tưởng của mình, nhà văn như có thể xuyên thời gian, trở về quá khứ để cảm nhận: “Hình như từ đời Lý đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”, đến mức “thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê” để trở về với thực tại đôi bờ. Nhịp điệu câu văn như cũng trải ra theo cái vắng lặng rất nên thơ của dòng sông. Nguyễn Tuân, bằng tài nghệ và cá tính của mình đã lôi kéo tâm thức người đọc miên man theo rồi bất ngờ đánh thức họ bằng tiếng cá đập nước, âm thanh không phải dễ nghe thấy trong cuộc sống thường ngày. Chỉ có trong không gian tĩnh lặng này, nó mới có thể “đuổi mất đàn hươu vụt biến” và làm chúng ta choàng tỉnh. Tiếng động ấy đã khiến đường ghi âm nhích lên một chút, tạo một điểm nhấn thanh nhẹ rồi lại trả con sông ở hạ lưu về với vẻ “lặng tờ” vốn dĩ.

Song hành với âm thanh là hình ảnh. Bằng vốn hiểu biết phong phú về hội họa và điêu khắc, cùng trí tưởng tượng độc đáo và óc quan sát sắc sảo được diễn tả bằng vốn ngôn ngữ phong phú, điêu luyện, giàu giá trị tạo hình, nhà văn đã giúp ta mường tượng về độ cao hun hút khôn cùng của “đá bờ sông dựng vách thành” gợi lên nét hùng vĩ, hoang sơ, và cả sự ghê rợn nữa. Đặc biệt là khi “chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu” thì sức nước hẳn phải ghê gớm, dữ dằn lắm! Cách so sánh, liên tưởng mới mẻ, bất ngờ của Nguyễn Tuân quả khiến người đọc cũng “thấy lạnh” như đang ngồi chung khoang đò qua quãng ấy với Nguyễn Tuân vậy. Vài nét vẽ mà thật giàu sức gợi!

Nước đã dữ, đá thác còn khó ưa hơn. Sức tưởng tượng đã được Nguyễn Tuân phát huy để tạo dáng hình cho từng khuôn mặt đá: đá to đá bé “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”, lại có “những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt” hay “tiu nghỉu cái mặt xanh lè”.

Khắc xong lại tô vẽ. Nhà văn lôi hộp màu ngôn từ ra, mong truyền tải lại được một cách chân thực, sống động nhất vẻ đẹp con sông mà ông đã để tâm quan sát rất kĩ lưỡng. Nếu cái dữ dằn của đá khiến nó trở nên xấu xí, khó ưa thì cái dữ dằn của nước sông lại vô tình phát huy tác dụng của nắng khiến nó mang vẻ đẹp sang trọng, lấp lánh huyền ảo của một “Mặt sông trắng xóa”, “lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”, lại “loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”, hay “sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”. Chẳng hiểu sao đọc những dòng mô tả của Nguyễn Tuân, trong trí tôi lại liên tưởng đến chiếc váy lộng lẫy của Nữ thần mặt trời trong sử thi “Đam Săn”. Vả chăng lúc này, dòng sông cũng đẹp như thế!? Một vẻ đẹp khiến ta trầm trồ ngưỡng mộ. Rồi, nó lại khiến ta thương thầm trong những sắc màu bình dị nhưng mặn mà, mỗi mùa mỗi khác: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà từ từ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.

Thảo nào Nguyễn Tuân không xót xa và phẫn nộ cho được khi “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ”. Con sông lại hớp hồn ta bởi cái vẻ “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đẹp dịu dàng mà lại có vẻ như e ấp. Yêu quá đi thôi! Nhà văn hẳn cũng đã yêu tha thiết sông Đà nên mới sáng tạo được hình ảnh đẹp với liên tưởng độc đáo, tài hoa như thế. Lại còn tinh tế phát hiện những cảnh sắc tươi non, thơ mộng ven sông Đà khi đã về đến hạ lưu nữa chứ: “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”, “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”. Còn cái so sánh này thì thật táo bạo, bất ngờ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

Đẹp quá phải không? Hấp dẫn quá phải không? Một bức tranh có hồn được dựng bởi ngòi bút văn chương. Cái chúng ta đang chiêm ngưỡng không chỉ là tác phẩm âm nhạc, hội họa, điêu khắc mà còn là một tác phẩm điện ảnh. Nhà văn khi thì “Ngồi trong khoang đò” quay cảnh đá bờ sông, chẹt lòng sông, khi thì “ngồi tàu bay” chiếu ống kính xuống để bao quát toàn cảnh. Còn với những cảnh quá nguy hiểm, không thể quay trực tiếp được, nhà văn lại huy động đến trí tưởng tượng để “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy hút sông Đà” mà lia ngược ống kính lên để quay cận cảnh “một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp cả máy cả người quay phim cả người đang xem”. Ấy vậy mà đã truyền được cái hồn cốt của nó đến với độc giả. Điều này thật chỉ có “nhà quay phim” tài ba như Nguyễn Tuân mới làm nổi.

Ngoài ra, ông còn đưa vào tác phẩm của mình cả tri thức về văn học với những câu thơ của Wladyslaw Broniewski, Nguyễn Quang Bích, Lí Bạch, Tản Đà để góp phần khẳng định và tôn vinh vẻ đẹp sông Đà; đồng thời, khoác cho nó chút sắc màu bí ẩn qua câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh. Qua tất cả những nguồn tri thức đã huy động, có thể nói, nhà văn đã đầu tư rất kĩ vào con sông Đà. Nhưng xét đến cùng, bao vốn liếng đổ vào nó chẳng qua là để làm nền cho bức tượng đài về người lao động mới_ông lái đò_ hiện lên thật sừng sững, vững chãi. Thiên nhiên càng khắc nghiệt thì tác giả càng khắc họa được sinh động sự từng trải, mưu mẹo và gan dạ của ông lái đò. Lần này, tác giả đã sử dụng đến tri thức về khoa học quân sự và võ thuật để miêu tả thạch trận và cuộc vượt thác đầy cam go của ông lái. Người đọc tưởng thấy trước mắt một “trùng vi thạch trận” được bày bố công phu bởi những “chiến binh đá” hung ác và lão luyện.

Chúng biết dàn trận với “hàng tiền vệ” rồi “tuyến giữa”, “tuyến hai”…; thông thạo những chiến thuật đánh trận như “mai phục”, “dụ”, “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm”…; đánh trận cũng rất xông xáo, dũng mãnh: “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”; lại còn ngạo mạn “hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi”, thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”… Đó là chưa kể chúng còn có sự hợp sức của nước thác cũng hiếu chiến, hung dữ và ma mãnh không kém: “Mặt nước hò la vang dậy… ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình… liều mạng vào sát nách mà đá trải mà thúc gối vào bụng và hông thuyền… đội cả thuyền lên… bám lấy thuyền như đô vật túm thắt não bạt”… Thế này thì ông lái nguy mất! Người đọc không khỏi băn khoăn lo lắng. Nhưng chứng kiến trọn vẹn cảnh vượt thác mới thấy ông không phải dễ bị “bắt nạt”. Sức dẻo dai của cơ thể cùng cái đầu cứng cỏi, bình tĩnh, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở” đã giúp ông lái “xung trận” như một võ sĩ “trí dũng song toàn” lần lượt bẻ gãy các cuộc vây ráp, các đòn tấn công.

Từng động tác của ông mới nhanh gọn, dứt khoát làm sao: “tránh”, “đè sấn”, “lái miết một đường chéo”, “phóng thẳng”… Ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, nhiều từ dùng mới mẻ cùng những ví von bất ngờ mà vô cùng chính xác đã được sử dụng để miêu tả thạch trận, đá thác, sóng thác, nước thác, bây giờ lại tiếp tục được vận dụng để tả những vận động không kém phần dữ dội, quyết liệt của ông lái và con thuyền: “nắm chặt lấy được cái bờm sóng… ông đò ghì cương lái”, “thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”…

Bảo Nguyễn Tuân là nhà văn có cảm hứng đặc biệt đối với những gì gây cảm giác mãnh liệt quả không sai. Cứ xem cuộc vượt thác cam go mới rồi và một đối tượng mà ông miêu tả là con sông Đà thì biết. Nếu như cuộc vượt thác đã kéo căng dây thần kinh của ta trong một sự tập trung cao độ thì con sông Đà lại gây ấn tượng về sự “hung bạo và trữ tình” mà ở khía cạnh nào cũng lên đến trạng thái đỉnh điểm: ở thượng lưu thì tột đỉnh “hung bạo” với sự hợp sức của “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, những muốn quật cho “tan tác” thuyền bè đi ngang, là thách thức vô cùng to lớn đối với những con người sông nước nơi đây; ấy thế mà, về đến hạ lưu nó lại tạo một phong cảnh tuyệt mĩ làm say đắm lòng người. Ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào con sông vô tri vô giác, để nó sống dậy, mang cả tính cách và tâm trạng, trở thành một “nhân vật” cụ thể với những tính cách đối lập nhau gay gắt, khi được ví như “thứ kẻ thù số một”, lúc lại như một “cố nhân”.

Thế rồi, đâu phải chỉ có con sông Đà là giành được niềm ưu ái của tác giả. Trên nền cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân tiếp tục sử dụng những so sánh, liên tưởng tài hoa, ngôn ngữ phong phú, điêu luyện, giàu giá trị tạo hình, cùng sự vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác, đặc biệt là tri thức về quân sự và võ thuật trong quan sát, miêu tả hiện thực để xây tạo bức tượng đài về người lao động mới_ông lái đò_biết làm chủ thiên nhiên. Tuy là một người dân bình thường, nhưng trong công việc “bình thường” của mình, ông lái đã thực sự đạt đến độ điêu luyện, trở thành một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh. Vẫn khám phá con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, nhưng Nguyễn Tuân đã không chỉ nhìn thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những nhân vật xuất chúng như Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” ông viết trước Cách mạng tháng Tám 1945, mà còn phát hiện thấy phẩm chất đó ở những con người bình thường nhất như ông lái đò trong “Người lái đò sông Đà” viết sau Cách mạng. Đây là sự ổn định lẫn sự vận động của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân ở hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám.

Một nét vận động khác của phong cách Nguyễn Tuân sau Cách mạng trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” là ông không đối lập xưa với nay, cổ với kim nữa, mà tìm thấy sự gắn bó giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều này đã được thể hiện phần nào qua sự suy tưởng của nhà văn trên mạch tĩnh lặng của cảnh vật trên sông Đà nơi hạ lưu. Nhà văn men theo bờ tĩnh lặng của hiện tại để tìm về quá khứ nhận thấy sự gắn bó: “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”; rồi cũng lại từ cái tĩnh lặng của hiện tại mà hướng đến tương lai với “tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ_Yên Bái_Lai Châu”. Câu hỏi của “con hươu thơ ngộ”: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?” còn như gián tiếp nói lên niềm tin của Nguyễn Tuân vào tương lai ấy, cái niềm tin mà trước Cách mạng Nguyễn Tuân chưa bao giờ có được.

Chẳng biết tôi có đủ năng lực để ưa thích văn Nguyễn Tuân_một lối văn kén chọn độc giả? Nhưng “Người lái đò sông Đà” quả đã thể hiện khá đầy đủ về phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân; đồng thời, qua đó, ta còn thấy được tình yêu của ông đối với thiên nhiên và con người Tây Bắc, mà sâu hơn là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Mặc dù một số bài viết của ông còn có nhược điểm như mạch văn quá phóng túng theo lối tùy hứng, khó theo dõi; nhiều đoạn ham phô bày kiến thức và tư liệu khiến người đọc cảm thấy nặng nề, nhưng điều đó cũng không ngăn được sức hấp dẫn của văn Nguyễn Tuân đối với rất nhiều độc giả, bởi mỗi tác phẩm ra đời đều chất chứa bao tâm huyết, mang cả trái tim và khối óc của nhà văn.

Vì sự đầu tư kĩ lưỡng, công phu ấy, Nguyễn Tuân quả đã xem nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, và cũng chẳng có gì là khó hiểu nếu một nhà văn tài ba như ông thấy đó là một sự “khổ hạnh”. Nguyễn Tuân đã có đóng góp không nhỏ cả về mặt thể loại và ngôn từ cho văn học Việt Nam.

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong Người lái đò sông Đà mẫu 5

Người lái đò Sông Đà trích trong tập tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân, sáng tác năm 1960, là kết quả của chuyến đi thực tế của tác giả ở Tây Bắc năm 1958. Phong cách, con người Tây Bắc đã đi vào trang sách của Nguyễn Tuân một cách tự nhiên, mộc mạc với nét đẹp kỳ vĩ, lùng của non nước Tây Bắc.

Tác phẩm lấy người lái đò làm nhân vật trung tâm trong bức tranh thiên nhiên về sông Đà nhưng thực chất là cảm nghĩ, nghe nhìn, quan sát, nghiền ngẫm và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Sông Đà hiện lên với những nét đẹp riêng, đặc trưng của vùng núi Tây Bắc, được vẽ nên bằng ngòi bút biến hóa tài tình, độc đáo, thể hiện sự gắn bó với đất nước đến mức sâu xa nhất của tâm hồn tác giả.

Hình ảnh con sông Đà với nhiều nét tính, ông Đà hung bạo ở những đoạn có thác dữ, những quãng lòng sông hẹp, bị kẹp giữa hai vách núi cao hay những chỗ có xoáy nước khủng khiếp, hút tất cả những gì sa vào đó và dìm xuống đáy sông. Sông Đà khi thì dữ dội, nguy hiểm trong cái hùng vĩ không ngờ: nào là chét lại thành cái yết hầu, nào là vách đá dựng đứng, đúng ngọ mới thấy mặt giời… mùa hè vẫn lạnh… khi thì pha chút huyền thoại trong những nét nên thơ như con nai, con hổ vọt từ bờ này sang bờ kia. Nào là cát, gió, đá, thác ghềnh, sóng nước phối hợp với nhau: Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió và gió cứ cuồn cuộn từng luồng, tiếng reo của nước lúc nghe như là oán trách, rồi lại như là van xin, rồi lại là như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… Rồi bỗng dưng nó rống lên như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn, hoặc có lúc nó réo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm một ấm nước sôi khổng lồ, nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Con sông Đà còn hiện lên như con quái vật lúc nào cũng dình dập con thuyền. Thuyền đi vào luồng nước thì chết ngay, quãng hiểm trở của Sông Đà mang diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một của con người: hung hãn, nham hiểm và xảo quyệt.

Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút trăm màu để miêu tả hàng loạt những hình ảnh khác nhau vừa có chất lãng mạng của người nghệ sĩ, vừa giàu trí tuệ và tạo hình độc đáo, vượt xa những thủ pháp mà người ta quen gọi là nhân hóa, đi vào bản chất sâu xa nhất, độc đáo nhất của sự vật, tạo thành những trang viết biến hóa khôn lường. Cái tài của Nguyễn Tuân càng tô điểm thêm nét đẹp dữ dội của Sông Đà.

Sông Đà dữ dội nhưng cũng rất trữ tình. Nhìn từ máy bay xuống, Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân, nước Sông Đà màu sắc thay đổi theo mùa: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích,… mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ. Nhà văn nhìn Sông Đà như nhìn một cố nhân, một người thân cũ lâu ngày gặp lại, say mê ngắm màu nắng giòn tan vàng như hổ phách trên sông mà chợt liên tưởng tới màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” trong thơ Lý Bạch. Ngòi bút Nguyễn Tuân thuật điêu nghệ, khắc họa hình ảnh sông dưới những góc nhìn đa chiều, để thấy được những nét đẹp kỳ diệu ẩn giấu của vùng núi rừng Tây Bắc.

Bên trên là thái độ đối với Sông Đà, còn đây là tình cảm của tác giả đối với con người lao động nơi đây. Ngòi bút của Nguyễn Tuân tập trung về hình ảnh ông lái đò để miêu tả nét đẹp con người lao động. Hình ảnh ông lái đò đã gần 70 tuổi, nhưng vẫn cố vật lộn để giành giật sự sống với con sông, ông cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái, mặt méo bệch đi mà vẫn cưỡi lên con thác, nắm chặt lấy bờm sóng, ghì cương, đè sấn lên mà chặt đôi con thác… rất sinh động và ấn tượng.

Lên thác phải chống bằng sào, trên vai người lái đò, đầu sào in vào một khoanh bầm, đó là hình ảnh chân thực đến cảm động. Nguyễn Tuân xúc động: Cái đồng tiền tụ máu cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò Sông Đà, nhà văn thật khâm phục những con người dũng cảm, thông minh đã chiến thắng được thiên nhiên dữ dội. Ở những lao động nơi đây, có cái gì mà không in dấu con sông, không là sản phẩm của Sông Đà? Sông Đà đối với ông lái đò quả là một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm câu và những đoạn xuống dòng, ông lái đò đã trở thành một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác chèo ghềnh, mà nhà thơ gọi tài nghệ của ông là tay lái ra hoa.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Bởi lẽ, vốn cũng như nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thật đáng khâm phục. Tất cả các kiến thức này được thể hiện qua từng tác phẩm của ông, đặc biệt là sự thành công của tùy bút “Người lái đò sông Đà” thì Nguyễn Tuân cũng đã đưa ta đến với một miền quê hương Tổ quốc, khắc in vào tâm trí người đọc hình ảnh một con sông hùng vĩ, đẹp đến lạ thường.

Nói riêng về khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của tác giả Nguyễn Tuân thật phong phú, dường như, cứ mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn thận. Giọng văn đôi khi có vẻ thô kệch, nó dường như cũng đã dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên, giàu sức nghệ thuật.

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong Người lái đò sông Đà mẫu 6

“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc.

Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Trong những ngày tháng cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn, nhà thơ đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong những nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân – cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam, người đã mang lại những tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút Người lái đò Sông Đà – một tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.

Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn, là đến với sự tìm tòi và sáng tạo. Bởi vì “nhà văn là người sáng tạo lại thế giới”. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay giống với mình của ngày hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính vì thế, ông đã lấy “chủ nghĩa xê dịch” làm đề tài cho tác phẩm, làm mục đích cho cuộc đời mình. Sống là để đi, để tìm hiểu những điều mới lạ. Trước cách mạng, một mình với chiếc vali, Nguyễn đã bôn ba trên nhiều miền quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê hương”, bất mãn với cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mạng, ông cũng xuôi ngược nhiều nơi nhưng với tinh thần của người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói, đến Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc song núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa tươi vui và bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn ngôn ngữ phong phú của mình để viết nên những tờ hoa thơm thảo về con người và thiên nhiên của miền sông núi này…

Tác giả hay đi tìm cảm giác mạnh cho các giác quan. Vì vậy, những trang văn của ông thường mang theo âm điệu của những trận cuồng phong, bão tố. Nhưng không vì thế mà chúng mất đi nét dịu hiền, thơ mộng. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, Sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình. Nó mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một, có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”… ”Nước Sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông” và khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhỏm cả dậy để vồ lấy”… Nhưng cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở Sông Đà. Miêu tả con sông ở những đoạn xuôi dòng, ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, uyển chuyển, mang đậm chất thơ.

“Con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”… Trên con sông ấy, ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Trong cuộc chiến đấu “một mất, một còn” với thác nước, tác giả cho ta thấy được cái tài hoa, trí dũng tuyệt vời của ông lái. Người lái đò Sông Đà là hiện thân của tác giả, chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà không ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả… Giọng văn Nguyễn Tuân thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự vật. Sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, vừa là “kẻ thù , vừa là “cố nhân”. Dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động mạnh vào giác quan người đọc. Ông lái đò cũng thế cũng xuất hiện một cách sinh động, rõ nét và sắc sảo….

Đối với Nguyễn Tuân, “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả trên toàn bộ tác phẩm. Con người và sự vật, qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ. Nét đẹp Sông Đà là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Nó vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc. Cái áng tóc trữ tình của người thiếu nữ ấy là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. Nước Sông Đà cũng thế. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó thật gợi cảm. Nó gây nên nỗi nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Gặp lại Sông Đà, tác giả cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân. “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.

Và trong cái đẹp đẽ, thơ mộng của đất trời thiên nhiên, con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái điều khiển con thuyền một cách chủ động và thuần thục. Ông bao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội mà bắt chúng phải quy hàng. “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn viôlông. “Người lái đò Sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách Nguyễn Tuân. Trước cách mạng, nhà văn thường đi tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ, với một thời vang bóng đã qua. Nhân vật của Nguyễn là những Huấn Cao, quản ngục mang tâm trạng của kẻ “nào biết trên đầu có ai”. Nhân vật “vang bóng một thời” là những vị anh hùng ngang dọc, “khinh bạc đến điều”.

Nhưng sau cách mạng, Nguyễn đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi. Huấn Cao giờ đây đã lùi vào dĩ vãng chỉ còn đây một ông lái đò cả đời gắn bó với công việc, với cuộc sống. Hình ảnh ông lái lênh đênh trên sóng nước, chiến đấu với tử thần bằng cây sào bé nhỏ gây xiết bao xúc động trong lòng người đọc. Nguyễn Tuân đã trao tặng ông chiếc huy chương anh hùng lao động trên ngực như một niềm hãnh diện thiêng liêng. Ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những người nghệ sĩ tài hoa trí dũng song toàn. Miêu tả hình ảnh người đời thường lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.

Trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc và người lái đò, Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc… Mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh động. “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Âm thanh sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền, sóng dậy lên thành thác núi, “một anh bạn quay phim táo tợn…đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròng trành” rồi lao xuống “đáy hút Sông Đà” để quay phim… Tất cả những gì nhà văn viết ra, những gì nhà văn tưởng tượng và sáng tạo nên đều như được dựng lại trước người đọc. Tiếp xúc với tác phẩm Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân, ta như đang đứng trước con sông ấy, chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, chứng kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn sông êm ả, trữ tình.

Trong đoạn văn, Nguyễn Tuân dùng cả những kiến thức về quân sự, võ học… Cuộc chiến đấu giữa người lái với thạch trận Sông Đà diễn ra thật hấp dẫn, li kì: “Mặt nước hò la”, sóng nước “đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Nó “bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Tất cả những từ ngữ và hình ảnh mang đậm nét “quân sự, võ thuật” ấy như gợi lại trước mắt ta quang cảnh một cuộc hỗn chiến nguy hiểm, đầy hồi hộp hấp dẫn. Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thường được tuôn trào dào dạt trong tác phẩm. Với Người lái đò Sông Đà, tác giả đã đưa ta đến với một miền quê hương Tổ quốc. Vị trí Sông Đà, lịch sử Sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những trang viết đầy tính “uyên bác”. Nhiều địa danh được tác giả nhắc đến trong tác phẩm như Tà Mường Vát, Sơn La, Hát Loóng… Tất cả, tất cả chứng tỏ sự hiểu biết rất rộng và rất sâu của tác giả khi viết về Sông Đà…

Khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú. Mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn thận. Ông đã sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn đôi khi có vẻ thô kệch, dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Nguyễn Tuân không những viết nên những trang văn đầy tài hoa và lịch lãm mà ông còn sáng tạo nên những trang thơ cho đời. Đọc những dòng viết về con Sông Đà trữ tình, ta không khỏi ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước giọng văn êm ái, dịu dàng như thơ của Nguyễn Tuân. Viết về người lái đò Sông Đà, viết về một vùng quê hương Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động, ông lái càng anh dũng, ngoan cường trong công việc ta càng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn – Người lao động trong tác phẩm Nguyễn Tuân thật bình dị từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói. Nhưng ông ta lại là người anh hùng trước mắt Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị ấy chất nghệ sĩ tài hoa, dám đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông lái hiện lên trong tác phẩm là người lao động hăng hái, quên mình vì công việc.

Giữa cuộc sống bình dị này, chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác…

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong Người lái đò sông Đà mẫu 7

Nhắc đến Nguyễn Tuân ta nhớ đến bậc thầy của ngôn ngữ văn chương. Người ta cũng nghĩ ngay đến hiện thân của chủ nghĩa “xê dịch”. Ham cái gọi là “xê dịch” ông cũng thường viết về những cái gì không đứng yên: xe cộ, tàu thuyền, những con người có máu giang hồ, thích ngao du đây đó. Ông cũng thích tả những cái gì mãnh liệt, dữ dội: đèo cao, vực sâu, biển rộng, gió bão, thác dữ và cả cái đẹp tuyệt đỉnh, tuyệt vời, đẹp làm lí trí của con người như tê dại. Đi nhiều, ông cũng là người gần gũi với thiên nhiên, yêu thiên nhiên tha thiết đồng thời cũng khám phá nhiều vẻ đẹp, nét đặc biệt của núi sông, cây cỏ trên nhiều miền đất nước. Tập bút ký Sông Đà và bài ký "Người lái đò sông Đà" là một trong những tác phẩm như thế.

Sông Đà quả là một con sông vừa đẹp tuyệt vời vừa cực kì hung dữ. Tác giả gọi là “hung bạo và trữ tình”’: hung bạo là ở những đoạn có thác dữ, có những quãng hẹp kẹp giữa hai thành vách núi cao, hay những hút nước khủng khiếp chết người... Ở đây, sông Đà có “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù của con người: hung hãn, nham hiểm, xảo quyệt, độc ác... Trữ tình là ở những đoạn xuôi chèo êm ả. Dòng sông như một “áng tóc trữ tình", nước sông thay màu sắc theo mùa rất đẹp, phong cảnh nên thơ, những con thuyền đuôi én đáo... về phương diện này, sông Đà trở thành nỗi nhớ và người bạn thân của con người, một “cố nhân” (tức người bạn cũ).

"Người lái đò sông Đà" thì được tập trung mô tả trong cuộc vật lộn với nước sông Đà. Một quang cảnh thật dữ dội. Đây là những cảnh tượng kích thích mạnh giác quan nghệ sĩ của Nguyễn Tuân, cảm hứng được khơi dậy, nhà bèn tung ra cả một kho ngôn từ phong phú và đầy giá trị tạo hình của mình diễn tả cho được mọi sắc thái, mọi hình thù, mọi bộ mặt, mọi âm thanh, tình huống phức tạp, oái oăm nhất của trận chiến đấu giữa ông lái đò trí dũng tuyệt vời và thác nước sông Đà hung hãn, đầy mưu mô xảo quyệt. Chỉ nói riêng về âm thanh của con thác đã thấy rõ ngôn từ phong phú của Nguyễn Tuân tiếng nước thác lúc như “oán trách” lúc như “van xin” lúc như “khiêu khí “giọng gằn mà chế nhạo”, rồi “rống lên như tiếng một ngàn con trâu đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”... Còn hình ảnh ông lái đò “cố nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo sệch đi”, “ lên thác”, “nắm chặt lấy được cái bờm sóng", “ghì cương”, “phóng nhanh”, miết một đường chèo”, “rảo bơi chèo lên”, “đè sân lên mà chặt đôi” con thác…

Một nét phong cách khác của Nguyễn Tuân là thường quan sát, khám phá sự vật ở phương diện mĩ thuật và con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà quả là một công trình nghệ thuật tuyệt vời cùa tạo hóa “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Màu sắc sông Đà mùa xuân là “dòng xanh ngọc bích”, mùa thu thì “lừ lừ chín đỏ” có lúc lại lên cái “màu tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt hạ Dương Châu”...

Còn ông lái đò sông Đà thì trở thành một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác ghềnh, đã nắm chắc được “binh pháp của thần sông thần đá”, thuộc lòng các luồng sinh luồng tử của các con thác dữ nên chủ động trong mọi huống, có thể lái con thuyền vun vút qua hàng trăm ghềnh đá ngổn ngang, hiểm hóc... Nguyễn Tuân gọi thế là “tay lái ra hoa”.

Nguyễn Tuân còn là một cây bút rất mực tài hoa, lịch lãm. Mô tả mội tượng nào đấy, ông không chỉ vận dụng những hiểu biết về nghệ thuật văn chương mà còn kết hợp thích đáng những lợi thế của kĩ thuật khác như: hội họa, điêu khắc, âm nhạc, sân khấu, vũ đạo, điện ảnh. Bài kí Người lái đò sông Đà ng là một bằng chứng rất tiêu biểu của nét phong cách trên.

Chẳng hạn ông tả một cái hút khủng khiếp của sông Đà bằne kĩ thuật phim ảnh: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vạnh rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà. từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cái cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu ống quay tít, cái máy lia ngược (...) lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây tràn bằng nước sông xanh ve một áng thủy linh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem”.

Ở bài ký sông Đà này, Nguyễn Tuân còn vận dụng cả những nghệ thuật, kĩ thuật rất ít khi thấy được vận dụng trong văn chương: nghệ thuật quân sự và võ thuật. Nào là cửa sinh cửa tử, đánh khuýp vu hồi, đánh du kích, phục kích, đánh giáp lá cà, nào là đòn tỉa, đòn âm, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng... Ngoài ra ông còn vận dụng những tri thức của nhiều bộ môn khoa học trong tác phẩm của mình - một vốn văn hóa phong phú lịch lãm hiếm thấy - làm cho những bài kí của ông có giá trị văn hóa cao. Bài kí Người lái đò sông Đà nhờ thế đã giúp người đọc hiểu được rất nhiều điều bổ ích về lịch sử, địa lý sông Đà, về lịch sử cách mạng xung quanh con sông này, về địa hình địa thế của nó, về những con thác đủ loại, về các tài nguyên đất nước vùng sông Đà, về những bài thơ của Nguyễn Quang Bích, của Tản Đà..., về con sông ở miền Tây Tổ quốc này.

Chúng ta đều biết rằng Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo, tài sử dụng ngôn ngữ đến mức điêu luyện. Đọc "Người lái đò sông Đà" ta cảm nhận rõ thêm sự sắc sảo của giác quan người nghệ sĩ bậc thầy và kho từ vựng giàu giá trị tạo hình, lối văn rất mực tài hoa. Bởi thế bài ký vừa có giá trị văn học vừa đem đến cho người đọc những thông tin thú vị về sông Đà, con sông ở vùng Tây bắc Tổ quốc.

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong Người lái đò sông Đà mẫu 8

Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều những tác phẩm hay và nổi bật lên là tác phẩm Người lái đò sông đà ông đã thể hiện được những phong cách nghệ thuật tài tình của mình trong tác phẩm đó. Nguyễn Tuân đã rất tài hoa khi thể hiện phong cách của mình trong thể loại bút ký, bút ký đó là những tâm huyết của ông vì vậy ông đã giành tâm huyết và cả những niềm đam mê của mình vào thể loại này, ông đã chứng minh cho người đọc những tài năng trong phong cách thơ ca của mình, ông tài hoa bởi chất ký giàu chất suy tư chính sự, có sự đan xen giữa các yếu tố tạo nên một phong cách đẹp và thơ mộng, niềm tự hào của cả dân tộc bởi có một tài năng về bút ký như ông, ông đã tạo nên một phong cách nghệ thuật đặc sắc trong con người của mình, với tài năng của mình ông đã tạo nên một phong cách bút ký đặc sắc và chỉ có ở ông mới có.

Với tình yêu thiên nhiên đất nước Nguyễn Tuân đã thể hiện lối viết phóng túng của mình trong tùy bút người lái đò sông đà, một tình yêu mãnh liệt đã tạo cho ông rất nhiều cảm xúc để thăng hoa vẻ lên một bức tranh với đầy đủ màu sắc về sông đà, sông đà hiện lên với những tinh cách hung bạo, dưới ngòi bút của mình Nguyễn Tuân đã thể hiện dòng sông đó với những tính cách rất đa dạng, những nét khắc họa của mình đã được thể hiện qua hình tượng sông đà và hình tượng người lái đò sông đà. Người đọc hình dung được những vẻ đẹp đó qua lối viết linh hoạt, nó thể hiện sông đà với đa dạng những màu sắc và tính cách có lúc cũng dịu êm và lúc thì ầm ầm hung dữ như những con vật dữ, sông đà là minh chứng lịch sử là dòng sông hào hùng của dân tộc, dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Tuân đã tạo nên cho người đọc những cảm xúc khó diễn tả ở hình tượng sông đà.

Nguyễn Tuân đã phát hiện ra những vẻ đẹp của thiên nhiên trên mảnh đất của mình, với tình yêu quê hương da diết ông đã viết lên hình tượng sông đà thật phóng túng biết bao, với đa dạng cảm xúc, chắc hẳn ai đã từng đọc qua tác phẩm này cũng đều tự hào về phong cách viết phóng túng giàu sức truyền cảm của Nguyễn Tuân, ông là nhà văn tài ba có có sự tinh tế trong việc cảm nhận những vẻ đẹp mà ẩn dấu bên trong rất nhiều những cảm xúc, cảm xúc của những con người có tình yêu thương thiên nhiên sâu sắc. Sự tinh tế trong phong cách cảm nhận thiên nhiên của mình càng góp phần làm cho phong cách của ông đậm nét qua những hình tượng độc đáo và người đọc cảm thụ được trong đó một tác giả của tình yêu, với nét bút đậm đà những tài hoa và cả những tinh tế, tác giả không chần chừ khi vẽ lên những vẻ đẹp tài hoa đó.

Với những cảm xúc được thể hiện tùy hứng của Nguyễn Tuân đã tạo ra một sông đà với một vẻ đẹp khó theo dõi nhiều những tình huống khiến người đọc khó quan sát nhanh nhạy được, văn của Nguyễn Tuân không thể hiện lên trên bề mặt câu chữ mà nó ẩn dấu dưới câu chữ những tài hoa và uyên bác, ông đã chứng tỏ cái ngông, cái chất văn chương của mình tới đọc giả, người đọc sẽ không thể bỏ qua một vị nhân tài trong lối tùy bút, ông đã thể hiện lối viết phong phú tới những vẻ đẹp hoàn mĩ, đối với sông đà ông đã miêu tả sông đà với những hình ảnh thu hút đắm say lòng người sông đà được so sánh với những hình ảnh ấn tượng thu hút lòng người bởi tài năng sử dụng phong cách của mình trong thể loại tùy bút người lái đò sông đà.

Những nét đặc sắc được lặp đi lặp lại, chúng ta đều có thể cảm nhận được những đặc sắc nghệ thuật đó, tác giả đã cảm nhận được cuộc sống của người lao động thông qua nhân vật người lái đò, ông đã nêu lên tinh thần anh dũng và kiên cường của người lái đò sông đà, với chất ngông của ông trước cách mạng tháng tám ông đã có những sáng tác mạng đạm tính chất cá nhân và những nét độc đáo đó đã tạo lên phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân một cách đặc sắc và tiêu biểu.

Với những tài năng của mình Nguyễn Tuân đã thể hiện phong cách nghệ thuật của mình thật đặc sắc trong tác phẩm với những nét bút tài hoa ông đã vẻ lên một con sông đà với bao nhiêu tính cách và chắc hẳn người đọc ấn tượng với hai tính cách nổi bật đó là nét hung bạo và những lúc cũng dịu êm, dòng sông hiện lên trong mắt người đọc hai trạng thái trái ngược nhâu khi dữ dội hung bạo thì sông đà đã cuộn sóng và làm cho người đọc ngạc nhiên bới khung cảnh thiên nhiên này, và đôi khi tác giả còn thể hiện những nét dịu êm của những cô gái DiGan, hai tính cách điển hình trong tùy bút người lái đò sông đà của Nguyễn Tuân. Tác giả còn vẻ ra hình tượng người lái đò cũng vô cùng hiên ngang và anh dũng đã vượt qua những luồng sóng vô hình để lái vững những chiếc thuyền đò đây là một trong những đặc sắc nghệ thuật của tác giả, với những tài năng đó Nguyễn Tuân đã tạo nên một tác phẩm để lại rất nhiều cảm xúc trong lòng người đọc.

Mỗi chúng ta nếu ai đã từng đào sâu và tìm hiểu về Nguyễn Tuân thì đều nhận thấy ông là một con người tài hoa và có một nhân cách cao đẹp ở ông không chỉ nhìn nhạn thấy một con người với tình yêu thiên nhiên lòng cháy mà con nhận thấy một con người với tài năng sử dụng chất ngông của mình, sau cách mạng tháng tám ông đã càng chứng tỏ chất ngông của mình, nhưng tình cảm mà Nguyễn Tuân thể hiện trong bài này cũng rất đặc sắc khi tác giả so sánh con sông đà như những áng tóc trữ tình …. Qua đó ta thấy được sự đa dạng trong phong cách của Nguyễn Tuân, một con người có cái nhìn đa chiều nhiều phương diện, đã nhìn sông đà không chỉ ở một góc cạnh mà nhìn sông đà ở nhiều chiều nhiều mặt của một lối văn trữ tình.

Nguyễn Tuân nhà văn tài ba chúng ta bắt gặp ông với một người giàu chất suy tư, tài năng của ông được ông thể hiện đạm nét qua hình tượng sông đà với áng tóc trữ tình thu hút lòng người.

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong Người lái đò sông Đà mẫu 9

Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ đến cái gọi là "chủ nghĩa xê dịch". Thích "xê dịch" nên hay viết về những cái gì liên quan đến "xê dịch" như đường sá, sông nước, xe cộ, tàu thuyền, những người có máu giang hồ, du lịch, những người lái xe lái đò… Ông cũng thích những cái gì gây cảm giác mãnh liệt. Thực ra, chủ nghĩa xê dịch, nói như Nguyễn Tuân, cũng là một cách để luôn luôn "thay thực đơn cho giác quan". Vì thế ông thích tả những cái gì hoặc dữ dội, hoặc mãnh liệt, hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh, tuyệt vời. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, tả gió, tả bão, tả thác nước dữ dội. Nguyễn Tuân cũng là người yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cây cỏ trên đất nước mình.

Sông Đà quả là một con sông vừa đẹp tuyệt vời vừa cực kì hung dữ. Tác giả gọi là "hung bạo và trữ tình": hung bạo là ở những đoạn có thác dữ, có những quãng hẹp kẹp giữa hai thành vách núi cao hay những hút nước khủng khiếp chết người ở đây, sông Đà có "diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một" của con người hung hãn, nham hiểm, xảo quyệt, độc ác.. Trữ tình là ở những đoạn xuôi chèo êm ả. Dòng sông như một "áng tóc trữ tình", nước sông thay đổi màu sắc theo mùa rất đẹp, phong cảnh nên thơ, những con thuyền đuôi én độc đáo… Về phương diện này, sông Đà trở thành nỗi nhớ và người bạn thân thiết của con người, một "cố nhân" (tức người bạn cũ).

Người lái đò sông Đà thì được tập trung mô tả trong cuộc vật lộn với thác nước sông Đà. Một quang cảnh thật dữ dội. Đó là những cảnh tượng kích thích mạnh giác quan nghệ sĩ của Nguyễn Tuân. Cảm hứng được khơi dậy, nhà văn bèn tung ra cả một kho ngôn từ phong phú và đầy giá trị tạo hình của mình để diễn tả cho được mọi sắc thái, mọi hình thù, mọi bộ mặt, mọi âm thanh, mọi tình huống phức tạp, oái oăm nhất của trận chiến đấu giữa ông lái đò trí dũng tuyệt vời và thác nước sông Đà hung hãn, đầy mưu mô xảo quyệt. Chỉ nói riêng về âm thanh của con thác đã thấy rõ ngôn từ phong phú của Nguyễn Tuân: tiếng thác nước lúc như "oán trách" lúc như "van xin" lúc như "khiêu khích", "giọng gàn mà chế nhạo", rối "rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa"… Còn hình ảnh ông lái đò thì: "cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo xệch đi", "cưỡi lên thác", "nắm chặt lấy được cái bờm sóng", "ghì cương", "phóng nhanh", "lái miết một đường chèo", "rảo bơi chèo lên", "đè sấn lên mà chặt đôi" con thác…

Một nét phong cách khác của Nguyên Tuân là thường quan sát, khám phá sự vật ở phương diện mĩ thuật và con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà quả là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tay ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Màu sắc sông Đà thì mùa xuân là "dòng xanh ngọc bích", mùa thu thì "lừ lừ chín đỏ" có lúc lại lóe lên cái màu nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt hạ Dương Châu".

Còn ông lái đò sông Đà thì trở thành một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác ghềnh, đã nắm chắc được "binh pháp của thần sông thần đá", thuộc lòng các luống sinh luống tử của các con thác dữ nên chủ động trong mọi tình huống, có thể lái con thuyền vun vút qua hàng trăm ghềnh đá ngổn ngang, hiểm hóc... Nguyễn Tuân gọi thế là "tay lái ra hoa".

Nguyễn Tuân còn là một cây bút rất mực tài hoa, lịch lãm. Mô tả một đối tượng nào đấy, ông không chỉ vận dụng những hiểu biết về nghệ thuật văn chương mà còn kết hợp thích đáng những lợi thế của kĩ thuật thể hiện của nhiều ngành nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, sân khấu, vũ đạo, điện ảnh. Bài kí Người lái đò sông Đà cũng là một bằng chứng rất tiêu biểu của nét phong cách trên.

Chẳng hạn ông tả một cái hút khủng khiếp của sông Đà bằng kĩ thuật phim ảnh: "Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà, từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cái cột nước cao đến vài sài. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược (…) lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh về một áng thủy tím khói đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vờ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem".

Ở bài ký Sông Đà này, Nguyễn Tuân còn vận dụng cả những nghệ thuật, kĩ thuật rất ít khi thấy vận dụng trong văn chương: nghệ thuật quân sự và võ thuật. Nào là cửa sinh cửa tử, đánh khuýp vu hồi, đánh du kích, phục kích, đánh giáp lá cà, nào là đòn tỉa, đòn âm, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng…

Ngoài ra ông còn vận dụng những tri thức của nhiều bộ môn khoa học trong tác phẩm của mình – một vốn văn hóa phong phú lịch lãm hiếm thấy – làm cho những bài kí của ông có giá trị văn hóa cao. Bài kí Người lái đò sông Đà nhờ thế đã giúp người đọc hiểu được rất nhiều điều bổ ích về lịch sử, địa lí sông Đà, về lịch sử cách mạng xung quanh con sông này. Về địa hình địa thế của nó, về những con thác đủ loại, về các tài nguyên đất nước vùng sông Đà và những bài thơ của Nguyễn Quang Bích, cùa Tản Đà về con sông ở miền Tây Tổ quốc này.

Phong cách Nguyễn Tuân nói chung rất độc đáo và phong phú, nhưng ở mỗi tác phẩm lại phô bày những khía cạnh khác nhau. Ở bài kí Người lái đò sông Đà người ta thấy phong cách nghệ thuật của ông thể hiện rõ nhất ở sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, góc cạnh đủ sức diễn tả những cảm giác kia, ở lối văn rất mực tài hoa và lịch lãm thể hiện ở cách nhìn sự vật, con người khiến cho bài kí vừa có giá trị văn học cao, vừa có giá trị thông tin văn hóa phong phú.

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong Người lái đò sông Đà mẫu 10

"Chúng thủy giai đông tẩu

Đà giang độc bắc lưu".

Con sông Đà thân yêu ngày nay đã cho nhân dân ta thủy điện, đem ánh sáng đến mọi miền đất nước. Cách đây trên bốn thập kỉ, nhà văn Nguyễn Tuân, đã viết "Sông Đà", trong đó có bài kí "Người lái đò sông Đà" ngợi ca cảnh sắc hùng vĩ, tráng lệ của sông núi và sự dung cảm, tài hoa của con người Tây Bắc. Áng văn này đích thực là một "Tờ hoa", một "Trang hoa", thể hiện những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân - một nghệ sĩ lớn, tiêu biểu cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại: uyên bác, tài hoa, độc đáo.

Bài kí có hai nhân vật - hình tượng để lại cho người đọc nhiều cảm xúc thẩm mĩ, đó là hình ảnh con sông Đà và người lái đò trên Đà giang. Mấy thế kỉ trước, đường lên Tây Bắc chủ yếu đi theo đường sông Đà, ca dao có câu:

"Đường lên Mường Lễ bao xa,

Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh".

Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng xinh đẹp. Nguyễn Tuân coi sông Đà là người bạn thân thiết, một "cố nhân"với nhiều thương nhớ, bồi hồi. Đọc một em học sinh biết thêm: Li Tiên và Bả Biên giang là hai cái tên xa xưa của Đà giang. Và độ dài của nó là 883 nghìn mét, riêng từ đoạn biên giới Việt - Trung đến ngã ba Trung Hà dài đúng 500 cây số lượn rồng rắn.

Sông Đà hung dữ có lắm thác nhiều ghềnh. Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm - du lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thủy tận, kể cho ta nghe tên bao nhiêu con thác dữ, những cái tên là lạ hay: thác En, thác Giăng, Mó Tôm, Mó Nàng, Suối Hoa, Hót Gió, thác Tiếu, thác Bờ,... Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống sông Đà êm ả, bình yên; người Thái mới có câu tục ngữ: "Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm".

Ở thượng nguồn, lòng sông Đà có đoạn thắt lại "như cái yết hầu", đôi bờ vách đá dựng thành "con nai,con hổ có thể vọt từ bờ này sang bờ kia". Ở ghềnh Hát Loóng "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè...." dài hàng mấy cây số! Có những cái vực với những hút nước sâu thẳm như giếng bê tông "nước thở và kêu ặc ặc như cửa cống cái bị sặc", ở phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn đang chờ mồi. Âm thanh tiếng thác mới ghê rợn, lạ lùng như tiếng rống của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng tre, rừng vầu bị cháy. Nguyễn Tuân tạo nên những so sánh và liên tưởng rất "đắt"cho thấy óc quan sát, cách nghĩ cách cảm của ông về thác, ghểnh Đà giang.

Có lúc ông ví sông Đà hung dữ có "diện mạo và tâm địa" một thứ kẻ thù số một của con người. Nó hung hãn, nham hiểm, xảo quyệt, độc ác với bao "thạch trận", bao "trùng vi" có những ông tướng đá dữ tợn, lạnh lùng đứng trấn giữ lớp lớp "cửa tử" và "cửa sinh" với những boong ke chìm mai phục khắp lòng sông, sẵn sàng nhấn chìm, bẻ gãy tan tành những con thuyền đi qua. Sông Đà lại có mùa, có đoạn đẹp một cách hữu tình: "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích... Mùa thu nước sông Đà đỏ mặt một người bầm đi vì rượu bữa...". Cuối tháng hai đầu tháng ba, hoa ban hoa gạo nở bung núi rừng Tây Bắc "Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình...". Hình ảnh những đàn hươu ngốn cỏ gianh, những nương ngô xanh rờn, những con cá dầm xanh quẫy vọt lẽn mặt nước sông "bụng trắng như bạc rơi thoi" gợi lẽn vẻ đẹp kì thú, hoang sơ của Đà giang.

Nguyễn Tuân đã viết nên những đoạn văn tuyệt hay và tuyệt đẹp nói lên vẻ hoang sơ của sông Đà: 'Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ... Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn ngày xưa". Sông Đà càng trở nôn thơ mộng với "những con đò đuôi én thắt mình dây điển" ở vùng trung lưu và "những con đò mình nở chạy buồm vải" vùng hạ lưu. Đọc "Người lái đò Sông Đà", hơn bao giờ hết ta cảm nhận một cách sâu sắc câu thơ đề từ: "Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông". Với tình yêu sông núi của một con người tài hoa, Nguyễn Tuân đã tả sông Đà một cách đa dạng, biến hóa muôn màu muôn vẻ. Không gian nghệ thuật và thời gian thẩm mĩ vừa thực vừa mộng, đã khơi gợi trong lòng người đọc tình yêu thiết đối với Đà giang – mảnh hồn Tổ quốc thiêng liêng.

Hình ảnh người lái đò sông Đà được khắc hoạ khá độc đáo. Con người này như dẫn ta đi xuôi ngược dòng sông, lúc vượt thác, lúc cưỡi ghềnh. Đó là một người làm ăn giỏi, thạo nghề sông nước. Với con thuyền sáu mái chèo, ông tung hoành xuôi ngược trên chiến trường sông nước, "nắm chắc binh pháp của thần Sông, thần Đá". Ông đã đưa con thuyền vượt qua nhiều cửa tử để đi vào cửa sinh, xuôi dòng bình yên. Hơn mười nãm liền chở đò xuôi ngược trên sông Đà, tiếng nói của ông "ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông". Mái tóc nay đã bạc "cái đầu quắc thước đặt một thân cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun". Cánh tay ông "trẻ tráng" quá; nhìn ông lão bảy mươi tuổi mà ta tưởng như mình đang đứng trước một chàng trai vạm vỡ. Bả vai và ngực ông nổi lên những "củ nâu" dấu vết của những tháng ngày chèo đò vượt thác. Nguyễn Tuân gọi đó là thứ "Huân chương lao động siêu hạng".

Nhà văn đi sâu miêu tả ông lái đò đưa thuyền qua ba thạch trận trên chiến trường sông nước. Cảnh ghềnh thác cực kì dữ dội, ghê sợ. Lúc thì ông tả thác qua âm thanh nước nghe được, lúc thì ông tả cái hút nước mắt nhìn thấy được như một đoạn phim cận cảnh quay nhanh. Cảm hứng được khơi dậy, nhà văn tung ra một kho ngôn từ giàu có, phong phủ để diễn tả cuộc chiến đấu của người lái đò với thần Đá thần Sông. Cảnh tượng vượt thác ghềnh với bao hình thù và sắc thái, với bao bộ mặt và âm thanh, xa gần ẩn hiện, nhiêu tình huống gay cấn nhất, oái oăm nhất được khắc hoạ trên quy mô và tầm vóc hoành tráng, đã làm nổi bật vai trò vị thuyền trưởng dũng cảm tài hoa, chiến thắng những mưu mồ xảo quyệt của thần Sông, thần Đá. Mưu trí dũng cảm, quyết đoán làm nên bản lĩnh cao cường của ông lái đò. Có lúc con đò như một mũi tên tre "vút vút" xuyên qua hơi nước của trùng vi thạch trận. Có lúc ông đã "nắm chặt cái bờm sóng", nắm chắc lấy luồng nước, vút qua mọi cửa tử lao thẳng đến cửa sinh,... Cũng có trường hợp ông bị luồng nước "vô sở bất chí" đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, đôi mắt nổ đom đóm hoa lên, nhưng ông lái đò vẫn tỉnh táo đưa con đò thoát hiểm!

Nguyễn Tuân không chỉ tả ông lái đò trong lúc vượt thác băng ghềnh mà còn miêu tả ông sau một ngày giao tranh với thần Sông thần Đá, để làm nổi bật cái trầm tĩnh, sự thư thái ung dung của một vị thuyên trưởng lão luyện, dạn dày sông nước. Lúc ngừng chèo, đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, ông lái đò chỉ nói chuyện "cá anh vũ, cá dầm xanh", những hầm cá về mùa hè tiếng nổ to như mìn, bộc phá. Còn cái chuyện vượt thác đối với ông chẳng có gì là hồi hộp, đáng nhớ. Nguyễn Tuân là một nhà văn bậc thầy về ngôn ngữ. Tiếng thác nước được ông tả biến hóa, sinh động bằng một vốn từ ngữ giàu có kì lạ. Trên mặt ghềnh thác thì "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió"... Hút nước kêu "ặc ặc như rót dầu sôi vào". Tiếng thác nghe từ xa vô cùng ghê rợn "như oán trách ... như van xin.... như khiêu khích... giọng gằn mà chế nhạo", có lúc rống lên như đàn trâu mộng hàng ngàn con đang lồng lôn giữa rừng cháy!

Nguyễn Tuân đã sử dụng vốn hiểu biết sâu rộng về địa lí, lịch sử, về quân sự, thể dục thể thao, về các môn nghệ thuật như điện ảnh, âm nhạc, hội hoạ... cả tiếng lóng của nghề sông nước để tạo nên những đoạn văn đẹp, hấp dẫn lạ. Nào là đòn tỉa đòn âm, đánh hồi lùng, phục kích, vu hồi. Nào là trùng vi thạch trận, boong ke, cửa sinh, cửa tử, pháo đài... Nào là thanh viện, giáp lá cà, tiền vệ, hậu vệ tuyến giữa, tuyến hai... Chữ dùng thật đắt, lối đặt câu co duỗi dài ngắn, vừa đa dạng, uyển chuyển, vừa thú vị.

Các từ tượng thanh, nhóm từ đồng nghĩa, những so sánh liên tưởng, lối nhân hóa... rất sáng tạo, mới mẻ, ý vị và hay. Hồ Xuân Hương viết: "Đâm toạc châm mây, đá mấy hòn" ("Tự tình") hoặc "Hòn đá xanh rì lún phún rêu ("Đèo Ba Dội"). Bà Huyện Thanh Quan lại có câu thơ: "Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt - Nước còn cau mặt với tang thương". Đó là những vần thơ tuyệt bút viết vé đá mang tính hàm nghĩa. Nguyễn Tuân cũng có những câu vãn hay viết về đá, về thạch trận nơi sông Đà: "Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá những hòn đá bệ vệ oai phong lầm liệt...".

Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác, tài hoa trong cách sử dụng vốn hiểu biết sâu rộng vẻ văn chương. Một câu thơ nước ngoài, một câu cổ thi được ông dùng làm đề từ, đã mấy ai biết xuất xứ của nó? - Và đã tạo nên cốt cách sang trọng cho bài kí. Ông nhắc lại câu đồng dao để nói về huyền thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh tranh giành người đẹp, để yêu thêm núi Tản sông Đà:

"Núi cao sông hãy còn dài,

Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen".

Tác giả mượn câu thơ Tản Đà để làm đẹp thêm cái thơ mộng của Đà giang:

"Dải sông Đà bọt nước lênh bênh

Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình".

Cảnh mùa xuân trên sông Đà cũng là cảnh đẹp hoa khói như con sông Trường Giang hơn nghìn năm về trước trong đời Đường khi thi tiên Lý Bạch tiễn bạn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng: "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu". Nói về truyền thống anh hùng của đồng bào Tây Bắc, nhà văn đã không quên chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích - bậc sĩ phu kiên cường chống Pháp cuối thế kỉ XIX - để đưa vào bài kí:

"Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu,

Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu".

Nhờ thế mà đọc bài kí "Người lái đò Sông Đà", ta hiểu được nhiều điều bổ ích vể cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc, về địa lí, lịch sử, về truyền thống cách mạng của các dân tộc xung quanh con sông Đà, về hình thức, ghềnh sông, về tài nguyên Tổ quốc bao la, về những câu thơ đẹp - tinh hoa văn hóa cổ kim Đông Tây mà Nguyễn Tuân chọn lọc đưa vào. Tâm hồn người như được nâng lên, trí tuệ được khơi dậy, bừng sáng và trở nên giàu có. "Người lái đò Sông Đà" đúng là một giai phẩm mà Nguyễn Tuân đã góp vào, làm đẹp thêm vườn hoa văn nghệ Việt Nam.

Ai đã từng đọc "Vang bóng một thời" chắc cảm nhận được cái sắc sảo, tài hoa và lịch lãm của nhà văn Nguyễn Tuân khi ông nói về chuyện uống trà, thưởng hoa, trồng cây cảnh, chơi chữ, đánh thơ, thả thơ, chơi đèn trung thu... của những nhà nho thưở trước, những thứ ăn chơi tao nhã, sang trọng, thể hiện một phong cách sống đẹp, khẳng định bản sắc của nền văn hóa Việt Nam với độ dày hàng nghìn năm lịch sử.

Đọc "Người lái đò Sông đà", ta biết thêm một Nguyễn Tuân uyên bác, tài hoa, độc đáo. Tả cảnh thì biến hóa, trong bốn mùa, trong mọi thời gian và không gian, đa thanh và phức điệu lúc nói về thác, ghềnh... Bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho chữ nghĩa giàu có. Văn của Nguyễn Tuân đúng là những giọt mật của con ong yêu hoa, cần mẫn và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi tài hoa, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.

Đọc "Người lái đò Sông Đà" ta yêu thêm con người Việt Nam dũng cảm, cần cù và tài hoa; ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là quà tặng của thiên nhiên:

"Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát - khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi"

Lịch thi THPT Quốc Gia 2024

Xem chi tiết lịch thi: Lịch thi THPT Quốc Gia 2024

Gửi đề thi để nhận lời giải ngay: https://www.facebook. com/com.VnDoc

Chia sẻ, đánh giá bài viết
10
3 Bình luận
Sắp xếp theo
  • Gấu Bắc Cực
    Gấu Bắc Cực

    Ad cho mình xin tài liệu phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà, cảm ơn ad trước nha

    Thích Phản hồi 08/06/22
    • Ẩn Danh
      Ẩn Danh

      Ad cho mình xin ít tài liệu ôn thi THPT môn Văn với nhé, có cả Toán thì càng tốt ạ

      Thích Phản hồi 08/06/22
      • Gà Bông
        Gà Bông

        Thi đến nơi rồi mà tui chưa ôn được chi bài sông Đà luôn á :(

        Thích Phản hồi 08/06/22
        🖼️

        Gợi ý cho bạn

        Xem thêm
        🖼️

        Văn mẫu lớp 12

        Xem thêm