Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Đề thi giữa học kì 2 môn Tiếng Việt lớp 5 trường Tiểu học Mỹ An A, Đồng Tháp năm học 2016 - 2017

Đề thi giữa học kì 2 môn Tiếng Việt lớp 5

Đề thi giữa học kì 2 môn Tiếng Việt lớp 5 trường Tiểu học Mỹ An A, Đồng Tháp năm học 2016 - 2017 gồm 3 phần: đọc thành tiếng, đọc thầm, viết sẽ giúp các em học sinh ôn luyện củng cố kiến thức, chuẩn bị cho bài thi giữa học kì 2 lớp 5 đạt kết quả cao. Mời các em học sinh cùng tham khảo chi tiết.

PHÒNG GDĐT HUYỆN THÁP MƯỜI

TRƯỜNG TIỂU HỌC MỸ AN A

KIỂM TRA ĐỊNH KỲ GIỮA HỌC KÌ II

NĂM HỌC 2016 – 2017

MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 5

ĐỀ KIỂM TRA ĐỌC THÀNH TIẾNG

Ngày kiểm tra: ………………..

Thời gian: ………………….

I. Giáo viên cho học sinh bốc thăm đọc một đoạn và trả lời một câu hỏi một trong những bài sau:

1. Thái sư Trần Thủ Độ (SGK Tiếng Việt 5 tập II trang 15)

2. Trí dũng song toàn (SGK Tiếng Việt 5 tập II trang 25)

2. Phân xử tài tình (SGK Tiếng Việt 5 tập II trang 46)

II. Đáp án:

1. THÁI SƯ TRẦN THỦ ĐỘ

A. Đoạn 1:

Trần Thủ Độ là người có công lập nên nhà Trần, lại là chú của vua và đứng đầu trăm quan, nhưng không vì thế mà tự cho phép mình vượt qua phép nước.

Có lần, Linh Từ Quốc Mẫu, vợ ông, muốn xin riêng cho một người làm chức câu đương. Trần Thủ Độ bảo người ấy:

- Người có phu nhân xin cho làm chức câu đương, không thể ví như những câu đương khác. Vì vậy, phải chặt một ngón chân để phân biệt.

Người ấy kêu van mãi, ông mới tha cho

Một lần khác, Linh Từ Quốc Mẫu ngồi kiệu đi qua chổ thềm cấm, bị một người quân hiệu ngăn lại. Về nhà, Bà khóc: (1 phút 3 giây)

Câu hỏi 1: Khi có người muốn xin chức câu đương, Trần Thủ Độ đã làm gì?

Trả lời: Trần Thủ Độ đồng ý, nhưng yêu cầu chặt một ngón chân người đó để phân biệt với các câu đương khác.

B. Đoạn 2:

- Tôi là vợ thái sư mà bị kẻ duới khinh nhờn.

Ông cho bắt người quân hiệu đến. Người này nghĩ là phải chết. Nhưng khi nghe anh ta kể rõ ngọn ngành, ông bảo:

- Người ở chức thấp mà biết giữ phép nước như thế, ta còn trách gì nữa!

Nói rồi, lấy vàng, lụa thưởng cho.

Trần Thủ Độ có công lớn, vua cũng phải nể. Có viên quan nhân lúc vào chầu vua, ứa nước mắt tâu:

- Bệ hạ còn trẻ mà thái sư chuyên quyền, không biết rồi xã tắc sẽ ta sao. Hạ thần lấy làm lo lắm.

Vua đem viên quan đến gặp Trần Thủ Độ và nói:

- Kẻ này dám tâu xằng với trẫm là Thượng phụ chuyên quyền, nguy cho xã tắc.

Trần Thủ Độ trầm ngâm suy nghĩ rồi tâu:

Quả có chuyện như vậy. Xin Bệ hạ quở trách và ban thưởng cho người nói thật (1 phút 21 giây)

Câu hỏi 1: Trước việc làm của người quân hiệu, Trần Thủ Độ xử lí ra sao?

Trả lời: Không những không trách móc mà còn thưởng cho vàng, lụa.

Câu hỏi 2: Khi biết có viên quan tâu với vua rằng mình chuyên quyền, Trần Thủ Độ nói thế nào?

Trả lời: Trần Thủ Độ nhận lỗi và xin vua ban thưởng cho viên quan dám nói thẳng, nói thật.

2. TRÍ DŨNG SONG TOÀN

A. Đoạn 1:

Mùa đông năm 1637, thám hoa Giang Văn Minh được vua Lê Thần Tông cử đi xứ Trung Quốc. Chờ rất lâu mà vẫn không được vua Minh cho tiếp kiến, ông vờ khóc lóc rất thảm thiết. Vua Minh liền hạ chỉ mời ông đến hỏi cho ra lẽ. (27,6 giây)

Thám hoa vừa khóc vừa than rằng:

- Hôm nay là ngày giỗ cụ tổ năm đời của thần, nhưng thần không có mặt ở nhà để cúng giỗ. Thật là bất hiếu với tổ tiên!

Vua Minh phán:

- Không ai phải giỗ người đã chết từ năm đời. Sứ thần khóc lóc như vậy thật không phải lẻ!

Giang Văn Minh nghe vậy, bèn tâu:

- Vậy, tướng Liễu Thăng tử trận đã mấy trăm năm, sao hàng năm nhà vua vẫn bắt nước tôi cử người mang lễ vật sang cúng giỗ?

Biết đã mắc mưu sứ thần, vua Minh vẫn phải nói:

- Từ nay trở đi, nước ngươi không phải góp giỗ Liễu Thăng nữa.

Từ đó nước ta mới thoát khỏi nạn mỗi năm cống nạp một tượng vàng để đền mạng Liễu Thăng. (1 phút 41 giây)

Câu hỏi 1: Thám hoa Giang Văn Minh đi sứ sang Trung Quốc vào năm nào? Do ai cử đi?

Trả lời: Thám hoa Giang Văn Minh đi sứ sang Trung Quốc vào năm 1637, do vua Lê Thần Tông cử đi.

Câu hỏi 2: Sứ thần Giang Văn Minh làm cách nào để vua nhà Minh bãi bỏ lệ góp giỗ Liễu Thăng?

Trả lời: Vờ khóc than vì không có mặt ở nhà để cúng giỗ cụ tổ năm đời. Làm cho vua Minh phải tuyên bố bãi bỏ lệ góp giỗ Liễu Thăng.

B. Đoạn 2:

Lần khác, Khi Giang Văn Minh vào yết kiến, vua Minh sai một đại thần ra vế đối:

- Đồng trụ đến giờ rêu vẫn mọc.

Biết họ ngạo mạng nhắc chuyện Mã Viện dẹp cuộc nổi dậy của Hai Bà

Trưng, Giang Văn Minh cứng cỏi đối lại ngay:

- Bạch Đằng thuở trước máu còn loang.

Thấy sứ thần Việt Nam dám lấy việc quân đội cả ba triều đại Nam Hán,

Tống và Nguyên đều thảm bại trên sông Bạch Đằng để đối lại, vua Minh giận quá, sai người ám hại ông

C. Đoạn 3:

Thi hài Giang Văn Minh được đưa về nước. Vua Lê Thần Tông đến tận linh cữu ông, khóc rằng:

Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ.

Điếu văn của vua Lê còn có câu: “Ai cũng sống, sống như ông, thật đáng sống. Ai cũng chết, chết như ông, chết như sống.” (1 phút 20 giây)

Câu hỏi 1: Chi tiết nào cho thấy Giang Văn Minh không cịu nhún nhường trước câu đối của đại thần nhà Minh?

Trả lời: Giang Văn Minh cứng cỏi đáp lại ngay:

Bạch Đằng thuở trước máu còn loang.

Câu hỏi 2: Vì sao có thể nói Giang Văn Minh là người Trí dũng song toàn?

Trả lời: Vì Giang Văn Minh mưu trí, thông minh và bất khuất.

3 PHÂN XỬ TÀI TÌNH

A. Đoạn 1:

Xưa, có một vị quan án rất tài. Vụ án nào, ông cũng tìm ra manh mối và phân xử công bằng.

Một hôm, có hai người đến công đường. Một người mếu máo:

- Bẩm quan, con mang vải đi chợ, bà này hỏi mua,rồi cướp tấm vải, bảo là của mình.

Người kia cũng rưng rưng nước mắt:

- Tấm vải là của con. Bà này lấy trộm.

Đòi người làm chứng nhưng không có, quan cho lính về nhà họ xem. Cả hai đều có khung cửi như nhau, cùng mang vải ra chợ bán hôm ấy. Ngẫm một lát, quan ôn tồn bảo:

- Hai người đều có lí nên ta xử thế này: tấm vải xé đôi, mỗi người một nữa.

Thừa lệnh, lính đo vải xé ngay. Một người đàn bà bật khóc. Lập tức, quan bảo đưa cả tấm vải cho người này rồi thét trói người kia lại. Sau một hồi tra hỏi, trẻ kia phải cuối đầu nhận tội. (1 phút 27 giây)

Câu hỏi 1: Hai người đàn bà đến công đường nhờ quan phân xử việc gì?

Trả lời: Về việc bị mất cắp vải. Người nọ tố cáo người kia lấy trộm vải của mình nhờ quan phân xử.

Câu hỏi 2: Vì sao quan án cho rằng người không khóc chính là người lấy cắp?

Trả lời: Vì quan hiểu người dửng dưng khi tấm vải bị xé đôi không phải là người đã đổ mồ hôi, công sức làm nên tấm vải.

C. Đoạn 3

Lần khác, quan tới vãn cảnh một ngôi chùa. Sư cụ đón tiếp kính cẩn, rồi nhờ tìm hộ số tiền của nhà chùa bị mất.

Quan nói sư cụ biện lễ cúng phật, rồi gọi hết sư vãi, kẻ ăn người ở trong chùa ra, giao cho mỗi người một nắm thóc và bảo:

- Chùa ta mất tiền, chưa rõ thủ phạm. Mỗi người hãy cầm một nắm thóc đã ngâm nước rồi vừa chạy đàn, vừa niệm Phật. Đức Phật rất thiêng. Ai gian, Phật sẽ làm cho thóc trong tay kẻ đó nảy mầm. Như vậy, ngay gian sẽ rõ.

Mới vài vòng chạy, đã thấy một chú tiểu thỉnh thoảng hé bàn tay cầm thóc ra xem. Quan lập tức cho bắt chú tiểu vì chỉ kẻ có tật mới hay giật mình. Chú tiểu kia đành nhận tội. (1 phút 14 giây)

Câu hỏi 3: Kể lại cách quan án tìm kẻ lấy trộm tiền nhà chùa?

Trả lời: Cho gọi hết sư vãi, kẻ ăn người ở trong chùa ra, giao cho mỗi người một nắm thóc đã ngâm nước…Quan đứng quan sát những người chạy đàn và bắt gặp một chú tiểu hé bàn tay nắm thóc ra xem, lập tức cho bắt vì chỉ kẻ có tội mới hay giật mình.

Mời các bạn tải file đầy đủ về tham khảo.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
6
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Đề thi giữa kì 2 lớp 5

    Xem thêm