Chứng minh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Sống chết mặc bay
Văn mẫu lớp 7: Hãy chứng minh giá trị nhân đạo và hiện thực của tác phẩm Sống chết mặc bay gồm nhiều bài văn mẫu hay giúp các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
Giá trị nhân đạo và hiện thực của tác phẩm Sống chết mặc bay
- Đoạn văn chứng minh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện ngắn Sống chết mặc bay
- Chứng minh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện ngắn Sống chết mặc bay mẫu 1
- Chứng minh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Sống chết mặc bay mẫu 2
- Chứng minh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Sống chết mặc bay mẫu 3
- Chứng minh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Sống chết mặc bay mẫu 4
Đoạn văn chứng minh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện ngắn Sống chết mặc bay
Được coi là một bông hoa đầu mùa của truyện ngắn hiện đại Việt Nam, tác phẩm “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn là truyện ngắn đặc sắc thể hiện rõ giá trị hiện thực và nhân đạo. Giá trị hiện thực của tác phấm thể hiện qua việc phản ánh cuộc chống chọi ác liệt với thiên tai của nhân dân lao động – những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn - trong khoảnh khắc họ phải đối mặt với sự sống mong manh, cực nhọc điêu linh. Trong khi đó bè lũ quan lại tiêu biểu là tên quan phủ lòng lang dạ thú vô tâm, vô trách nhiệm trước sự sống chết của nhân dân mình. Khi nước sông dâng lên thì hàng trăm con người đội đất, vác tre, bì bõm dưới bùn lầy, trong mưa gió để cô giữ lấy đê; trong khi đó, trong đình “quan phụ mẫu” uy nghi chễm chệ có lính gãi chân, có lính quạt hầu, thản nhiên đánh bài. Khi có người nhà quê chạy vào báo "Đê vỡ mất rồi” quan phụ mẫu quát: “Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày” rồi vẫn cứ thản nhiên đánh bài. Nhà văn cảm thông chia sẻ với cuộc sổng thê thảm của người dân trong cảnh hộ đê và cảnh điêu linh của dân sau khi đê vỡ. Bởi vậy, không dừng lại ở việc tố cáo, phê phán thái độ thờ ơ vô trách nhiệm của bè lù quan lại, nhà văn còn bày tỏ lòng thương đối với những người nông dân nghèo hèn đơn thương độc mã trong cuộc chiến dữ dội với thiên tai. Và do đó, bên cạnh giá trị hiện thực, tác phẩm còn toát lên một tinh thần nhân đạo cao cả. Giá trị của tác phẩm đã hứa hẹn một bước phát triển mới của văn học Việt Nam.
Chứng minh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện ngắn Sống chết mặc bay mẫu 1
Truyện ngắn Sống chết mặc bay của nhà văn Phạm Duy Tốn là một tác phẩm mang đậm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
Trong tác phẩm, hình ảnh người dân nghèo oằn mình trong bão lũ, để chống lại thiên tai đã được khắc họa vô cùng sống động. Đó chính là cách mà suốt bao năm tháng qua người dân ta phải đối mặt với bão lũ. Năm nào cũng thế, mưa bão kéo nhau ồ ạt tiến vào đất liền gây mưa lớn, ngập lụt, sạt lở. Người dân phải dầm mưa lội nước củng cố đê điều, di tản người và tài sản đến nơi cao hơn. Và tất nhiên, nếu con đê mà vỡ thì đó sẽ là một điều vô cùng kinh khủng. Cảnh người dân ướt lướt thướt, kiệt quệ sức lực cố gắng chống chọi đến sức cùng lực kiệt thật đáng thương biết bao.
Nhưng càng đáng thương hơn nữa, chính là việc những người dân nhỏ bé ấy, phải chịu sự lãnh đạo, đàn áp của những bậc quan phụ mẫu vô lương tâm, độc ác, chỉ biết ăn chơi và hưởng lạc. Điều đó thể hiện rõ nét qua hình ảnh viên quan phụ mẫu. Trong khi người dân vật lộn khổ sở với mưa bão, thì hắn ta cùng binh lính, hầu cận, quan nhỏ ngồi trên đình cao khô ráo và ấm áp. Bọn chúng đánh tổ tôm, hút thuốc phiện rồi tâng bốc nhau, ca tụng nhau một cách vô liêm sỉ. Chúng căng thẳng, tập trung nhưng không phải để nghĩ cách cứu giúp người dân mà là để làm sao chiến thắng ván bài. Viên quan lớn cười to sung sướng khi người dân kêu gào tuyệt vọng vì đê vỡ lại vì đã ù một ván tổ tôm. Thật độc ác, táng tận lương tâm. Nhưng đó cũng chính là cái hiện thực tàn khốc mà nhân dân ta phải đối diện lúc bấy giờ. Họ phải gồng mình chống lại thiên tai và chịu đựng cả những quan lại xấu xa, tham lam.
Nhà văn Phạm Duy Tốn với bút pháp miêu tả chân thực, sắc nét đã tái hiện lại một hiện thực đáng buồn của nước ta. Từ đó, ông thể hiện tình yêu thương, thương cảm của mình với những người dân nghèo tội nghiệp. Ông ca ngợi sự kiên cường, dũng cảm của những người dân nhỏ bé đã bất chấp tất cả để củng cố con đê, kiên trì đến giờ phút cuối cùng. Ông thương xót cho những người dân làm lụng chắt bóp vất vả cả năm trời nay bị lũ cuốn trôi hết. Ông đau đớn thay cho những người nông dân thấp cổ bé họng, nay mất hết tài sản, nhà cửa đến cả tính mạng còn khó giữ được nhưng vẫn có nguy cơ bị bỏ tù bởi quan cha quan mẹ. Cũng từ đó, nhà văn thể hiện sự căm ghét, phê phán, lên án nặng nề tới những kẻ làm quan nhưng chẳng làm gì được cho đất nước, chẳng giúp đỡ được gì cho nhân dân, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc. Từ tác phẩm ấy, Phạm Duy Tốn là lan tỏa và đồng điệu với triệu triệu trái tim người đọc những cảm xúc ấy của mình.
Đó chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện ngắn Sống chết mặc bay. Hai yếu tố này lồng ghép vào nhau, giúp nhau bộc lộ giá trị và nội dung của mình thêm sắc nét hơn.
Chứng minh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Sống chết mặc bay mẫu 2
Truyện ngắn Sống chết mặc bay của nhà văn Phạm Duy Tốn là một tác phẩm văn chương mang trong mình giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
Giá trị hiện thực của tác phẩm được thể hiện rõ nét qua khung cảnh những người dân nghèo đang gồng mình chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Nhà văn đã tái hiện lại vô cùng chân thực khung cảnh khốc liệt của những người dân nhỏ bé trước cơn giận giữ của đất nước. Người cuốc đất, người đội đất, kẻ vác tre để đắp lũy chặn dòng lũ dưới cơn mưa ào ào không ngơi nghỉ. Ai cũng mệt, cũng xơ xác, cũng ướt sũng và thấm dần sự tuyệt vọng khi cơn mưa ngày càng nặng hạt hơn. Sự vất vả, bất lực và khốn cùng của những người dân khi đối chọi với bão lũ ấy được truyền tải rõ nét qua từng câu văn. Và đối lập với đó chính là viên quan phụ mẫu và các nha lại ở trong đình. Chúng ngồi ở chỗ khô ráo, ấm cúng, chơi bài tổ tôm trong sung sướng, rồi cả ăn chè yến hấp đường phèn, hít thuốc phiện. Khung cảnh trụy lạc của sự hưởng thụ ấy hoàn toàn đối lập với khung cảnh tuyệt vọng của người dân ngoài kia. Sự lạnh lùng, vô tâm và độc ác của những kẻ cầm quyền ấy chính là một hiện thực chua xót của xã hội bây giờ. Mà tác giả đã lột tả một cách châm biếm về gương mặt giả dối, lòng dạ thối nát của chúng.
Từ hiện thực xã hội phũ phàng ấy, tác giả đã thể hiện sự thương xót, cảm thông cho số phận bất hạnh của những người nông dân bé nhỏ. Khi họ vừa phải chịu sự chà đạp, bóc lột của những kẻ cầm quyền độc ác, lại vừa phải chống chọi lại cơn mưa bão vô tình của tự nhiên. Tất cả đè nặng lên đôi vai gầy của những số phận hèn mọn, không một lối thoát. Cùng với đó, là sự căm phẫn, oán giận và lên án mạnh mẽ đối với những kẻ cầm quyền, những kẻ mang danh là quan cha quan mẹ nhưng lại hành xử lạnh lùng, độc ác. Chúng chỉ quan tâm đến bản thân, chỉ chăm chăm hưởng thụ mà không lo lắng cho người dân của mình. Đó chính là giá trị nhân đạo sâu sắc mà tác phẩm truyền đạt.
Có thể nói Sống chết mặc bay là một truyện ngắn vô cùng ý nghĩa và giá trị. Nó không chỉ giúp chúng ta thấu hiểu được tình cảnh bất lực, khốn khổ của người dân lúc bấy giờ. Mà còn gợi lên trong chúng ta những cảm xúc yêu thương cho những số phận ấy, cùng sự căm phẫn cho thế lực xấu xa, tàn bạo.
Chứng minh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Sống chết mặc bay mẫu 3
Phạm Duy Tốn là một cây bút viết truyện ngắn xuất sắc nhất của những năm đầu thế kỷ XX. Một trong số những tác phẩm ông để lại, Sống chết mặc bay là truyện ngắn tiêu biểu hơn cả, nó được coi như một trong những tác phẩm mở đầu cho khuynh hướng văn học hiện thực phê phán sau này. Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã tái hiện khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn xa hoa của lũ quan lại. Viết Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn đã mạnh mẽ tố cáo thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã xây dựng một tình huống độc đáo được đặt trong sự đối lập gay gắt. Một bên là tình cảnh vô cùng nguy khốn của dân chúng: "Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất". Tính mạng "con dân" cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Quang cảnh hàng trăm ngàn con người đang ra sức chống chọi lại với cơn lũ thật khẩn trương, vất vả. "Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre", "người nào người nấy lướt thướt như chuột lột". Một bên là cảnh quan huyện "kẻ cha mẹ của dân" có trách nhiệm đốc thúc dân chúng bảo vệ đê thì lại đang chễm chệ trong đình "cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng chẳng việc gì". Ngoài kia con dân đang chân lấm tay bùn, đem thân hèn yếu để chống chọi lại với sức nước thì trong đình "đèn thắp sáng trưng", "nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn rịp". Dường như ngoài kia và trong này là cả hai thế giới khác biệt hoàn toàn. Nếu ngoài kia là thảm cảnh thì trong này là thú vui. Ngoài kia gấp gáp khẩn trương, trong này thong dong nhàn nhã. Cái náo loạn đặt bên cạnh cái yên ả. Trái với "con dân" đang "trăm lo ngàn sợ", quan phụ mẫu "uy nghi chễm chện ngồi" như không hề hay biết đến tình trạng thảm thương của dân chúng. Dựng lên hai cảnh đối lập gay gắt đó, tác giả vạch trần thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời. Trong tình cảnh ấy, vô trách nhiệm chính là một tội ác.
Người đọc không thể tưởng tượng được trong tình thế nan nguy của tính mạng hàng ngàn người dân mà quan phụ mẫu vẫn điềm nhiên đánh bạc và hưởng lạc. Trong khi "sức người khó lòng địch nổi sức trời" thì bọn nha lại tay chân chỉ mải lo hầu bài quan.
Bản chất vô nhân đạo, lối sống "sống chết mặc bay" của tên quan huyện đã lộ rõ. Mưa gió và sinh mạng hàng ngàn con người không được quan chú ý bằng một trăm hai mươi lá bài. Không khí trong đình vẫn tĩnh mịch y trang, chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi "điếu mày", tiếng "dạ", tiếng "bốc", "Bát sách! Ăn", "Thất văn... phỗng"... Thú vui bài bạc, ma lực đỏ đen đã làm bọn quan lại đánh mất lương tri, nhân tính. "Nước sông dầu nguy không bằng nước bài cao thấp", hình ảnh so sánh thể hiện sự táng tận lương tâm của lũ vô lại. Cuối cùng, đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai "đê vỡ rồi thời ông cách cổ *********". Đoạn, lại bình thản quay mặt hỏi thầy đề: "Thầy bốc quân gì thế?". Ván bài "ù to". Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy "nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết"...
Với việc sử dụng triệt để thủ pháp tương phản đối lập và nghệ thuật xây dựng tình huống truyện gay gắt; với giọng văn khi thiết tha xúc động, khi cay độc, mỉa mai,... Phạm Duy Tốn đã trực tiếp bày tỏ thái độ cảm thông sâu sắc của mình trước thảm cảnh của dân chúng và lòng căm uất phẫn nộ bọn quan lại phong kiến.
Chứng minh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Sống chết mặc bay mẫu 4
Phạm Duy Tốn (1883 – 1924), nguyên quán làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây; sinh quán thôn Đông Thọ (nay là phố Hàng Dầu, Hà Nội), ông là một trong số ít người có thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại. Và một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là Sống chết mặc bay.
Với hai bức tranh đời tương phản, tác giả đã phản ánh rõ nét toàn cảnh xã hội phong kiến thời xưa. Hai hình ảnh trái lập nhau đã làm càng tăng thêm ý nghĩa, lên án, tố cáo những kẻ cầm đầu độc ác, không biết quan tâm đến đời sống nhân dân hay nói đúng hơn là tên quan phủ – một viên quan vô trách nhiệm lòng lang dạ sói trong tác phẩm. Văn bản này vào đề bằng một hình ảnh hết sức căng thẳng, gay cấn, khó khăn. Đó là vào một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông dâng cao đe doạ vỡ đê. Với công cụ thô sơ, những người dân chân lấm tay bùn với hàng nghìn tư thế khác nhau: người vác cuốc, người vác tre, kẻ bì bõm ướt như chuột lột cùng nhau gắng sức chống lại thiên tai, bão lụt. Hình ảnh muôn sầu nghìn thảm ấy làm bất cứ ai được đọc, được nghe đều không khỏi xót thương. Sự vất vả của người dân kéo dài tới mãi đêm khuya vẫn chưa chấm dứt. Tiếng hò, tiếng gọi, í ới, gấp gấp, sự căng thẳng ấy được bộc lộ qua nét mặt của từng người. Trước tình cảnh như vậy thì bất kì ai cũng đặt ra câu hỏi: Vậy trước thế cùng sức kiệt như vậy thì quan phụ mẫu, những người có chức quyền ở đâu. Thì ra những vị quan phụ mẫu đang hộ đê trong đình, một khung cảnh hoàn toàn trái ngược. Bầu không khí ấm áp không chút lo âu. Sự bình thản của mỗi người trên từng quân bài. Quan phụ mẫu đang hộ đê trong tư thế ung dung, nhàn hạ, tay cầm bát yến, ngồi khểnh vuốt râu. Sự oai phong của quan được thể hiện ở lời nói. Những tên xu nịnh vây quanh nịnh hót, quan thắng bài đó là niềm hạnh phúc. Từng khung cảnh cũng được đề cập đến trong văn bản càng bộc lộ rõ nét hơn. Than ôi! Xã hội phong kiến bất công biết bao. Bằng những ngôn từ, biện pháp tự sự, kết hợp với miêu tả, bình luận cùng với những cảm xúc chân thực, tác giả đã đưa người đọc vào trong cuộc sống bấy giờ, tái hiện lại những nghịch cảnh trớ trêu, lay động lòng người, đánh thức lên một nỗi niềm xót cảm. Không mảy may một chút vương lòng, những hình ảnh nhàn hạ, nào quan phủ, nào thầy lí, thầy đề, những tên cương hào, ác bá được lột tả dưới ngòi bút của tác giả. Với những ngôn từ bình dị, cổ xưa, tác giả đã gợi lên một khung cảnh chân thực. Hơn thế nữa, một loạt những nghệ thuật độc đáo được được sử dụng. Khi thời điểm tưởng chừng ngàn cân treo sợi tóc, văng vẳng từ xa tiếng người vào bẩm báo: “Dễ có khi đê vỡ”. Cảnh bình chân như vại của viên quan bằng lời nói: “Mặc kệ” khi đợi bài ù. Không chỉ vậy sự thách thức của hắn còn được bộc lộ bởi câu nói: “Đê có vỡ, nước có dâng lên cao thì cũng không lo đình sập, đình vỡ” Thật là nghịch chướng. Đó là phép tăng cấp rất độc đáo. Hay nghệ thuật tương phản cũng khá ấn tượng. Hai khung cảnh một trời một vực, một bên ung dung nhàn nhã, một bên gấp gáp lo âu. Sự tương phản này là mâu thuẫn quan điểm của hai lớp người trong xã hội xưa.
Có thể nói với sự khéo léo trong việc vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn hai biện pháp nghệ thuật cùng với ngôn từ chặt chẽ điêu luyện, phù hợp tương tác với nhau, bài văn đã rất thành công trong việc lột tả hai hình tượng đối lập. Đồng thời cũng lên án những tên quan phụ mẫu đại diện chính quyền lại vô trách nhiệm hay nói đúng hơn là lòng lang dạ sói cứ ung dung, thoải mái trong nhung lụa, hạnh phúc, bỏ mặc người dân trong cảnh lầm than, cơ cực. Hai bức tranh đời này mang đậm đà chất hiện thực và thắm đượm những cảm xúc nhân văn và gợi lên lòng đồng cảm nơi người đọc.
-------------------------------------------------------------
Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 7: Hãy chứng minh giá trị nhân đạo của tác phẩm Sống chết mặc bay. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 7 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 7.
>> Bài tiếp theo: Hãy chứng minh tính đúng đắn của câu thành ngữ "Rừng vàng biển bạc"
Tài liệu tham khảo: