Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Học thuyết giá trị

VnDoc xin giới thiệu bài Học thuyết giá trị được chúng tôi sưu tầm và giới thiệu nhằm giúp các bạn nắm bắt kiến thức môn học một cách tốt hơn để có thể học và hoàn thành bài thi môn học một cách hiệu quả.

Lưu ý: Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài viết.

1. Điều kiện ra đời, tồn tại và ưu thế của sản xuất hàng hóa

1.1. Điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hóa

Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán. Hay nói cách khác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó sản phẩm làm ra là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.

Sản xuất hàng hóa ra đời, tồn tại phải có đầy đủ hai điều kiện:

Thứ nhất: Có sự phân công lao động xã hội.

Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội vào các ngành, nghề, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.

Phân công lao động xã hội làm cho mỗi người, mỗi chủ thể kinh tế chỉ sản xuất được một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi họ phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó, họ phải trao đổi với nhau. Mặt khác, nhờ có phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều và trao đổi sản phẩm ngày càng phổ biến.

Thứ hai: Có sự tách biệt tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất.

Sự tách biệt này dựa trên cơ sở chế độ tư hữu hoặc những hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Điều này làm cho tư liệu sản xuất thuộc về từng người hoặc từng nhóm người trong xã hội, vì vậy sản phẩm làm ra cũng thuộc về từng người hoặc từng nhóm người trong xã hội, do đó người này hoặc nhóm người này muốn dùng sản phẩm của người khác hoặc nhóm người khác thì họ phải mua bán, trao đổi sản phẩm hàng hoá với nhau, tức là có sản xuất hàng hoá.

Như vậy, phân công lao động xã hội làm cho những người sản xuất phụ thuộc vào nhau; còn sự tách biệt tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất lại làm cho họ độc lập với nhau. Đây là một mâu thuẫn và mâu thuẫn này chỉ được giải quyết khi sản phẩm của họ được mua bán, trao đổi với nhau.

1.2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa

1.2.1. Đặc trưng của sản xuất hàng hoá

Một là: Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, mua bán.

Sản xuất tự cấp, tự túc chỉ để thoả mãn nhu cầu của chính người sản xuất ra sản phẩm đó; còn sản xuất hàng hoá là nhằm thoả mãn nhu cầu của người khác, của xã hội thông qua trao đổi, mua bán.

Hai là: Lao động của người sản xuất hàng hoá vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính xã hội.

1.2.2. Ưu thế của sản xuất hàng hoá so với sản xuất tự cấp, tự túc

Thứ nhất: Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và phát triển kinh tế.

Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất. Do đó, nó khai thác được những lợi thế của từng chủ thể kinh tế cũng như từng vùng, từng địa phương, thúc đẩy nền sản xuất phát triển nhanh. Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao động ngày càng sâu sắc…

Thứ hai: Kích thích cải tiến kỹ thuật, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh.

Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng, mỗi địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực của xã hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất..., thúc đẩy sản xuất phát triển.

Thứ ba: Thúc đẩy tính năng động của người sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế.

Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của những quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hóa như quy luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh… buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, cải tiến hình thức, mẫu mã và chủng loại hàng hóa, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao.

- Thứ tư: Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của xã hội.

+ Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước… không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn.

+ Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái của nó như phân hóa giàu – nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng kinh tế, phá hoại môi trường sinh thái v.v..

2. Hàng hóa

2.1. Hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hoá

Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.

Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm... hoặc ở dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải…

Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.

2.1.1. Giá trị sử dụng của hàng hóa

Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa, dùng để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.

Ví dụ: Giá trị sử dụng của gạo là để ăn...

Giá trị sử dụng của hàng hóa là do những thuộc tính tự nhiên của hàng hóa đó quyết định. Do đó, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.

Xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú, chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.

2.1.2. Giá trị của hàng hóa

Muốn hiểu được giá trị của hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng giữa những giá trị sử dụng khác loại nhau.

Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc.

Tức là 1m vải có giá trị trao đổi bằng 5kg thóc.

Vấn đề là, tại sao vải và thóc lại có thể trao đổi được với nhau, và hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định (1 : 5)?

Hai hàng hóa khác nhau (vải và thóc) trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó.

Vì vậy, người ta trao đổi hàng hóa cho nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn giấu trong những hàng hóa ấy với nhau.

Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của việc trao đổi và nó chính là giá trị của hàng hóa.

Vậy, giá trị của hàng hóa là hao phí lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.

Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Đồng thời, giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. Cũng chính vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong sản xuất hàng hóa.

2.1.3. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá

Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.

Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: Hai thuộc tính này cùng tồn tại trong một hàng hóa, tức một vật phải có đầy đủ hai thuộc tính này mới trở thành hàng hóa. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính đó vật phẩm sẽ không phải là hàng hóa. Chẳng hạn, một vật có ích (tức có giá trị sử dụng), nhưng không do lao động tạo ra (tức không có kết tinh lao động) chẳng hạn như không khí, nước trong tự nhiên thì sẽ không phải là hàng hóa.

Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hóa thể hiện ở chỗ:

- Thứ nhất: Với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hóa không đồng nhất về chất. Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hóa lại đồng nhất về chất đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hoá.

- Thứ hai: Tuy giá trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hóa, nhưng quá trình thực hiện chúng lại tách rời nhau về cả mặt không gian và thời gian: giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Do đó, nếu giá trị của hàng hóa không được thực hiện thì sẽ dẫn đến khủng hoảng kinh tế.

2.2. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa

C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.

2.2.1. Lao động cụ thể

Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp, chuyên môn nhất định.

Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ, đối tượng và kết quả lao động riêng. Chẳng hạn, lao động của người thợ may và lao động của người thợ mộc là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động của người thợ may có mục đích là làm ra quần áo chứ không phải là bàn ghế; còn phương pháp là may chứ không phải là bào, cưa; công cụ lao động là kim, chỉ, máy may chứ không phải là cái cưa, cái bào... và lao động của người thợ may thì tạo ra quần áo để mặc, còn lao động của người thợ mộc thì tạo ra bàn, ghế để ngồi... Điều đó có nghĩa là: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.

Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì lao động cụ thể càng nhiều và do đó giá trị sử dụng cũng càng nhiều.

2.2.2. Lao động trừu tượng

Lao động trừu tượng là lao động khi đã gạt bỏ hết những hình thức cụ thể của nó. Nói cách khác, lao động trừu tượng chính là sự hao phí sức lao động của người sản xuất hàng hóa.

Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Như vậy, có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.

Cần chú ý, lao động cụ thể và lao động trừu tượng không phải là loại lao động mà chỉ là tính chất hai mặt của một quá trình lao động

Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ảnh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa.

Như trên đã chỉ ra, mỗi người sản xuất hàng hóa sản xuất cái gì, như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy lao động đó mang tính chất tư nhân, và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.

Đồng thời, lao động của người sản xuất hàng hóa là lao động mang tính xã hội. Vì phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hóa. Họ làm việc cho nhau, thông qua trao đổi hàng hóa. Việc trao đổi hàng hóa không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy lao động cụ thể về lao động chung đồng nhất - lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.

Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau biểu hiện cụ thể trong hai trường hợp sau:

- Thứ nhất: Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể không ăn khớp với nhu cầu của xã hội, có thể thừa hoặc có thiếu, sinh ra khủng hoảng kinh tế.

- Thứ hai: Nếu mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa cao hơn mức tiêu hao lao động mà xã hội có thể chấp nhận, khi đó hàng hóa cũng không bán được hoặc bán bị lỗ.

- Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hóa làm cho sản xuất hàng hóa vừa vận động phát triển, vừa có khả năng khủng hoảng.

2.3. Lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa

2.3.1. Thước đo lượng giá trị của hàng hoá

Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng thời gian lao động, như ngày, giờ…

Song, trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hóa, nhưng với mức hao phí lao động cá biệt khác nhau. Do đó lượng giá trị của hàng hóa không phải do thời gian lao động cá biệt quy định (vì nếu như vậy thì người sản xuất ra hàng hóa càng lười, càng yếu kém bao nhiêu thì lượng giá trị hàng hóa của họ lại càng lớn bấy nhiêu). Mà lượng giá trị của hàng hoá được đo bởi “thời gian lao động xã hội cần thiết”.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, tức là với một mức trang bị kỹ thuật trung bình, trình độ thành thạo trung bình và cường độ lao động trung bình của xã hội.

Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt của người cung cấp đại bộ phận hàng hóa đó trên thị trường.

Như vậy, thời gian lao động cá biệt chỉ quyết định giá trị cá biệt của hàng hóa mà thôi.

2.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa

* Năng suất lao động:

- Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.

- Năng suất lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ tay nghề của người lao động, mức độ phát triển của khoa học - kỹ thuật, công nghệ và mức độ ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất, trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên.

- Năng suất lao động tăng lên thì khối lượng hàng hóa sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại, tức là giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.

* Cường độ lao động:

- Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, nặng nhọc của lao động. Tăng cường độ lao động tức là tăng mức độ khẩn trương, nặng nhọc của lao động.

- Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng hàng hóa sản xuất ra trong một thời gian tăng lên và mức lao động hao phí cũng tăng lên tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa không đổi.

* Mức độ phức tạp của lao động:

- Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động bình thường nào không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.

- Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể thực hiện được. Lao động phức tạp, thực chất là lao động giản đơn được nhân bội lên.

Vì vậy, trong cùng một thời gian lao động thì lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động giản đơn và phức tạp đều được quy thành lao động giản đơn trung bình, cần thiết làm đơn vị trao đổi.

3. Tiền tệ

3.1. Sự phát triển các hình thái giá trị

Tiền tệ ra đời là kết quả phát triển lâu dài của quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá. Để hiểu rõ nguồn gốc của tiền tệ, chúng ta phải nghiên cứu biểu hiện thông qua quá trình phát triển của hình thái giá trị trao đổi tức là sự phát triển các hình thái biểu hiện của giá trị. Có 4 hình thái biểu hiện của giá trị:

* Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị

- Hình thái này "chỉ thường gặp ở những mầm mống đầu tiên của trao đổi, khi mà các sản phẩm lao động chỉ biến thành hàng hóa trong những hành vi đơn nhất và ngẫu nhiên".

Ví dụ: 10 vuông vải =1 cái áo

- Ở đây, giá trị của hàng hóa này (10 vuông vải) chỉ biểu hiện đơn nhất ở một hàng hóa khác (1 cái áo) và quan hệ trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, trực tiếp hàng lấy hàng, tỷ lệ trao đổi cũng ngẫu nhiên.

- Hàng hóa thứ hai (cái áo) đóng vai trò vật ngang giá.

Do sản xuất hàng hóa phát triển, dần dần xuất hiện hình thái thứ hai:

* Hình thái đầy đủ hay mở rộng của giá trị

- Hình thái này xuất hiện trong thực tế khi mà một sản phẩm lao động nào đó, như 10 vuông vải chẳng hạn có thể được trao đổi với nhiều hàng hóa khác.

- Ở đây, giá trị của một hàng hóa (10 vuông vải) được biểu hiện ở nhiều hàng hóa khác nhau đóng vai trò làm vật ngang giá.

- Tuy nhiên, hình thái này cũng có nhược điểm như: vẫn là trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng, do đó khi nhu cầu trao đổi giữa những người chủ hàng hóa không phù hợp sẽ làm cho trao đổi không thực hiện được hoặc sẽ gặp khó khăn. Chẳng hạn, người có vải cần đổi lấy áo, nhưng người có áo lại không cần vải mà cần chè...

- Do đó, khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn đòi hỏi phải có một vật ngang giá chung.

* Hình thái chung của giá trị

- Ở đây, giá trị của mọi hàng hóa đều được biểu hiện ở một hàng hóa đóng vai trò làm vật ngang giá chung (vải).

- Tuy nhiên, ở hình thái này vật ngang giá chung giữa các vùng, các địa phương, chưa cố định ở một hàng hóa nào cả, khi thì là hàng hóa này, khi thì là hàng hóa khác, và "bất kỳ hàng hóa nào cũng có thể có được hình thái đó", miễn là nó được tách ra làm vật ngang giá chung.

- Khi trao đổi hàng hóa phát triển mở rộng giữa các vùng đòi hỏi phải có một vật ngang giá chung thống nhất, thì vật ngang giá chung được "gắn một cách vững chắc với một số loại hàng hóa đặc thù"1.

* Hình thái tiền tệ của giá trị

- Ở đây, giá trị của tất cả mọi hàng hóa đều được biểu hiện ở một hàng hóa đóng vai trò tiền tệ.

- Lúc đầu, có nhiều loại hàng hóa đóng vai trò tiền tệ. Nhưng dần dần vai trò tiền tệ được chuyển sang các kim loại quý như: đồng rồi bạc và cuối cùng là ở Vàng.

- Khi bạc và vàng cùng làm chức năng tiền tệ thì chế độ tiền tệ được gọi là chế độ song bản vị. Khi chỉ còn vàng độc chiếm vai trò tiền tệ thì chế độ tiền tệ được gọi là chế độ bản vị vàng.

3.2. Bản chất của tiền tệ.

Tại sao vàng và bạc, đặc biệt là vàng lại có được vai trò tiền tệ như vậy?

- Thứ nhất: Nó cũng là một hàng hóa, cũng có giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng của vàng như dùng làm đồ trang sức..., giá trị của vàng (hoặc bạc) cũng được đo bằng lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra nó.

- Thứ hai: Nó có những ưu thế như: thuần nhất, dễ chia nhỏ, không hư hỏng, dễ bảo quản, hơn nữa với một lượng và thể tích nhỏ nhưng có giá trị cao. Chính vì vậy mà vàng (hoặc bạc) có một giá trị sử dụng xã hội đặc biệt: đóng vai trò là vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa khác.

- Như vậy, Tiền là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa, là sự thể hiện chung của giá trị, đồng thời nó biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.

3.3. Các chức năng của tiền

Tiền tệ có 5 chức năng kinh tế cơ bản đó là:

* Thước đo giá trị

- Tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác trong trao đổi. Thực hiện chức năng này, tiền biểu hiện thông qua phạm trù giá cả.

- Giá cả hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa trong trao đổi.

- Như vậy, giá trị là nội dung, là cơ sở quyết định của giá cả. Giá trị của hàng hóa càng cao thì giá cả của nó cũng càng cao và ngược lại. Giá cả hàng hóa có thể lên xuống xoay xung quanh giá trị, nhưng giá cả không tách quá xa giá trị, mà chỉ xoay quanh trục giá trị mà thôi và tổng số giá cả vẫn luôn bằng tổng số giá trị hàng hoá.

* Phương tiện lưu thông.

- Tức là tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hóa. Khi tiền làm phương tiện lưu thông đòi hỏi phải có tiền mặt trên thực tế và khi đó trao đổi hàng hóa vận động theo công thức: H–T–H . Đây chính là công thức lưu thông hàng hóa giản đơn.

- Là phương tiện lưu thông, lúc đầu tiền xuất hiện trực tiếp dưới hình thức vàng thoi, bạc nén. Sau đó là tiền đúc và cuối cùng là tiền giấy ra đời. Tiền giấy chỉ là ký hiệu giá trị do Nhà nước phát hành và buộc xã hội công nhận.

- Thực hiện chức năng này, tiền làm cho quá trình mua bán diễn ra được thuận lợi, nhưng đồng thời nó cũng làm cho việc mua bán tách rời nhau cả về không gian và thời gian, do đó nó đã bao hàm khả năng khủng hoảng (ví dụ: có thể mua mà chưa bán, có thể mua ở nơi này, bán ở nơi kia... do đó, tạo ra sự không nhất trí giữa mua và bán).

* Phương tiện cất trữ

- Tức là, tiền được rút khỏi lưu thông và cất giữ lại để khi cần thì đem ra mua hàng. Chỉ có tiền vàng, tiền bạc, các của cải bằng vàng, bạc có giá trị thực mới thực hiện được chức năng này.

* Phương tiện thanh toán

- Thực hiện chức năng này, tức là tiền được dùng để chi trả sau khi công việc giao dịch, mua bán đã hoàn thành, ví dụ: trả tiền mua hàng chịu, trả nợ, nộp thuế...

- Tiền làm phương tiện thanh toán có tác dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu của người sản xuất hoặc tiêu dùng ngay cả khi họ chưa có tiền, hoặc chưa có đủ tiền.

- Trong quá trình thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, ngày càng xuất hiện các hình thức thanh toán mới không cần tiền mặt như: ghi sổ, séc, chuyển khoản, tiền điện tử, thẻ điện tử (card) thanh toán...

* Tiền tệ thế giới

- Chức năng này xuất hiện khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra bên ngoài biên giới quốc gia. Tức là tiền cũng thực hiện các chức năng trên ở phạm vi quốc tế.

- Lúc đầu, làm được chức năng này phải là tiền vàng hoặc bạc. Sau này, loại tiền giấy được bảo lãnh bằng vàng gọi là “tiền giấy bản vị vàng” cũng được dùng làm phương tiện tiền tệ thế giới.

- Dần dần do sự phát triển của quan hệ kinh tế – chính trị thế giới, thì chế độ “tiền giấy bản vị vàng” bị bãi bỏ. Thay vào đó một số đồng tiền của các cường quốc kinh tế được công nhận là phương tiện thanh toán, trao đổi quốc tế.

Những đồng tiền được sử dụng làm phương tiện thanh toán quốc tế ở mức độ nhất định gọi là những đồng tiền có khả năng chuyển đổi.

4. Quy luật giá trị

4.1. Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa. Nội dung, yêu cầu của quy luật là:

Sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết và trao đổi phải ngang giá.

Trong sản xuất, quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phải phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết, có như vậy họ mới có thể tồn tại được. Còn trong trao đổi, (lưu thông) phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá; tức giá cả bằng giá trị. Cơ chế tác động của quy luật giá trị được thể hiện thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường. Giá trị quyết định giá cả. Giá cả có thể lên xuống nhưng chỉ xoay quanh trục giá trị mà thôi.

4.2. Tác động của quy luật giá trị

- Trong nền sản xuất hàng hóa, thông qua giá cả, quy luật giá trị có 3 tác động sau:

* Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa

- Điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện:

+ Nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị thì lãi cao, những người sản xuất hàng hóa sẽ tập trung sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng.

+ Ngược lại nếu một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, người sản xuất sẽ bị lỗ, họ phải thu hẹp hoặc bỏ việc sản xuất mặt hàng này, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi.

+ Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội.

+ Điều tiết lưu thông hàng hóa thể hiện thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, và do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.

Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh.

Người sản xuất hàng hóa nào mà có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hóa cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý... nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hoá để thu lãi cao nhất.

Mọi người sản xuất đều làm như vậy thì sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng.

* Phân hóa những người sản xuất hàng hóa

- Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, thuê lao động và dần dần trở thành ông chủ.

- Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, họ sẽ bị thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản và phải đi làm thuê.

-----------------------

Chúng tôi đã giới thiệu nội dung bài Học thuyết giá trị với các khái niệm, đặc điểm của quy luật giá trị, các chức năng của tiền tệ....

Trên đây, VnDoc đã giới thiệu tới các bạn Học thuyết giá trị. Ngoài ra, các bạn có thể tham khảo thêm nhiều tài liệu Cao đẳng - Đại học cũng như Cao học khác để phục vụ quá trình nghiên cứu hiệu quả hơn.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Cao đẳng - Đại học

    Xem thêm