Nêu ý nghĩa hình tượng rừng xà nu trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
Nêu ý nghĩa hình tượng rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành
Nêu ý nghĩa hình tượng rừng xà nu trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là tài liệu văn mẫu lớp 12 hay được VnDoc.com sưu tầm và đăng tải, giúp các em học sinh học tốt môn Ngữ văn 12, luyện thi THPT Quốc gia hiệu quả. Mời các bạn cùng tham khảo.
Nêu ý nghĩa hình tượng rừng xà nu mẫu 1
Cây xà nu từ đuốc, dầu, nhựa, lửa, khói cho đến cả rừng cây mênh mông luôn hiện diện trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày và trong cả cuộc nổi dậy oanh liệt của dân làng Xô Man. Ngọn lửa xà nu luôn rực đỏ, ấm nóng trong bếp người Xô Man, đó là ngọn lửa duy trì sự sống cho dân làng, ngọn lửa làm khuôn mặt lũ trẻ "lem luốc" khói xa nu. Cũng ngọn lửa ấy đã cháy "rần rật" trong ngôi nhà ưng của già làng, nơi dân làng lặng yêu kính cẩn quây quần bên ngọn lửa xà nu, lắng nghe cụ Mết kể về cuộc đời Tnú, về lịch sử làng Xô Man.
Cây xà nu được miêu tả trong một bối cảnh cụ thể, đó là cánh rừng chịu một số phận đau thương bởi sự tàn phá khốc liệt của bom đạn kẻ thù.
Truyện ngắn bắt đầu bằng những câu văn gợi ra không khí dữ dội, khốc liệt của chiến tranh: "Làng ở trong tầm đại bác...Ngày nào cũng bị bắn hai lần....Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào những ngọn đồi xà nu". Như vậy là cả "làng" và "xà nu" đều là đối tượng hủy diệt trực tiếp và tàn bạo của bom đạn kẻ thù, sự sống đẹp đẽ, an lành và bình dị đang bị đập trong tư thế đối đầu với sự hủy diệt phi lý, phi nhân tính, với cái chết phi tự nhiên; những sự sinh tồn vĩ đại, đẹp đẽ của cả thiên nhiên và con người đang đứng trước mối đe dọa của sự diệt vong. Sự tàn phá mang tính hủy diệt của bom đạn kẻ thù đã khiến "cả rừng xà nu hàng vạn cây, không có cây nào không bị thương".
Cấu trúc câu phủ định tạo ấn tượng về tính chất tuyệt đối, làm tăng thêm sự thảm khốc đau thương, cùng cách diễn đạt mang sắc thái nhân hóa về cả một khu rừng "bị thương" khiến câu văn trần thuật nhưng mang âm hưởng xót xa. Nỗi đau của xà nu được miêu tả trong nhiều mức độ và sắc thái: khi là sự xót xa cho những cây non "nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết"; khi lại là cái đau dữ dội của những cây xà nu trưởng thành bị đạn giặc "chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão"; và cũng có cả những "vết thương...chóng lành" trên những thân cây xà nu cường tráng. Nguyễn Trung Thành còn đặc tả dấu tích của những vết thương ấy: "...nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi gần gần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn".
Hình tượng xà nu gợi liên tưởng tới những đau thương của dân làng Xô Man giai đoạn tiền khởi nghĩa. Nó gợi ra những đau thương tang tóc của người dân làng Xô Man. Có thể nói lịch sử của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là những trang đầy máu và nước mắt. Trong những ngày đen tối ấy, bao quần chúng trung kiên bị kẻ thù giết hại: anh Xút bị treo cổ trên cây trên cây Vả đầu làng, bà Nhan bị chặt đầu cột tóc trên đầu súng, mẹ con Mai bị chết bởi những trận mưa đòn của lũ giặc hung tàn...đất chất tội dày thêm, tội ác quân thù chồng chất và tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của nhân dân càng lúc càng ngút lên cao vợi.
Qua hình tượng đau thương của những cánh rừng xà nu bị tàn phá, Nguyễn Trung Thành đã khắc họa sâu đậm nỗi xót xa cho thiên nhiên và cuộc sống con người trên mọi miền tổ quốc, nỗi căm giận với kẻ thù tàn bạo khi sự sống tươi đẹp và an lành bị hủy diệt thảm khốc trong khói lửa chiến tranh. Rừng xà nu gợi cảm hứng về một sự sống kiên cường, hiên ngang, mạnh mẽ, vượt lên mọi sự hủy diệt của bom đạn kẻ thù.
Xà nu là loài cây khao khát sống, khao khát vươn lên đón nhận ánh sáng của bầu trời: "Trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khỏe như vậy...Cũng ít có loài cây nào ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng". Những đặc điểm này của xà nu đã gợi ra cho người đọc những liên tưởng về tâm hồn và cách sống phóng khoáng của những người dân Tây Nguyên ưu tự do, không cam chịu sống cảnh chật hẹp, tù túng, không chấp nhận cuộc sống nhẫn nhục tối tăm.
Lời khẳng định đầy tự hào của già làng: "không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên". Trong đoạn kết, tác giả lại miêu tả hình ảnh "vô số cây non đang mọc lên" quanh những cây xà nu mới bị đại bác đánh ngã - mở ra sự nối tiếp thế hệ liên tục không ngừng nghỉ của người dân Tây Nguyên. Bao nhiêu năm dân làng Xô Man nuôi giấu cán bộ, lúc đầu thanh niên đi, giặc bắt và treo cổ anh Xút; sau người già thay thanh niên, giặc lại bắt và giết bà Nhan - chặt đầu, cột tóc, treo đầu súng; đến lũ trẻ như Tnú, Mai lại thay thế người lớn với một niềm tin sâu sắc như lời dạy của già làng: "cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn". Đến khi anh Quyết hi sinh, Tnú lại thay anh hoạt động cách mạng. Sau này Mai bị giặc giết, Tnú bị tra tấn dã man, được dân làng cứu sống rồi đi bộ đội, Diết lại bước tiếp anh chị trở thành một bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội, Tnú cũng nhận thấy sự trưởng thành của Diết: "....rồi Diết sẽ lớn lên, con bé ấy vững hơn cả chị nó".
Tiếp bước Mai, Tnú, Diết, sau này sẽ là thế hệ của bé Heng - ngày Tnú ở nhà nó mới đứng ngang bụng anh, ba năm sau khi Tnú về thăm làng, nó đã đeo được khẩu súng trường, lầm lì, nhanh nhẹn như một chàng trai Tây Nguyên đích thực.
Mở đầu và kết thúc lại là những hình ảnh của những "cánh rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời". Đó là bức tranh thiên nhiên thơ mộng và hùng vĩ, đem đến chất trữ tình lãng mạn cho tác phẩm. Ngoài ra, nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, phép liên tưởng ứng chiếu song hành đã khiến xà nu trở thành biểu tượng cho số phận đau thương và cuộc sống, chiến đấu hào hùng oanh liệt của người dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Nêu ý nghĩa hình tượng rừng xà nu mẫu 2
Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành – bút danh Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên”; thì trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt người đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong tác phẩm chính là hình tượng cây xà nu.
Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi bếp lửa gia đình, khói xà nu nhuộm bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi sáng sân nhà Ưng trong những đêm lễ hội…”. Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà nu. Sự sống của dân làng Xô Man đều gắn liền với những cánh rừng xà nu.
Khi Nguyễn Trung Thành viết : “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng nó bắn đã thành lệ, ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn”, nhà văn đã phản ảnh không khí căng thẳng của thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự sống và cái chết. Nổi bật trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những đặc điểm nổi bật của câu xà nu. Cũng như bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và khí trời “trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khỏe đến vậy… ít có loài cây nào ham ánh sáng đến thế” cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên giữa bầu trời cao rộng.
Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như bao cánh rừng khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷ diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt “cạnh cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Tư thế vươn lên mạnh mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh “đố chúng nó giết được cây xà nu đất ta”. Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng xà nu vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ “cứ thế hai ba năm sau, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng Xô man”.
Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, Nguyễn Trung Thành đã dựng lên thật thành công và rõ nét, ấn tượng về hình tượng cây xà nu. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trung Thành còn đặt hình tượng cây xà nu vào trong quan hệ đối chiếu sóng đôi với con người mảnh đất Tây Nguyên. Nếu cây xà nu là một loại cây ham ánh sáng và khí trời, thì người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin vào Đảng, đi theo bước chân cách mạng như muôn cây vẫn hướng vào ánh sáng mặt trời. Nếu cây xà nu bị tàn phá, huỷ diệt bởi đạn bom, khói lửa thì những người dân Tây Nguyên phải chịu bao đau thương mất mát do chính kẻ thù gây ra. Bao nhiêu người bị giặc giết chết như những cây xà nu bị chặt đứt ngang nửa thân mình, bao nhiêu người còn sống mà phải mang trong mình bao nỗi thương đau. Bằng cách miêu tả hình ảnh cây và người trong quan hệ sóng đôi như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu tội ác dã man của kẻ thù để qua đó tác giả giúp ta hình dung rõ hơn những thảm cảnh dân ta phải chịu do bọn giặc gây ra.
Cũng giống như những cánh rừng quê hương, như những con người Việt Nam vẫn ý thức được rằng:
“Gươm nào chia được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”
Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã thay nhau tiếp nối đứng lên. ánh sáng của niềm tin “Đảng còn thì núi nước này còn” đã soi đường chỉ lối cho những bước chân đến với cách mạng. Thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau tiếp nối đứng lên; anh Sút bà Nhan bị giặc giết, đi thay họ tiếp tế nuôi quân đã có TNú và Mai. Cứ như thế, các thế hệ người Tây Nguyên đã thay nhau giữ vững ngọn lửa truyền thống, thay nhau giữ vững ý chí đánh giặc kiên cường, để giữ làng, giữ nước của dân làng Xô man nói riêng và của người Tây Nguyên nói chung.
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Trung Thành, cây xà nu hiện lên sừng sững, đồng hành với những bước đi, cuộc sống của dân làng Xô man. Gắn bó với cánh rừng anh dũng, kiêu hùng, những người dân Tây Nguyên như được tiếp thêm sức mạnh để đứng lên chiến đấu. Và gắn bó với con người Tây Nguyên ân tình, thuỷ chung, trung dũng như thế. Cây xà nu cũng luôn luôn sánh bước cùng họ để họ có cuộc sống bình yên hơn; để “hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn” chứ không nhằm vào những người dân vô tội lầm than.
Cây xà nu là hình tượng mang đậm chất lý tưởng, tiêu biểu cho phẩm chất, số phận của người dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm mang đậm chất sử thi, tính hào hùng, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn “Rừng xà nu”. Để xây dựng một hình tượng xà nu như thế, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng những câu văn miêu tả, những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc đặc sắc, cùng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, giọng văn miêu tả trong tác phẩm rất linh hoạt.
Có đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta mới cảm nhận hết vẻ đẹp hình tượng cây xà nu. Hình tượng này đã góp phần tạo nên một “Rừng xà nu” trọn vẹn, mang đậm giá trị văn học. Nguyễn Trung Thành đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học dân tộc.
Nêu ý nghĩa hình tượng rừng xà nu mẫu 3
Tây Nguyên mảnh đất của những cánh rừng đại ngàn, của những con chân chất nhưng mang trong mình sức sống và khát vọng sống mãnh liệt, bắt gặp sức sống và khát vọng sống rất Tây nguyên ấy qua tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Ra đời vào giữa năm 1965 trong những ngày bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ của Mĩ ở miền Nam nước ta, tác phẩm thấm đượm không khí, tinh thần thời đại. Dường như qua mỗi trang văn ta được chiêm ngưỡng mỗi trang đời; có cái lay động của những tâm hồn, những tấm lòng nhiệt huyết kiên cường có cái chân xác của những suy nghĩ những triết lí chiêm nghiệm thành thực, sâu sắc, có cái linh thiêng của hơi thở dân tộc hào hùng...
Với tiêu đề vừa lạ vừa quen, Rừng xà nu dường như đã bao chứa được cả khí vị khó quên của rừng đất Tây Nguyên, cái nồng nàn linh diệu thanh âm cuộc sống. Với một nhà văn nhất lại là nhà văn có tài, việc đặt tên cho tác phẩm - đứa con đẻ tinh thần của mình - là một việc làm hết sức quan trọng ý nghĩa. Bởi ở đó nó dồn chứa tình cảm xúc của nhà văn, ở đó nó ghi dấu linh hồn tác phẩm. như thế để thấy rằng trong ba thanh âm khỏe khoắn rất giản dị rừng xà nu kia hoàn toàn chẳng phải là sự ngẫu nhiên hay vô tình của tác giả.
Đi suốt chiều dài tác phẩm, xà nu là hình tượng bao trùm là mạch sống hồn tác phẩm. Trước hết ta bắt gặp đó là vẻ đẹp rất thực, rất động của núi rừng tây Nguyên hiển hiện qua những dáng nét xà nu kiêu dũng, qua những mầm sống căng ngọt nồng nàn, khúc tráng ca về sức sống bất diệt được mở ra trong một âm điệu đều đều, chậm rãi mà không kém phần gay gắt, kiên cường: "làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc" thế đứng kia dường như đã là sự định sẵn, hai hình ảnh đối chiếu cùng như thách thức nói lên cái đau thương các mát mát vẫn xảy ra trên đất này và để bật lên một điều rằng dù sự tàn phá có khốc liệt đến thế nào thì làng vẫn tồn tại, vẫn bất khuất sự sống vẫn nhịp nhàng, đều đặn, không phải vô tình, mà nhà văn điểm qua hầu hết những thời khắc tàn phá của quân địch, chúng liên tiếp bắn phá coi đó như một cái lệ cần làm, phải làm qua từng câu văn hình ảnh sừng sững của làng trong tầm đại bác cứ dần mà đi mà hiển hiện thay thế dần bằng ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn, xà nu đã tiếp thêm sự sống cho dân làng (cùng với con nước lớn) bằng cách hứng mưa đỡ đạn về mình. Một sự vô tình mà hữu ý của tạo hóa chăng? Cây sinh ra là để che chở cho con người. Và một điều không tránh khỏi cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương, nhưng cái làm nên một rừng xà nu không phải là ở đó, ngay trong cái chết cây vẫn kiêu dũng vẻ đẹp của mình không ào ào như một trận bão. Câu văn không hề chìm lặng mà như thăng hoa kết tụ trong một vẻ đẹp đến sững sờ "ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề. thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt". Sự sống lấn át cái chết và bất lực nhà văn cũng như chạy đua với vẻ đẹp đầy chất thơ của xà nu, một vẻ đẹp hùng tráng man dại đẫm tố chất núi rừng. Đặc biệt gây ấn tượng về sức sống bất diệt của cây khi tác giả nhấn đi nhấn lại trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Bên một cây ngã xuống đã có liền bốn năm cây con vươn dậy lao thẳng lên bầu trời, chúng lao lên để đón nhận ánh sáng và kỳ diệu làm sao thứ ánh nắng ấy như chỉ để dành riêng cho loài cây bất diệt này "từng luồng lớn thẳng lắp, lóng lánh vô số hại bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mơ màng". Câu văn như có cánh đẫm chất thơ tràn đầy chất nhạc và nõn nà tươi mới hình ảnh hương vị, đưa ta đến với vẻ đẹp sống động rất đỗi nên thơ, tráng lệ của cây núi hương rừng. Hiện hữu trong tác phẩm xà nu là hình tượng bất khuất "đạn đại bác không giết nổi chúng, cây vẫn vươn mình lớn ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng... "In đấu trong toàn bộ tác phẩm nét khắc tạc về một đồi xà nu cạnh con nước lớn, như đồn tụ biết bao yêu thương trân trọng nó trở thành điểm nhìn điểm gọi thức dậy nhưng vô hình bao la. Xà nu đẹp ở dáng vẻ kiêu hãnh, ở tố chất núi rừng và hơn cả vẻ đẹp ấy không đơn độc xa lạ mà quấn quyện với cuộc sống con người. Vì thế tìm đến hình tượng xà nu ta tìm đến một con người hiện hữu tìm đến một tâm hồn ấm áp chân thành, cây hay cũng chính là nét ẩn dụ, nét biểu tượng cho vẻ đẹp con người.
Trong sự tiếp nối bất diệt, hình tượng dân làng Xô Man đã được hiện lên cây và người chiếu ứng tỏa sáng làm đẹp lẫn nhau. Nếu như cây đã phải chịu bao đau thương thì dân làng Xô Man cũng đã nếm trải biết bao mất mát. Trên mảnh đất này đã có biết bao người ngã xuống máu của đồng bào Xô Man, máu của Đảng của cách mạng đã thấm quyện, lửa đã cháy trên mười ngón tay Tnú, những đau thương mất mát chất chồng đã khiến những vết sẹo trong lòng người không lên da non được... Nhưng trước bao nhiêu thương đau dân làng vẫn không gục ngã. Như cây xà nu không sức mạnh nào có thể tiêu diệt nổi người dân Xô Man là hình ảnh kiên định như thách thức với bão tố cuộc đời dòng chảy thời gian.
Cụ Mết là biểu tượng cho sức quật khởi của một truyền thống lịch sử hào hùng đúng như hồi ức của chính tác giả: ông là cội nguồn, là Tây Nguyên của thời đất nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay, ông như lịch sử bao trùm nhưng không che lấp đi sự nối tiếp và mãnh liệt ngày càng mãnh liệt hơn tự giác hơn của các thế hệ sau. Trong vẻ đẹp quắc thước của cụ ta gặp lại sức mạnh núi rừng âm vang, hào hùng. Đó là nét kiêu dũng của bộ ngực "căng như một cây xà nu lớn, là nét từng trải của đôi bàn tay" sần sùi như vỏ cây xà nu, là "ồ ồ âm thanh quen thuộc dội vang trong lồng ngực...". Mỗi lời dặn dò chiêm nghiệm của cụ lại là một bài học, một sự khẳng định về sức mạnh, vẻ đẹp con người Xô Man: "không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta, cây mẹ ngã, cây con mọc lên.
Và quả thật đi suốt chiều dài tác phẩm ta luôn thấy ấm nóng hơi thở truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là sự trưởng thành của Tnú, của Dít, là chú bé liên lạc Heng với vẻ đẹp hồn nhiên, khỏe khoắn...
Hình tượng xà nu bao trùm ẩn hiện trong tác phẩm, nó như sự âm ỉ mà bừng sống mãnh liệt của dân làng Xô Man. Xà nu dũng mãnh chở che sự sống dân làng, xà nu quấn quyện nồng nàn với những tâm hồn thơ trẻ mặt mày lem luốc khói xà nu, xà nu dẫn đường chỉ lối đi tìm cách mạng, làm cách mạng... Mỗi con người Xô Man là một mảnh hồn riêng khắc lạc nên vẻ đẹp kiêu dũng xà nu, Con người Xô Man cũng lớn dậy cùng sức sống bất diệt của thiên nhiên hoang dại. Sức sống ấy khi là cụ Mết gân guốc sâu sắc trước cuộc đời khi là anh Tnú, là Mai là biết bao những tấm lòng đã anh dũng hy sinh cho mảnh đất quê hương... và tiêu biểu sống động nhất là Tnú - người con của núi rừng, của bản làng...
Sinh ra và lớn lên trong sự chở che đùm bọc của dân làng Tnú mang thân phận mồ côi khổ nghèo cơ cực. Đời anh khổ nhưng bụng anh sạch trong như nước suối làng, tâm hồn anh gắn bó quyện hòa với từng mảnh đất từng con người quê hương. Sớm được giác ngộ cách mạng Tnú đã theo chân buôn làng hòa mình vào con đường của Đảng, tiếp nối những bước chân anh quyết đã đi. Tnú sống chân thành, trung thực, trung thực với chính mình. Có cái gì như ngộ nghĩnh trong chi tiết anh lấy đá đập vào đầu mình để nhét chữ nhưng ở đó là cả vẻ đẹp anh hùng gan góc về sau. Giống như cây xà nu vươn lên trong đau thương mất mát, những ngày đi theo cách mạng chịu biết bao kìm kẹp tù đày tái tê nỗi mất vợ mất con và những di tích dã man trên lưng dọc ngang vết chém của kẻ thù nhưng tất cả không gì có thể quật ngã được anh. Sức sống bất diệt ấy như sự thách thức đầy kiêu ngạo trước kẻ thù, ta nhớ mãi bàn tay Tnú, bàn lay gắn với tính cách, với cuộc đời với chiến công của anh. Đó là bàn tay trung thực cầm phấn tập viết, cầm đá đập vào đầu mình, bàn tay yêu thương bàn tay nghĩa tình nắm chặt tay Mai, bàn tay ghi dấu những chứng tích về tội ác kẻ thù, bàn tay quật khởi...
Mười ngón tay bị đốt đã trở thành mười ngọn đuốc châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy căm thù trong đôi mắt mở to trừng trừng quyết liệt, ta thấy ánh lên cái dữ dội cái man dại lửa đuốc xà nu không gì có thể dập tắt được khi mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt thì ngọn lửa căm thù càng thôi thúc, nhắc nhở anh những thương đau uất nghẹn để bùng lên sức mạnh trả thù. Và đôi bàn tay Tnú đã trực tiếp bóp chết kẻ thù, tiêu diệt những thằng Dục những con người bẩn thỉu tàn ác. Sức mạnh man dại xà nu phải chăng đã dồn chứa trong đôi bàn tay ấy, bàn tay biểu tượng của sự sống của chiến đấu, trở thành niềm tự hào chân chính của dân làng Xô Man.
Nhưng cũng trong đôi bàn tay ấy không chỉ là vẻ đẹp, là sức mạnh quật khởi hào hùng mà ở đó còn là quy luật của một chân lý muôn đời muôn thuở: khi kẻ thù đã cầm súng, mình phải cầm giáo.
Vâng, lửa xà nu, lửa sẽ là bạn, là tình nếu ta biết thuần thục mà sử dụng. Nhưng cũng ngọn lửa ấy thôi lửa của xà nu thân thiết sẽ trở thành kẻ thù của ta trở thành vật đốt cháy mười ngón tay Tnú. Câu nói trầm hùng vang vọng trong tác phẩm được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc: Nhớ không Tnú, mày cũng không cứu được vợ con mày và dân làng Xô Man cũng không cứu được vợ con Tnú. Bởi vì tất cả chỉ có hai bàn tay không mặc dù trong đầu họ có lý tưởng trong tim họ có dòng máu mạnh mẽ của núi rừng. Nhấn một điều như thế để đi tới một chân lý hai bàn tay phải biết mài gươm mài giáo, biết cầm mác cầm súng tiêu diệt kẻ thù. Và quả thật khi ta đã đứng lên rừng núi đã vươn dậy thì giặc phải bỏ xác trên đất này, quanh đống lửa nhà đã ghi ấn sự nhục nhã của chúng.
Rừng xà nu là vẻ đẹp bất diệt của sự sống không bao giờ tàn lụi. Câu chuyện tái hiện một thiên nhiên man dại với những cuộc đời số phận hào hùng, bất khuất cũng chính là tái hiện một hiện thực cách mạng miền Nam từ những ngày đen tối đến những ngày đồng khởi. Hình tượng xà nu nổi bật xuyên suốt tác phẩm, câu chuyện mở ra trong vẻ đẹp mãnh liệt của sự sống trước đau thương mất mát để rồi khép lại vẫn là hình ảnh hào hùng sự thách thức như thêm phần kiêu bạc bởi bên bốn năm cây xà nu đã bị đánh ngã đã có vô số những cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú khỏi mặt đất nhọn hoắt như những mũi lê.
Với hình tượng xà nu Nguyễn Trung Thành đã đem đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu mà vẫn hòa hợp đồng điệu trong cái nhìn thời đại. Hình tượng vẫn gần gũi quen thuộc trong cảm quan cách mạng lành mạnh tươi sáng. Qua hình tượng rừng xà nu cũng là biểu tượng cho những con người những cuộc đời dân làng Xô Man anh dũng kiên cường tác phẩm đã tỏa sáng một câu chủ đề tư tưởng rất khỏe khoắn, rất thời đại; ca ngợi sức sống bất diệt của con người đồng thời chỉ ra quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam khi kẻ thù đã cầm súng mình phải cầm giáo.
Câu chuyện về một Tây Nguyên xa xôi trong nỗi ám ảnh của Nguyễn Trung Thành đã dẫn ta đến một thế giới của một mảnh đất tuy đau thương mà ngát thơm căng tràn sự sống. Hình tượng xà nu vừa mang được cái man dại mãnh liệt của vẻ đẹp thiên nhiên vừa mang nét linh diệu, ấm áp hào hùng của hơi thở cuộc đời. Vẻ đẹp tác phẩm được kết tụ trong những ánh sắc núi rừng hấp dẫn và thăng hoa trong ý nghĩa biểu tượng rất chân thực, rất cao đẹp.
Xúc cảm thiêng liêng, tình yêu quấn quyện đượm nồng đã dẫn tụ trong một hình ảnh kỳ vĩ, trong một hình tượng ngời ngợi ngọt căng sự sống. Rừng xà nu xứng đáng được coi là biểu tượng cho những gì bất diệt hào hùng của nhân dân của dân tộc, của thời đại, là mạch nguồn truyền thống Việt Nam.
Nêu ý nghĩa hình tượng rừng xà nu mẫu 4
Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên. Qua hai cuộc kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung cấp cho Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh đất âm vang rộn tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những người con trung dũng, kiên cường. Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành – bút danh Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên”; thì trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt người đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong tác phẩm chính là hình tượng cây xà nu.
Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi bếp lửa gia đình, khói xà nu nhuộm bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi sáng sân nhà Ưng trong những đêm lễ hội…”. Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà nu. Sự sống của dân làng Xô Man đều gắn liền với những cánh rừng xà nu.
Khi Nguyễn Trung Thành viết : “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng nó bắn đã thành lệ, ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn”, nhà văn đã phản ảnh không khí căng thẳng của thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự sống và cái chết. Nổi bật trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những đặc điểm nổi bật của câu xà nu. Cũng như bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và khí trời “trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy… ít có loài cây nào ham ánh sáng đến thế” cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên giữa bầu trời cao rộng.
Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như bao cánh rừng khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷ diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt “cạnh cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Tư thế vươn lên mạnh mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh “đố chúng nó giết được cây xà nu đất ta”. Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng xà nu vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ “cứ thế hai ba năm sau, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng Xô man”.
Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, Nguyễn Trung Thành đã dựng lên thật thành công và rõ nét, ấn tượng về hình tượng cây xà nu. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trung Thành còn đặt hình tượng cây xà nu vào trong quan hệ đối chiếu sóng đôi với con người mảnh đất Tây Nguyên. Nếu cây xà nu là một loại cây ham ánh sáng và khí trời, thì người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin vào Đảng, đi theo bước chân cách mạng như muôn cây vẫn hướng vào ánh sáng mặt trời. Nếu cây xà nu bị tàn phá, huỷ diệt bởi đạn bom, khói lửa thì những người dân Tây Nguyên phải chịu bao đau thương mất mát do chính kẻ thù gây ra.
Bao nhiêu người bị giặc giết chết như những cây xà nu bị chặt đứt ngang nửa thân mình, bao nhiêu người còn sống mà phải mang trong mình bao nỗi thương đau. Bằng cách miêu tả hình ảnh cây và người trong quan hệ sóng đôi như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu tội ác dã man của kẻ thù để qua đó tác giả giúp ta hình dung rõ hơn những thảm cảnh dân ta phải chịu do bọn giặc gây ra. Cũng giống như những cánh rừng quê hương, như những con người Việt Nam vẫn ý thức được rằng:
“Gươm nào chia được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”
Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã thay nhau tiếp nối đứng lên. ánh sáng của niềm tin “Đảng còn thì núi nước này còn” đã soi đường chỉ lối cho những bước chân đến với cách mạng. Thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau tiếp nối đứng lên; anh Sút bà Nhan bị giặc giết, đi thay họ tiếp tế nuôi quân đã có Tnú và Mai. Cứ như thế, các thế hệ người Tây Nguyên đã thay nhau giữ vững ngọn lửa truyền thống, thay nhau giữ vững ý chí đánh giặc kiên cường, để giữ làng, giữ nước của dân làng Xô man nói riêng và của người Tây Nguyên nói chung.
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Trung Thành, cây xà nu hiện lên sừng sững, đồng hành với những bước đi, cuộc sống của dân làng Xô man. Gắn bó với cánh rừng anh dũng, kiêu hùng, những người dân Tây Nguyên như được tiếp thêm sức mạnh để đứng lên chiến đấu. Và gắn bó với con người Tây Nguyên ân tình, thuỷ chung, trung dũng như thế. Cây xà nu cũng luôn luôn sánh bước cùng họ để họ có cuộc sống bình yên hơn; để “hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn” chứ không nhằm vào những người dân vô tội lầm than.
Cây xà nu là hình tượng mang đậm chất lý tưởng, tiêu biểu cho phẩm chất, số phận của người dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm mang đậm chất sử thi, tính hào hùng, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn “Rừng xà nu”. Để xây dựng một hình tượng xà nu như thế, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng những câu văn miêu tả, những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc đặc sắc, cùng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, giọng văn miêu tả trong tác phẩm rất linh hoạt.
Nêu ý nghĩa hình tượng rừng xà nu mẫu 5
Không biết từ bao giờ, mảnh đất xứ người đã trở thành quê hương thứ hai của những người xa quê. Quang Dũng đã từng lưu luyến với mảnh đất Tây Bắc với những con người hồn hậu, Tố Hữu cũng ngậm ngùi trước cuộc chia ly tiếc nuối với người dân Việt Bắc. Ến đến với Nguyễn Trung Thành, ta cũng thấy một cảm giác gắn bó sâu nặng của ông với mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Đọc “Rừng xà nu”, ta không chỉ thấy tình cảm sâu nặng của ông với con người Tây Nguyên mà thấy sự gắn bó và yêu thương của ông với đại ngàn. Có lẽ cũng bởi lẽ ấy nên hai chi tiết đầu và cuối tác phẩm “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy khác gì các đồi xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.” và “Ba người đứng ở đó trông trông ra xa đến hút tầm mắt cũng không thấy khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy theo chân trời” như một bức tranh thu nhỏ còn vương vấn lại trong tâm trí người đọc.
Nguyễn Trung Thành sinh năm 1932, quê ở huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam. Những năm tháng lăn lộn cùng cuộc chiến tranh chống Pháp đã giúp ông hiểu hơn về Tây Nguyên để cũng từ đó, nhiều tác phẩm có tiếng vang xuất hiện như trường ca “Đất nước đứng lên” hay bộ truyện và ký “Trên quê hương người anh hùng Điện Ngọc”. “Rừng xà nu” được viết năm 1965, là một trong các tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyên Ngọc viết về những ngày tháng chống đế quốc Mĩ. Tác phẩm là câu chuyện của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh chống Mĩ nhưng bên cạnh đó là hình ảnh về cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận mà hai chi tiết trên đã góp phần thể hiện rõ ràng điều đó.
Trước hết ta cần biết “chi tiết” là các yếu tố có trong tác phẩm thể hiện tư tưởng của truyện. Chi tiết cũng có thể là các yếu tố nhỏ của tác phẩm nhưng thể hiện được nội tâm của nhân vật và ý nghĩa của truyện. Chi tiết có thể bắt gặp trong thơ ca hoặc văn xuôi bao gồm chi tiết miêu tả thiên nhiên, miêu tả con người, chi tiết miêu tả hành vi, chuyển biến tâm lý của nhân vật. .. góp phần quan trọng thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Hai chi tiết đầu và cuối trong tác phẩm “Rừng xà nu” cùng là hai chi tiết có chung chủ đề là miêu tả vẻ đẹp bất tận của cánh rừng xà nu lại được thể hiện ở hai vị trí khác nhau, phải chăng dụng ý nghệ thuật của hai chi tiết cũng khác nhau?
Mở đầu tác phẩm là bộ tranh miêu tả cánh rừng xà nu trong thiên nhiên luôn có sức sống kiên cường mạnh mẽ “Cạnh một cây xà nu mới đổ xuống đã có bốn năm cây con mọc lại, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên phóng thẳng trên trời”. Nguyễn Trung Thành đã nói về sức sống ấy qua một chi tiết có tính khái quát cao “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa gần hết tầm mắt cũng không thấy khác ngoài các đồi xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.” Trong bộ tranh còn có cả sự đau đớn của “những cây bị cắt cụt ngang nửa thân mình ngã ầm ầm như một trận bão”, có cả “những cây vừa mới lớn ngang tầm tay người đã bị đại bác chặt đứt làm đôi”. Nhưng ở đó cũng có cả nhiều cây với “các vết thương của chúng mau liền lại trên một thân thể cường tráng” và những cây mới mọc “ngọn xanh rờn hình đầu mũi tên bay vút qua trời”. Những đồi xà nu nối tiếp chạy đến chân trời ấy mở nên một khoảng không gian rộng lớn với các cánh rừng xà nu mọc san sát nhau trải dài. Trong thực tế cây xà nu có sức sống mạnh mẽ lại hay mọc như rừng nên với Nguyễn Trung Thành, kể cả bom đạn có ném trúng, có huỷ diệt thì các cây xà nu ấy vẫn luôn đứng vững và có sức sống dẻo dai, bền bỉ.
Khép lại tác phẩm, nhà văn không sử dụng hình ảnh người anh hùng Tnú đã bắn hạ tên lính trong đồn địch bằng ngọn đuốc sáng rực giữa đêm khuya. Nguyễn Trung Thành kết lại câu chuyện là hình ảnh của các cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận như một khúc vĩ thanh cứ ngân nga trong tim người đọc. Cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường gia nhập quân giải phóng. Ba người đứng ở đó nhìn rất xa, lúc này cánh rừng xà nu không được miêu tả trực tiếp dưới góc nhìn của nhà văn mà lại được thể hiện từ cách nhìn của từng nhân vật. “Ba người đứng ở đó trông trông ra xa đến hút tầm mắt cũng không thấy khác gì cánh rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Chi tiết cuối ấy lại được mở cả ở bề ngang và về độ rộng. Là một bức tranh thiên nhiên nhưng nó không mang một khoảng không gian cố định. Không phải “hết tầm mắt” – không phải chỉ dừng chân tại sự giới hạn trong khả năng của con người mà là “hút tầm mắt” nghĩa là bức tranh ấy không chỉ bao la về bề rộng lớn mà còn có cả bề cao và bề xa của nó. Không phải dừng chân ở “những đồi xà nu” mà là “những rừng xà nu”. Không gian được mở rộng và trải dài vô hạn.
Hai chi tiết được bố trí ở đầu và cuối tác phẩm làm thành một kết cấu chặt chẽ, đầu cuối cố định. Kiểu kết cấu này ta cũng đã được bắt gặp trong “Chí Phèo” của Nam Cao. Nếu như trong “Chí Phèo” hình ảnh là một lò gạch hoang tàn gợi nên sự ám ảnh cho người đọc bởi những loay hoay tuyệt vọng của người nông dân cả hai chi tiết trong tác phẩm “Rừng xà nu” đều mang đầy tính gợi mở. Đầu tác phẩm rừng xà nu gợi ra câu chuyện của cuộc đời, con người trong chiến tranh, kết thúc tác phẩm rừng xà nu khép lại câu chuyện nhưng là kết lại bi kịch và mở thêm khung cảnh mới – khung cảnh tràn ngập màu xanh của sức sống bất diệt.
Hình tượng rừng xà nu xuất hiện ở đầu đến cuối tác phẩm đã góp phần xây dựng hình tượng rừng xà nu trong toàn bộ tác phẩm. Trước hết nó mang nét đặc thù của con người Tây Nguyên, gắn bó với đời sống của buôn làng, nó có mặt trong các sinh hoạt hàng ngày và cả trong cuộc chiến tranh. Đó chính là hình ảnh biểu trưng về sự hy sinh mất mát cũng với sức sống mãnh liệt của con người Tây Nguyên. Hình ảnh xà nu càng bát tận thêm ở chi tiết cuối ấy như muốn minh chứng cánh rừng xà nu tây nguyên dẫu phải hứng chịu bao sự huỷ diệt của chiến tranh thì cũng sẽ tiếp tục bay xa. Tập thể đó cũng như là sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, bao người đã hy sinh và thế hệ khác lại nối tiếp. Nếu như ở chi tiết đầu là “những đồi xà nu nối tiếp đến chân trời” như sự hội tụ của các dân tộc làm nên sức mạnh của tây nguyên thì chi tiết ở cuối tác phẩm đó là “những rừng xà nu nối tiếp chạy lên chân trời” lại là hình ảnh chung của một khối đại đoàn kết, cũng có thể hiểu đây là sự tiếp nối giữa thế hệ này sang thế hệ khác và những thế hệ sau sẽ tiến xa thêm thế hệ trước. Trong tác phẩm đó là hình ảnh chung của những con người trên mảnh đất Tây Nguyên. Thế hệ đi đầu từ cụ Mết thì có anh Quyết, Tnú và Mai và thế hệ nối tiếp là Dít và bé Heng. Như vậy chi tiết cuối của tác phẩm đã mang ý nghĩa khái quát sâu sắc hơn nữa, như một khúc vĩ thanh ngợi ca vẻ đẹp bất tận, sức sống bất diệt của cả thiên nhiên và con người tựa như câu
“Một cây đổ cả rừng cây lại mọc
Người với người đã bao vạn mùa xuân. “
Nguyễn Trung Thành.
Một ý nghĩa khác mà hai chi tiết mang tới trong hai tác phẩm là không khí Tây Nguyên đậm đà. Hình ảnh cây xà nu ấy đã mang tới nét đặc sắc riêng biệt trên mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nói về mỗi một địa danh người ta sẽ liên tưởng ngay đến những nét riêng biệt. Những người dân ở Phú Thọ người ta thường tự hào về cây cọ “xoè ô che nắng” ở quê nhà, người dân Bến Tre lại tự hào bởi hình ảnh quả dừa xiêm mát lạnh còn với người dân Tây Nguyên, bên cạnh cây Kơnia, người ta cũng nhắc đến những cánh rừng xà nu xanh mướt. Cây xà nu mang đậm phong vị Tây Nguyên nó được thể hiện lên trên trang viết của Nguyễn Trung Thành rất sắc nét và chân thật như mang cả hơi thở của miền đất này.
Như vậy, mở đầu là hình ảnh cây xà nu giữa bom đạn vẫn bạt ngàn sắc xanh bất diệt. Kết thúc tác phẩm cũng là sắc xanh trải dài của các cánh rừng xà nu trải dài của những cánh rừng xà nu nối tiếp tận chân trời. Có thể nói hai chi tiết đã gửi đến cho người đọc một ấn tượng sâu đậm với khung cảnh rừng xà nu bạt ngàn bất tận. Hơn mười lần hình ảnh cây xà nu được nhắc đến trong tác phẩm này đã chứng minh sự liên hệ chặt chẽ của rừng xà nu đối với cuộc sống con người. Phải chăng tình cảm được tác giả thể hiện thông qua hình ảnh cây xà nu cũng chính là lòng ngưỡng mộ đối với vẻ đẹp thiên nhiên và con người Tây Nguyên?
Viết về cánh rừng xà nu nói chung với hai chi tiết này nói riêng, Nguyễn Trung thành đã lựa chọn ngôn ngữ của khuynh hướng sử thi. Nhà văn đã tô thêm vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên trên mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nó gợi vẻ đẹp của các cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận.
Hai chi tiết được nhắc đến đều có ý nghĩa rất lớn với chủ đề tư tưởng của tác phẩm. “Rừng xà nu” là một thiên truyện mang ý nghĩa của một khúc sử thi trong văn học cổ đại. Với ngôn ngữ cô đọng, nhiều hình ảnh, tác phẩm đã tái hiện được vẻ đẹp hoành tráng oai hùng của thiên nhiên, của con người và truyền thống văn hoá Tây Nguyên.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu có lần nói rằng: Người cầm bút có tài, có thể lựa chọn trong cái dòng đời cuộn chảy một khoảnh khắc với vài diễn biến ngắn ngủi nhưng đó đôi khi lại là những khoảnh khắc của cả một đời người, một đời nhân loại. Phải chăng Nguyễn Trung Thành cũng đã tìm thấy được khoảnh khắc ý nghĩa đó khi ông miêu tả hình ảnh cánh rừng xà nu vẫn cứ nối tiếp nhau chạy về chân trời.
---------------------------------
Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới các bạn bài viết Nêu ý nghĩa hình tượng rừng xà nu trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Bài viết đã gửi tới bạn đọc ý nghĩa về hình tượng cây xà nu. Mong rằng qua đây các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn 12. Mời các bạn cùng tham khảo thêm các môn Toán 12, Tiếng Anh 12, đề thi học kì 1 lớp 12, đề thi học kì 2 lớp 12...